Diệu Hạnh Giao Trinh
chuyển ngữ
Vi Đà là một vị
thiên tướng hộ Pháp của Phật giáo, tương truyền rằng ngài là một
trong 8 vị đại thần tướng của Nam phương Tăng Trưởng Ðại Thiên Vương,
một trong bốn Ðại Thiên Vương, và là người đứng đầu trong 32 vị thần
tướng thuộc quyền của bốn Ðại Thiên Vương.
Tượng của ngài
thường ở dưới dạng một người trai trẻ, thân mang áo giáp mũ sắt,
hoặc một tay án chày kim cương, hoặc hai tay nâng chày lên, đứng
trong điện Thiên Vương đâu lưng với Phật Di Lặc và đối diện với
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tại sao Vi Đà lại
được thờ ở Thiên Vương Điện, đâu lưng với Phật Di Lặc và đối diện
với Phật Thích Ca ?
Đó là vì ngài đã
từng lập công trạng rất lớn trong việc diệt giặc bảo hộ Phật Pháp.
Vi Đà, trong thánh điển Phật giáo còn được gọi là "Thần Hành Thái
Bảo", vì ngài nổi danh là có tài đi như bay. Tương truyền lúc Như
Lai niết bàn, có một con quỷ mệnh danh là "nhanh như chớp" đến trộm
hai cái răng của Phật rồi chạy mất. Vi Đà cấp tốc đuổi theo, không
lâu sau bắt lại tên cướp lấy lại răng Phật. Từ đó, Vi Đà trở nên một
vị thần hộ pháp nổi danh.
Lúc còn trẻ, Vi Đà
là một chàng trai anh tuấn, uy phong lẫm lẫm, ăn mặc như một võ
tướng nên được tạo tượng khá giống các dũng tướng Trung Quốc như
Triệu Vân, Mã Siêu. Vi Đà cũng là hộ pháp của Quan Âm Bồ Tát, nếu
ngài tu thành chính quả cũng là nhờ sự giáo hóa của Bồ Tát vậy.
Hồi xưa, Vi Đà là
một chàng thanh niên sống ở nông thôn, ven bờ sông Lạc Dương, phủ
Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến.
Cậu là người siêng
năng, lanh lẹ và tốt bụng, thông minh tài giỏi, nổi tiếng là một
người thợ khéo trong vùng. Nhà cậu ở bên bờ sông Lạc Dương. Sông này
rất rộng, nước chảy xiết, vì không có cầu bắc ngang nên dân chúng
hai bên bờ qua lại rất gian nan, phải lệ thuộc vào những chiếc
thuyền chở khách. Bởi vì nước chảy xiết và trũng nước xoáy lại nhiều,
lúc trời tốt qua sông đã không an toàn mà khi mưa to sóng lớn hay
bão bùng thì lại càng nguy hiểm hơn nữa, nên nạn lật tàu rất thường
xảy ra, người táng thân vào bụng cá cũng không phải là ít. Vi Đà đã
bao lần chính mắt trông thấy những thảm cảnh lật tàu như thế, bèn
lập nguyện xây một cây cầu bắc ngang sông, nên trong mấy năm trời
ngày bán giày cỏ, đêm đi đập đá để dành từng đồng, và lúc cậu sắp
sửa xây cầu thì Bồ Tát Quan Âm vân du ở phủ Tuyền Châu, và Ngài có
một đoạn nhân duyên với Vi Đà từ đó.
Mùa xuân hôm ấy,
Bồ Tát Quan Âm tay cầm tịnh bình, chân đạp mây lành, đứng trên không
trung nhìn xuống sông Lạc Dương, bỗng nhiên nghe vọng lên tiếng la
khóc cầu cứu. Ngài cúi xuống, thấy dưới chân mình có giòng sông lớn
cuồn cuộn trào dâng, một ông lão lái đò đang chèo thuyền sang sông
và chiếc thuyền đang bị dòng nước xiết kéo tới một con nước xoáy.
Ông lái thuyền cuống cuồng chống đỡ nhưng chiếc thuyền bị con nước
xoáy làm cho quay mòng mòng, dường như sắp sửa bị lật, hành khách
trên thuyền kinh hoảng trăm bề, đàn bà trẻ con thì khóc la thảm
thiết, tiếng kêu cầu thấu tới mây xanh và tới tai ngài Quan Âm.
Quan Âm Bồ Tát đại
từ đại bi vội lấy nhành dương liễu từ tịnh bình ra, ném xuống chiếc
thuyền đang lâm nạn trên mặt biển, thi thố thần lực áp cho sóng lặng
xuống. Dòng nước giận dữ đang làm cho ba đào cuộn dâng, nước xoáy
trũng sâu đang làm cho con thuyền lắc lư nghiêng ngửa bỗng tự nhiên
bình lặng hiền hoà, con thuyền nhờ thế được thoát cơn hiểm nạn.
Dĩ nhiên ông lái
thuyền không biết mình đã được Quan Âm Bồ Tát cứu giúp, thấy con
thuyền không còn tròng trành xoay vần và thoát ra khỏi con nước xoáy
thì thở hổn hển, phần thì mừng rỡ, phần thì cố lấy lại can đảm để
chèo nốt con thuyến đến bờ đối diện. Thừa khách trên thuyền ai cũng
tự cảm thấy mình đã may mắn thoát chết, và nhớ lại cảnh nguy hiểm
vừa trải qua ai cũng rùng mình rởn ốc.
Hơn ai hết, ngài
Quan Âm hiểu rõ những ý nghĩ, những mong cầu của chúng sinh, vì thế
Ngài lập tức lấy quyết định ra tay làm một điều lợi ích cho dân. Thế
là Ngài hạ mây xuống, biến thành một cô gái chài lưới trẻ tuổi xinh
đẹp, bước lên khoang nói chuyện với ông lão chèo thuyền, hỏi ông có
thể chèo trở về bờ bên kia ngay không ? Lúc đó, một vài người dân
làng cũng vừa đến và cũng muốn qua sông. Ông lão còn chưa lấy lại
hồn vía, bảo rằng :
- Lúc nãy suýt nữa
thuyền bị lật, thoát được hiểm là một điều may mắn không ngờ. Dòng
sông này nước chảy quá mạnh, mỗi lần chèo thuyền tôi đều nơm nớp
phập phồng, nói thật, bây giờ tôi hãy còn quá sợ, không muốn chèo
thuyền về bên kia nữa, nhỡ có chuyện gì xảy ra thì sao ?
Dân làng gấp muốn
qua sông, xuống nước năn nỉ :
- Ông lão ơi, ông
không đưa thì chúng tôi làm sao về được ? Ông là tay nghề lão luyện,
ai cũng đặt tin tưởng vào ông, xin ông chịu phiền một chút giùm đi !
Ông lão lái thuyền
không từ chối được, đành để cho Quan Âm Bồ Tát cùng một vài người
dân làng bước lên thuyền, một lần nữa đưa mái chèo hướng bờ đối diện,
một mặt nói :
- Quý vị không
biết chèo thuyền trên con sông Lạc Dương này nguy hiểm tới mức nào !
Mười năm trở lại, ngày nào tôi cũng chèo thuyền, gặp không biết bao
nhiêu là cảnh nguy hiểm, tạm cho là tôi cứng tay nghề nên may mắn,
lần nào cũng từ cõi chết trở về được. Trên dòng sông này, tôi đã
chính mắt thấy vô số con thuyền bị lật, vô số người chết chìm làm
mồi cho cá. Tôi già rồi, không còn khoẻ nữa, trước sau gì tôi cũng
sẽ phải bỏ thuyền bỏ lái thôi !
Quan Âm Bồ Tát bèn
xen vào hỏi :
- Thưa cụ, sông
này nước chảy xiết, xoáy nước nhiều, chèo thuyền quả thật nguy khốn,
làm sao không xảy ra tai nạn cho được ! Tại sao chúng ta không xây
một chiếc cầu bắt ngang qua sông ? Cháu từ xa tới, chỗ cháu ở, nếu
có dòng sông nào nguy hiểm như thế này cũng đều có cầu bắt qua cả.
Ông lão lái thuyền
thở dài lắc đầu, một vị thừa khách tiếp lời, nói :
- Trăm họ ở đây
trông mong xây một cái cầu từ lâu rồi, quan huyện cũng mấy lần công
bố xây cầu, nay thì kêu gọi đóng góp tiền tài, mai thì yêu cầu đóng
góp thóc gạo, năm nào cũng ra công bố nhưng mấy năm rồi, cầu đâu
không thấy, chỉ thấy hầu bao của quan huyện mỗi năm mỗi phồng to lên
thôi.
Ngài Quan Âm hỏi :
- Dân chúng tự
mình đứng ra xây cầu không được sao ?
Ông lão nghe thế,
cười buồn mà rằng :
- Nói thì dễ, muốn
xây cầu thì một là phải có tiền, hai phải có thợ giỏi. Dân chúng làm
gì có chừng đó tiền, và cũng làm gì có người đủ tài để đứng ra tổ
chức một việc to lớn như thế. Tuy nhiên cách đây vài năm có một anh
chàng tên là Vi Đà cũng đã từng đề cập tới việc xây cầu, đó là một
thanh niên có chí lớn, cũng là một tay thợ khéo nổi tiếng tài giỏi ở
vùng này. Một hôm thấy tôi chèo thuyền quá nguy hiểm, cậu đã nói với
tôi là nhất định sẽ xây cầu. Thế mà về sau lại không thấy cậu xuất
hiện nữa. Có người nói cậu đang ở nhà để dành tiền chuẩn bị việc xây
cầu, mấy năm nay không thấy động tĩnh, có lẽ cậu không để dành được
tiền. Chuyện xây cầu thật không phải dễ !
Quan Âm nghe thế
bất giác cảm thấy hoan hỉ, nghĩ rằng ở đây mà có một chàng trai trẻ
tuổi như thế thật là hy hữu, có cùng một chí nguyện với mình, về sau
giao cho anh ta đứng ra tổ chức việc xây cầu không phải là một điều
thích hợp lắm hay sao ?
Một người dân bình
thường khó mà có thể trù liệu được cần phải có bao nhiêu tiền để xây
cầu, muốn cho việc xây cầu này thành tựu thì chính Ngài phải đứng ra
tìm biện pháp mới xong.
Lúc ấy thuyền đã
cặp bến, những người dân làng đã lên bờ và chia tay nhau ai về nhà
nấy, nhưng cô gái chài lưới không lên bờ mà còn ngồi lại trong
thuyền chìm trong suy nghĩ. Ông lão chèo thuyền cảm thấy kỳ lạ, bèn
hỏi :
- Cô nương, sao cô
không lên bờ ?
- Thưa cụ, cô gái
chài lưới đáp, cháu đang suy nghĩ tới vụ xây cầu, vừa rồi cụ nói có
anh chàng gì đó quyết tâm xây cầu, thật là hy hữu. Nhưng anh ấy một
mình kiếm tiền thì chắc cả đời kiếm cũng không đủ. Tại sao tất cả
chúng ta không cùng tìm cách giúp đỡ anh ấy ?
Ông lão lái thuyền
đáp :
- Cách nào bây giờ,
ở đây ai cũng nghèo khổ cả, còn những người tài chủ có tiền thì ai
mà chịu cắt núm ruột của mình ra !
Cô gái chài lưới
đáp :
- Cụ à, muốn tìm
biện pháp thì không khó, cháu nghĩ trên sông này hễ chưa có cầu là
còn có tai nạn, vì thế cháu muốn giúp một tay.
Ông lão chèo
thuyền nghe thế cảm thấy kỳ lạ :
- Cô ? Cô có biện
pháp nào ? Trừ phi nhà cô có tiền và muốn làm việc thiện.
Cô gái đáp :
- Nhà cháu không
có tiền nhưng cháu có biện pháp, mình có cách nào lấy tiền của nhà
giàu không ?
Ông lão lái thuyền
đáp :
- Lấy tiền của nhà
giàu ? Nhà giàu đời nào để cho mình lấy tiền, cô khéo mơ tưởng viễn
vông.
Có gái dân chài
nói :
- Cụ ơi, cháu có
cách này nhưng cần cụ giúp đỡ, nếu cụ chịu làm chung việc này với
cháu thì mình có thể lấy tiền của nhà giàu được.
Nói xong cô gái
tới gần thầm thì to nhỏ vào tai ông lão, khua tay múa chân ra dấu,
còn ông lão thì cứ thế mà gật gù từ đầu tới cuối.
Cuối cùng ông nói
:
- Được, vậy bắt
đầu từ ngày mai chúng ta bắt đầu thi hành kế hoạch của cô.
Hôm sau, vừa vặn
trúng ngày mồng ba tháng ba, đó là ngày hội đình chùa lớn nhất trong
năm ở phủ Tuyền Châu. Dân chúng từ bốn phương tám hướng đổ dồn về dự
hội, người đi người về thật là náo nhiệt.
Hôm ấy ông lão
cũng chèo thuyền như mọi ngày nhưng hôm nay có điểm khác biệt là có
một cô gái vô cùng xinh đẹp ngồi trong thuyền, còn ông lão thì cười
tươi như hoa, thuyền không cập bến mà lại ngừng ở ngay chính giữa
dòng sông.
Sông Lạc Dương
rộng khoảng năm mươi thước, thuyền ở ngay giữa dòng sông tức là cách
xa hai bên bờ khoảng hai mươi mấy thước. Ông lão lái đò cùng cô gái
cứ ở giữa dòng sông như thế mà chuyện trò, không chịu đưa thuyền về
bến. Người muốn qua sông đứng hai bên bờ mà réo :
- Ông lão ơi, mau
chèo thuyền rước khách, chúng tôi muốn qua sông đây !
Nhưng họ kêu mấy
mặc họ, ông lão không hề màng đến, vẫn bình an giữa dòng sông. Khách
chờ thuyền càng ngày càng đông, ai cũng nhìn thấy chiếc thuyền của
ông lái và ai cũng tò mò không biết ông muốn làm gì, và càng đông họ
càng ồn ào. Nhất là khi họ thấy ngồi trên thuyền là cô gái chài
lưới có một nhan sắc hơn người. Cô gái này thật sự lôi cuốn người ta,
cô mặc một cái áo trên ngắn thêu hoa nhiều màu, dưới là chiếc váy
màu xanh lá cây nhạt thanh nhã nổi lên trên cái quần màu đỏ sậm, đầu
bới tóc cao, tai đeo khuyên bạc, khuôn mặt trái soan đoan trang diễm
lệ, da trắng nõn mịn màng, mắt như nước hồ thu gợi tình, người nào
nhìn cô cũng phải khen thầm là đẹp tuyệt. Trong những người đứng
nhìn, có một số là con nhà hào phú, họ nhìn cô gái mà hồn phách điên
đảo, thần trí rối loạn. Người nào cũng kêu ầm lên :
- Ông lái ơi, mau
trở về chèo thuyền qua sông.
Thấy người chờ
càng ngày càng đông, ông lão mới đủng đỉnh đứng dậy nhìn hai bên bờ
mà vừa chỉ cô gái dân chài mà nói :
- Các vị nghe đây,
hôm nay tôi không chèo thuyền vì tôi có cô cháu tức là cô nương đây,
đã đi từ mãi tận Tô Châu lên đến phủ Tuyền Châu này.
Cháu tôi năm nay
vừa chẵn đôi tám, muốn tìm một chàng trai có duyên có số với mình để
gá nghĩa trăm năm. Từ ngày hôm nay trở đi, cháu tôi sẽ ngồi trên
thuyền, nếu có chàng trai nào muốn cưới cô về làm vợ, bất kỳ là
người nào, đều phải tham dự vào cuộc thi này. Ðiều kiện duy nhất là
phải ném một đồng tiền đồng hay một đồng tiền bạc về phía cháu tôi,
nếu ai ném trúng người cô ấy thì coi như có duyên có số với cô vậy.
Tôi sẽ đứng đây làm trọng tài, mọi người làm chứng, tuyệt đối không
nói sai lời.
Lão lái thuyền nói
xong mọi người vỡ lẽ ra. Những người trai trẻ trong đám đông hiểu
đây là một cuộc thi ném bạc kén chồng, nhìn có gái dân chài xinh đẹp,
ai cũng nghe tim đập rộn ràng, tinh thần sung mãn, nhất là đám vương
tôn công tử thì trở nên như điên như cuồng vậy. Ðó là những người
hiếu sắc và có tiền, họ thấy cô gái này đẹp hơn tất cả những cô gái
khác mà họ đã từng gặp, nên ai cũng muốn ném tiền trúng người cô ấy
để cưới cô về làm vợ, được như thế thì thật là tuyệt vời ! Cô gái
ngồi trên chiếc thuyền đang bồng bềnh ngay giữa lòng sông, cách hai
bên bờ không quá hai mươi mấy thước, nhìn thì thấy tợ như gần ngay
bên cạnh, lo gì ném không trúng ? Những vương tôn công tử, người nào
cũng thèm rõ rãi, sốt ruột, muốn chính mình là người đầu tiên ném
trúng cô nương, họ bèn lập tức lấy tiền đem theo tùy thân tranh nhau
ném về phía cô gái. Trong chốc lát, những đồng tiền từ hai bên bờ
sông bay tới khoang thuyền như mưa.
Tuy nhiên, lạ lùng
thay, tuy bờ không xa và cô gái thấy gần như thể ở ngay bên cạnh, và
chàng thanh niên nào cũng nhắm cô gái cẩn thận trước khi ném nhưng
tiền cứ rơi lên thuyền, không có đồng nào trúng được người cô. Ðám
vương tôn công tử cảm thấy giống như đang ở trong một canh bạc, hễ
hết tiền thì sai người hầu chạy về nhà lấy thêm. Họ cùng nhau tranh
dành, cãi nhau chí choé, thi nhau mà ném từng giỏ, từng giỏ bạc vụn.
Những đồng tiền ấy chỉ xẩy cô gái trong đường tơ kẽ tóc cho nên họ
vừa hận vừa mừng, cho rằng ném lại một lần nữa thì chắc chắn thế nào
cũng trúng, và như thế, họ không ngừng thử ném trở lại, ném cho tới
khi trời tối mà rốt cuộc vẫn chưa ai ném trúng được người đẹp. Lúc
ấy ông lão lái đò mới nói với mọi người là trời đã tối, không thể
tiếp tục ném nữa, ngày mai hãy trở lại ném tiếp.
Chuyện kén chồng
trên thuyền đã làm chấn động cả phủ Tuyền Châu, một đồn mười, mười
đồn trăm, trăm đồn ngàn. Ngày hôm sau, ông lái đò lại chèo thuyền ra
giữa giòng sông, và cô gái chài lưới lại ngồi trên thuyền. Người ham
vui đến xem càng lúc càng đông, chen lấn nhau ở bên này và bên kia
bờ sông, trong ngoài chật ních. Hai bên bến phà huyên náo giống như
một buổi hát xiệc. Những vương tôn công tử chiều qua không ném trúng
cô nương nhưng vẫn chưa mất hy vọng, tiếp tục chuyển tiền tới, những
anh chàng này tâm hồn hoàn toàn si mê điên đảo trước nhan sắc của
tuyệt thế giai nhân nên tổn phí bao nhiêu cũng không tiếc, tiền họ
ném có thể đong thành bồ, thành sọt vậy. Cứ thế hai ngày liền mà vẫn
chưa có ai ném trúng cô nương mà chỉ thấy những đồng tiền cứ rào rào
rơi xuống bên cạnh cô xuống tới khoang thuyền.
Lúc Quan Âm Bồ Tát
lập kế kiếm tiền bằng cách kén chồng ở giữa dòng sông, Vi Đà cũng
nghe nói đến sự việc lạ lùng ấy nên cũng tìm đến xem khung cảnh
huyên náo. Vi Đà là một chàng thanh niên trẻ tuổi, nhìn thấy cô gái
chài lưới trên thuyền cũng bị nhan sắc tuyệt vời của mỹ nhân hớp hồn,
nên cũng đứng ngây người ra nhìn người ngọc. Cậu thọc tay vào túi,
trên thân cũng có vài đồng tiền. Tâm cậu bị chấn động nên cũng muốn
chen vào ném, nhưng lập tức cậu đè nén ý muốn ấy, nghĩ rằng bao
nhiêu đó người ném mà chưa ai ném trúng, mình không nên ném mấy đồng
tiền một cách oan uổng, thì thôi nên bỏ ý nghĩ ấy đi.
Nhưng vừa vặn lúc
ấy có Lữ Động Tân, một trong Bát Tiên, cũng vân du đến chỗ này. Ông
nhìn thấy bên dưới người đông như kiến, không biết đang có chuyện gì
nên đáp mây xuống lẫn lộn trong đám đông người chen vào xem. Ông
biến thành một ông lão tóc trắng như bông, mới nhìn cô gái chài lưới
trên thuyền liền biết ngay đó chính là Quan Âm Bồ Tát và hiểu ngay
tự sự, nên rất ngầm thán phục phương pháp kiếm tiền của ngài Quan Âm
nhưng đồng thời không khỏi cảm thấy buồn cười, thầm nghĩ :
- Đại sĩ, Đại sĩ,
thật đã khổ công tìm cách làm việc thiện để nghĩ ra một diệu kế như
thế. Nhưng hôm nay tôi muốn làm cho Ngài phải xuất đầu lộ diện chơi.
Ngài làm cho con em các nhà hào phú ném tiền một cách oan uổng,
không ai có thể ném trúng Ngài, Ngài kén chồng như thế đủ để xây cầu
rồi, nếu không có chuyện gì xảy ra thì thật là toi công cho đám công
tử thiếu gia kia quá, nên tôi muốn xem Ngài đối phó làm sao nếu phải
làm vợ một kẻ phàm phu !
Lữ Động Tân bèn
đưa mắt tìm một anh chàng thanh niên để giúp anh ta ném trúng cô gái
chài lưới, làm khó dễ Quan Âm Bồ Tát xem sao ! Khéo sao ông lại đứng
ngay bên cạnh Vi Đà, ông thấy anh chàng này phúc hậu lại chín chắn,
chứ không phải loại công tử đẻ bọc điều kia, và ông cũng đã bắt gặp
động tác móc tiền ra rồi lại bỏ vào của anh chàng. Ông nghĩ :
- Được rồi, Đại sĩ,
tôi sẽ làm cho anh chàng này ném trúng Ngài xem Ngài làm sao ?
Thế là ông vỗ vai
Vi Đà, cười nói :
- Này cậu, cậu có
muốn thử một chuyến không ?
Vi Đà bị hỏi bèn
đỏ bừng cả mặt, xấu hổ cúi đầu. Lữ Động Tân nói:
- Cậu không có gì
phải xấu hổ, trai lớn phải có vợ, một tuyệt sắc giai nhân như thế
đang kén chồng thì không nên bỏ qua cơ hội, biết đâu hữu duyên thiên
lý năng tương ngộ, cậu có duyên có phần với cô ấy thì sao ?
Chàng thanh niên
nhìn ông lão nói :
- Ông bác ơi, cháu
cũng muốn thử chứ, nhưng nghĩ lại hai ngày vừa qua, biết bao nhiêu
là vương tôn công tử ném không biết bao nhiêu là tiền mà ném không
trúng, còn cháu chỉ có mấy đồng bạc trên thân, nếu đem ra ném thì
chỉ có phí tiền thôi chứ làm sao trúng được. Hơn nữa, mấy năm vừa
qua, cháu chỉ nghĩ tới có một điều mà thôi, đó là làm sao để dành
tiền xây cầu. Tiền kiếm được hãy còn ít lắm, cháu không thể tự tiện
nghĩ tới lấy vợ của cá nhân mình mà đi tiêu phí những đồng tiền này.
Lữ Động Tân nghe
thế cảm thấy rất mến anh chàng này và nghĩ thầm :
- Thì ra chàng
trai trẻ này cùng có chung một ý nguyện với ngài Quan Âm, thật là hy
hữu, hy hữu ! Ta phải giúp cho anh chàng ném trúng Quan Âm Đại sĩ,
phá Ngài chơi. Rồi khi nào Ngài biết được và có nổi giận thì cũng dễ
gỡ thế bí bằng cách để cho anh chàng này giúp đỡ Ngài trong việc xây
cầu là xong !
Nghĩ thế rồi Lữ
Động Tân nói với Vi Đà :
- Này cậu, để tôi
nói cho cậu biết tại sao cô nương này lại kén chồng. Cô kén chồng
bằng cách này là cũng chỉ vì muốn kiếm tiền xây cầu, cậu và cô ấy
đều có cung một ý chí nên tôi nghĩ rằng cậu sẽ ném trúng. Đôi bên
kết hôn rồi chung lưng sát cánh với nhau với nhau lo chuyện xây cầu
không phải là thượng sách hay sao ? Cậu cứ ném thử đi, nếu đúng
duyên đúng phận, người khác ném mấy cũng không trúng mà cậu ném một
lần là trúng, không tin cậu cứ thử, mà dù ném có không trúng đi nữa
thì tiền này coi như cậu tặng cho cô ấy xây cầu chứ có mất mát đi
đâu, cậu nghĩ tôi nói có đúng không ?
Đúng ngay lúc ấy,
giọng ông lão lái đò vọng tới :
- Bà con làng xóm
ơi, trời đã tối rồi nên hôm nay ngừng ở đây, tôi muốn gác mái chèo
về nhà nghỉ.
Lữ Động Tân nghe
vậy vội thúc Vi Đà ném, Vi Đà luống cuống bèn ném bừa về phía cô gái
một đồng tiền. Có lẽ vì trong suốt hai ngày Ngài Quan Âm dùng thần
lực nên tiền không thể nào trúng tới mình Ngài, nay ông lão chèo đò
đã ra hiệu ngừng để về nghỉ nên Ngài bèn xả thần lực. Thêm vào lại
có Lữ Động Tân cố ý làm cho đồng tiền ném trúng Ngài nên ông thổi
một cái, đồng tiền của Vi Đà theo hơi thần của ông mà rơi lên người
cô gái chài lưới, không rơi bên phải, không rơi bên trái, không rơi
ở trên hay ở dưới mà rơi ngay tim của Ngài. Lúc ấy ai cũng đã ngừng
tay, chỉ còn có Vi Đà ném tiền, người đứng hai bên bờ ai cũng thấy
rõ ràng, thế là sau hai ngày trời cuối cùng cũng có người ném trúng,
không ai bảo ai mà mọi người đều reo hò nhảy cỡn lên vỗ tay hoan hô
:
- Giỏi ! Giỏi !
Trúng rồi ! Trúng rồi ! anh chàng này tốt phước quá !
Quan Âm Bồ Tát
giật mình kinh ngạc, bị ném trúng một cách bất ngờ nên Ngài lúng
túng, không biết chuyện chi xảy ra, bèn nhìn Vi Đà đang được mọi
người hoan hô. Nhìn thấy rồi Ngài giận muốn đứt hơi vì trong đám
đông, có Lữ Động Tân đang nhìn Ngài mà cười ha hả, do đó Ngài biết
ngay là có bàn tay phá rối của Lữ Động Tân.
Có tiếng người kêu
:
- Ông lái đò ơi,
mau chèo qua đây, chú rể đứng ở đây nè !
Quan Âm Bồ Tát rất
bối rối nhưng không có cách nào hơn là để cho ông lái đò chèo thuyền
về rước Lữ Động Tân và Vi Đà lên thuyền, một lời đã hứa đâu có dễ gì
nuốt lại được !
Ông lão lái đò
nhận ra Vi Đà, mừng rỡ nói với cô gái chài lưới :
- Cô nương, cậu
này chính là anh chàng thanh niên muốn xây cầu đây, đúng là trời có
mắt !
- Đúng rồi, đúng
rồi, đây là duyên trời định, Lữ Động Tân nói. Cô nương à, lão phu
đặc biệt tới đây để tác hợp cho hai người.
Quan Âm Bồ Tát
nhìn Lữ Động Tân như thể ông là con quái vật, vừa tức vừa giận mà
không thể để lộ ra ngoài mặt. Tuy nhiên, nghe nói rằng anh chàng
thanh niên này chính là Vi Đà, người muốn xây cầu, thì cũng đổi giận
làm vui, thầm nghĩ rằng :
- Anh chàng này
phúc hậu lương thiện lại là một tay thợ đá giỏi, để cho anh ta đứng
ra xây cầu thì không có gì bằng.
Còn Lữ Động Tân,
Ngài Quan Âm biết ông là người hay phá phách trêu ghẹo người khác,
nên Ngài cũng không giận nữa mà lại bảo rằng :
- Ông làm việc tốt,
tôi xin cám ơn ông. Nhưng ông đùa lần này là quá lố, không nên đắc ý
như vậy. Ông đã gieo gió thì bây giờ hãy gặt bão, theo tôi nghĩ, ông
nên mau nói lên sự thật.
Ông lão lái đò và
Vi Đà nghe ngài Quan Âm và Lữ Động Tân nói chuyện với nhau như thể
là người quen biết từ lâu, cảm thấy kỳ lạ nên hai người đều đứng
ngây người ra nhìn. Lữ Động Tân nghe Ngài Quan Âm dạy như thế rồi
thì cũng không dám đùa nữa, và cũng nghĩ rằng mình chỉ nên đùa vừa
phải thôi, phải mau nói lên sự thật kẻo càng để lâu càng khó xử.
Nghĩ thế rồi, Lữ Động Tân bèn nói sự thật cho ông lão chèo đò và Vi
Đà nghe.
Khi biết mình đang
đứng trước mặt Quan Âm Bồ Tát và Lữ Động Tân, hai người vừa kinh sợ
vừa vui mừng. Lại nghĩ đến ngài Quan Âm vì muốn có đủ tiền xây cầu
mà phải nhọc tâm nghĩ diệu kế, mấy ngày qua thu được tiền đầy cả một
khoang thuyền, hai người vô cùng kính phục tấm lòng từ bi và trí huệ
của Ngài nên khấu đầu lễ bái không ngừng. Chuyện kén chồng chỉ là
một mưu kế của Bồ Tát, tiên và phàm vĩnh viễn cách biệt nên một khi
giải thích rồi, không có vấn đề gì nữa.
Bốn người đếm xong
tiền thu được rồi, Quan Âm Bồ Tát nói với ông lão lái đò và Vi Đà :
- Chuyện xây cầu
là chuyện quan trọng, nay ta ủy thác cho hai người. Vi Đà là người
tốt, hãy chịu khó cố gắng thêm chút nữa. Hiện tại thì số tiền này đủ
để xây cầu, mong hai người hãy mau tiến hành công việc, tranh thủ
thời gian để cầu được xây càng mau càng tốt. Khi nào cầu xây xong,
ta sẽ trở lại.
Nói xong, Ngài
hiện ra Quan Âm bảo tướng trang nghiêm, rồi cùng Lữ Động Tân lên mây
mà đi.
Ông lão lái đò và
Vi Đà được Ngài Quan Âm ủy thác việc này rồi, ngay ngày hôm sau là
bắt tay vào việc, làm ngày làm đêm không dám trễ nãi, không tới một
năm sau, một cây cầu hùng vĩ tráng lệ được bắc ngang sông Lạc Dương.
Đúng ngày cầu vừa
xây xong, quả nhiên Ngài Quan Âm trở lại. Tuy Ngài vẫn xuất hiện
dưới lốt một cô gái chài lưới, nhưng lần này ai cũng biết đó là Bồ
Tát Quan Âm giáng lâm nên tất cả đều sụp xuống lễ.
Bồ Tát nói với mọi
người :
- Các vị hãy mau
đứng dậy, không nên tạ ơn ta, cầu này mà hoàn thành là do sức đóng
góp của tất cả quý vị, chính ta mới phải tạ ơn các vị.
Quan Âm Bồ Tát
chúc mừng việc cầu đã hoàn thành, rồi lên mây trở về Nam Hải. Nhưng
trước khi đi Ngài nói riêng với Vi Đà :
- Vi Đà, ngươi đã
hoàn thành tốt đẹp việc xây cầu. Ngươi đã ném tiền trúng ta vì ta
với ngươi có duyên phận. Ta thấy ngươi là người có tâm thiện lành,
ngươi có muốn cùng ta về Phổ Đà Sơn không ? Nếu muốn thì có thể ở
bên ta mà tu hành cho tới chính quả, làm thần hộ Pháp cho ta, nếu
không muốn thì cứ ở lại đây.
Vi Đà vội vàng đáp
:
- Bồ Tát trên cao,
Vi Đà con được Bồ Tát giúp đỡ, một lòng thề nguyện xây cầu viên mãn,
cầu xây xong rồi, con luôn tạc dạ ghi lòng tâm đại từ đại bi của Bồ
Tát. Nếu được theo Bồ Tát mà tu hành, thì đó là điều vinh hạnh mà
con vẫn hằng mơ tưởng mà không dám nghĩ có thể thành sự thật. Con
nguyện theo Bồ Tát về Phổ Đà Sơn.
Quan Âm Bồ Tát bèn
đưa Vi Đà về Phổ Đà Sơn. Một vài năm sau, Vi Đà tu hành thành chính
quả, được phong là thần Hộ Pháp, và được gọi là "Vi Đà Thiên Tôn",
thời thời khắc khắc đứng trước mặt Quan Âm Bồ Tát để hộ vệ Ngài.
Diệu Hạnh Giao
Trinh chuyển ngữ