Diệu Hạnh Giao Trinh
chuyển ngữ
Một hôm,
Quan Âm Bồ Tát vân du tới bờ biển Đông hải. Sở dĩ Ngài muốn đến đấy
là vì nghe nói rằng dân chúng ở vùng biên giới xa xôi này không biết
lễ nghĩa, không tin Phật Pháp Tam Bảo, ích kỷ ngu muội, hung bạo và
hiếu chiến. Sau khi quan sát tìm hiểu thật lâu, Ngài thấy những gì
tai nghe và mắt thấy đều hoàn toàn đúng.
Một buổi
sáng sớm nọ, Ngài biến thành một vị tăng hành cước đến cái chợ cá
của thị trấn nhỏ ấy. Dân chài ở thị trấn này chủ yếu sống bằng nghề
đánh cá, mỗi ngày đánh cá về đem ra chợ bán. Hôm ấy trúng ngày họp
chợ, thị trấn nhỏ vô cùng náo nhiệt.
Bồ Tát Quan Âm đi dọc theo con đường băng ngang qua chợ, hai bên
đường quầy hàng chen chúc san sát, con đường vừa bẩn vừa loạn, chưa
kể đến mùi tanh của cá. Nhưng điều đáng sợ hơn hết là dân chài
thường gây lộn và đánh lộn nhau. Người bán gây lộn với người mua,
các quầy hàng tranh khách, tranh chỗ cũng gây lộn với nhau, có khi
còn dùng đến chân tay.
Trong một quãng thời gian ngắn mà không biết bao nhiêu vụ gây lộn
như thế đã xảy ra. Hai bên mắng chửi nhau với những lời lẽ thô tục.
Chính mắt Ngài Quan Âm nhìn thấy một thanh niên vặm vỡ lực lưỡng, vì
muốn độc chiếm một chỗ tốt nên đã ngang tàng dùng tay đẩy một bạn
hàng lớn tuổi một cách hung dữ. Cụ già bị đẩy ngã lăn xuống đất rồi
mà còn bị thanh niên nọ dùng chân đá thêm mấy cái liên tiếp. Người
ta đồn rằng thanh niên này tên là Mã Lang, là người rất ngang ngược,
thường xưng hùm xưng bá trong thị trấn này.
Nhìn thấy
chuyện như thế rồi, trong tâm Ngài Quan Âm khởi lên một niềm thương
cảm. Ngài thấy sở dĩ dân cư ở đây thích đánh nhau là vì họ ích kỷ,
ngu muội, tham tiền, bị "ba độc" tham sân si trói buộc. Bồ Tát quyết
tâm dùng Phật Pháp cải hóa những người dân ngu muội của thị trấn
này, làm cho họ phải sùng kính Tam Bảo, giải trừ ba độc. Sau khi suy
nghĩ cân nhắc chín chắn, Ngài Quan Âm xếp đặt một diệu kế.
Hôm sau,
Bồ Tát Quan Âm hóa thành một cô gái thôn chài tuổi chừng đôi tám,
tay cầm giỏ cá xuất hiện tại chợ. Cô gái dân chài này tóc bối song
đào, mặc áo xanh thêu hoa, nhan sắc xinh đẹp, thân người mạnh khoẻ
nở nang, đi chân đất uyển chuyển bước vào chợ, trong giỏ có vài con
cá chép còn sống. Cô tìm đến một chỗ vắng vẻ ít người bày giỏ cá ra
và bắt đầu rao:
"Ai mua
cá chép tươi không ? Ai mua cá chép tươi không ?".
Tuy cô
không những không chen vào những chỗ đông người nhiệt náo mà lại còn
ẩn mình dưới một chân tường kín đáo, thế mà lạ thay, chẳng mấy chốc
cô được mọi người chú ý vì những người qua lại trên đường, dầu gần
dầu xa cũng đều bị nhan sắc mỹ lệ của cô lôi cuốn, nhất là những anh
chàng thanh niên trẻ tuổi. Họ tranh nhau đến gần đòi mua cá của cô,
và lập tức, chỗ ấy trở nên thật là đông đúc. Những anh chàng trẻ
tuổi ấy biết rất rõ, họ viện cớ mua cá, chứ thật ra họ đến chỉ để
ngắm nhìn nhan sắc mỹ miều của cô gái bán cá. Giỏ cá của cô chỉ còn
lại có hai, ba con, mọi người tranh nhau "Bán cho tôi ! Bán cho tôi
!".
Cô gái
bán cá cười hỏi những người đứng chen nhau trước mặt :
- Quý vị
đừng tranh dành nữa, xin nghe tôi nói rồi sau đó hẵn mua, được không
? Đầu tiên tôi xin hỏi một câu, quý vị mua cá của tôi để làm gì vậy
?
Người mua
cá đáp :
- Còn
phải hỏi, mua về nấu lên ăn chứ để làm gì ?
Cô gái
bán cá nói :
- Nếu mua
về để nấu lên ăn thì tôi không bán, vì cá của tôi đặc biệt không
giống cá khác, cá của tôi không thể dùng làm thức ăn cho người ta
nuốt vào bụng. Cá này chỉ bán cho người từ thiện mua về phóng sinh
mà thôi. Nếu quý vị muốn mua cá về nấu lên ăn thì trong chợ này
thiếu gì chỗ bán, xin mời quý vị chiếu cố những quầy hàng khác vậy.
Nghe cô
gái nói như thế xong, phần đông người nào nghe cũng thấy buồn cười,
một thanh niên mồm loa mép giải cưởi ha hả trả lời :
- Thật là
chưa từng thấy người nào bán cá như cô, trong một cái chợ cá như thế
này thì mua cá về chỉ để nuốt vào bụng chứ để làm gì nữa, nếu mua cá
về phóng sinh thì cần chi mất công làm hai việc, cứ đem tiền vứt
xuống biển thì có phải giản dị hơn không ?
- Phải
đấy, phải đấy, đúng là lần đầu tiên mới thấy người bán cá kiểu này,
nếu cô muốn làm phước thì đừng đi đánh cá, chợ cá này mỗi ngày bán
cả ngàn, cả vạn cân cá, nếu ai cũng bảo mua cá về để phóng sinh thì
người ta lấy gì ăn ?
Mọi người
cười ầm lên và từ từ tản mác.
Bồ Tát
Quan Âm nghe tiếng cười của những người ấy, bất giác thầm thở dài.
Đến chiều, cô gái bán cá hóa thành vị tăng hành cước vào miếu tạm
trú, hôm sau lại lấy hình dạng cô gái bán cá, đi chân không, tay
xách giỏ, vẫn ở chỗ hôm qua rao hàng. Và cũng như hôm qua, tuy có
rất nhiều người vây quanh mà phần đông là những chàng trai trẻ,
nhưng họ chỉ đến phá phách chứ không có một người nào thật tình chịu
bỏ tiền ra mua cá phóng sinh.
Mấy ngày
liên tiếp, sự việc cứ diễn tiến y như thế nhưng Bồ Tát Quan Âm vẫn
kiên trì, ngày ngày vào chợ. Ngài lưu tâm quán sát, tuy mấy ngày qua
có rất nhiều chàng trai trẻ đến vây quanh nhưng anh chàng thanh
niên ngang ngược tên là Mã Lang kia thì không hề thấy mặt.
Hôm sau,
Bồ Tát Quan Âm lại đúng lúc đúng thời có mặt tại chợ. Hôm ấy Mã Lang
cũng đến, thì ra anh chàng đi xa mới về, nghe mọi người kể chuyện cô
gái bán cá, anh chàng cũng muốn đến xem chơi cho vui. Khi nhìn thấy
cô gái, Mã Lang cũng bị nụ cười của cô hớp hồn. Có lẽ trước nhan sắc
của cô gái, Mã Lang không dám để lộ ra thái độ ngang ngược của mình,
mà cũng chẳng cười nói phá phách như những chàng trai trẻ khác, trái
lại tỏ ra rất lịch sự nho nhã. Mã Lang chỉ hiếu kỳ muốn xem cô gái
bán cá với mấy con cá trong giỏ của cô, lúc ấy trong giỏ có ba con
cá, tuy ở trên cạn đã lâu nhưng vẫn còn sống.
Mã Lang cảm thấy có chi khó hiểu, tự hỏi từ đâu lại xuất hiện một cô
gái như thế, thật là kỳ quái. Nhưng cô gái lại nhìn ngay Mã Lang mà
hỏi :
- Sao,
đại ca, có muốn mua cá phóng sinh làm phước không?
Bị hỏi
thẳng mặt Mã Lang không biết phải trả lời thế nào, đâm ra luống
cuống nên ấp úng trả lời :
- Cá tôi
câu biết bao nhiêu, nếu muốn phóng sinh thì phóng cá của mình chứ
mua làm gì…
Nói xong,
Mã Lang mau mau rời xa cô gái bán cá, sợ cô hỏi nữa thì không biết
phải trả lời sao cho phải. Bồ Tát Quan Âm nhìn bộ dạng lúng ta lúng
túng xa dần của Mã Lang, không khỏi muốn bật cười.
Mỗi ngày
Bồ Tát Quan Âm vẫn đi bán cá phóng sinh, Mã Lang cùng rất nhiều
chàng trai trẻ khác bị nhan sắc của cô gái bán cá làm cho mê mẩn tới
hồn điên phách đảo. Ngày ngày nhìn cô gái, vài chục anh thanh niên
đã phải lòng, bèn đi tìm người mai đến cầu hôn với cô, ai cũng tranh
nhau để cưới cô gái bán cá về làm vợ, và Mã Lang cũng là một trong
số người ấy.
Đó chính
là điều mà Bồ Tát Quan Âm đã dự liệu trước, Ngài thừa biết chỉ có
cách đó mới lôi kéo được những người dân chài vô tri ấy đến gần mình
để có thể thi hành kế hoạch, nghĩa là dần dần cải hóa cái đám thanh
niên cứng đầu xấu tính ấy. Ngài bèn nói với những người đến cầu hôn
rằng :
- Tiểu nữ
xin cám ơn quý vị đã quan tâm đến. Trai lớn phải lấy vợ, gái lớn
phải lấy chồng, tiểu nữ cũng muốn tìm một người tốt để nương thân
suốt đời. Nhưng thân gái chỉ có thể có một chồng, mà quý vị đến cầu
hôn lại đông như thế này, làm sao một mình tiểu nữ lại có thể nhận
lời được cả mấy chục người đây ?
Những
người cầu hôn đều thấy cô gái bán cá nói đúng, không ai có thể trả
lời câu hỏi cô gái, phải rồi, bây giờ làm sao đây ? Cô gái nói tiếp
:
- Tôi có
biện pháp này, nhưng không biết nói ra rồi quý vị có làm theo được
không ?
Thấy có
gái bán cá chủ động đưa ra biện pháp ai cũng muốn nghe theo, nên
nhao nhao trả lời :
- Cô cứ
nói, chúng tôi quyết y theo lời cô mà hành động.
Bồ Tát
Quan Âm nói :
- Biện
pháp của tôi rất công bình, nghĩa là ai muốn cầu hôn cũng phải học
thuộc lòng một cuốn sách, một cuốn kinh Phật. Quý vị chưa ai từng
đọc qua kinh Phật phải không, nhưng điều ấy không quan hệ. Tôi sẽ
chỉ cho quý vị tụng kinh. Đây tôi có đem theo cuốn "Quán Thế Âm Bồ
Tát Phổ Môn phẩm" trong cuốn "Diệu Pháp Liên Hoa Kinh", tôi sẽ chỉ
theo lối truyền khẩu cho quý vị, hôm nay quý vị học cho nhớ, để xem
trong một đêm ai học thuộc lòng được thì tôi sẽ làm vợ người đó.
Mọi người
nói :
- Hay,
biện pháp hay, xin cô mau mau dạy !
Thế là Bồ
Tát Quan Âm dạy cho họ từng câu từng câu, đám thanh niên học từng
câu từng câu và cũng ghi nhớ từng câu từng câu. Sau đó Bồ Tát Quan
Âm nói :
- Quý vị
nhớ hết chưa ? Bây giờ hãy về nhà, sáng mai đến đây đọc.
Đám thanh
niên ai cũng nhất tâm nhất chí, sợ quên mất nên ráng học thuộc lòng
cẩn thận, nhưng mỗi người trời cho một trí nhớ tốt xấu khác nhau. Do
vì muốn cưới cô gái bán cá xinh đẹp về làm vợ nên đêm ấy hầu như
không ai ngủ, ai cũng đi qua đi lại trong nhà, chuyên chú đọc tụng
điều đã học cho thuộc lòng, nhưng sau một đêm, chỉ còn có phân nửa
mới có thể đọc làu làu. Phân nửa kia ra sức đến đâu cũng không sao
nhớ được, chỉ biết buồn phiền rầu rĩ than thở vì đã đánh mất đi một
cơ hội.
Còn phân
nửa học được thuộc lòng thì vô cùng phấn khởi, người nào cũng đọc
như cháo phẩm "Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn" cho cô gái bán cá nghe,
và người nào cũng khoe mình học thuộc kỹ nhất, tụng hay nhất. Người
nào cũng thấy cô gái bán cá phải về làm vợ mình, tranh cãi nhau loạn
cả cái chợ, người nào cũng đỏ mặt tía tai, thiếu điều đánh lộn nhau.
Ngài Quan
Âm sợ đám thanh niên quá giận dữ mà đánh nhau thật vội nói:
- Các anh
đừng cãi nhau nữa. Người thuộc kinh này đông như thế, không thể phân
biệt cao thấp thật là khó xử, chúng ta phải tìm biện pháp giải quyết
vậy. Các anh đã học thuộc được phẩm "Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn",
phẩm này là sơ thừa của Phật giáo, bài kinh ngắn gọn văn vẻ dễ học.
Hôm nay có kinh này dài hơn, đó là kinh "Kim Cang", tôi cũng sẽ đọc
lên cho mọi người ghi nhớ, cũng lấy hạn định là một đêm, trong một
đêm ai học thuộc kinh này, tôi sẽ làm vợ của người đó.
Chừng
khoảng mười người chân chính muốn cưới cô gái bán cá xinh đẹp này về
làm vợ nên không tranh cãi nhau nữa, chân thành học với ngài Quan Âm
một cách rất chuyên chú. Dĩ nhiên học kinh Kim Cang khó thuộc hơn,
mười chàng trai trẻ ấy lại trải qua một đêm khổ ải, dốc hết tâm lực
để học nhưng cuối cùng chỉ còn có bốn người là có thể học thuộc. Hôm
sau bốn người ấy đi gặp ngài Quan Âm, họ nhìn nhau, không biết phải
làm thế nào. Sau đó bốn người thương lượng với nhau để lấy một quyết
định.
Mã Lang là một trong bốn người ấy, đứng ra nói :
- Chúng
tôi còn có bốn người, không muốn tranh dành với nhau nữa. Cô muốn
chọn người nào trong bọn chúng tôi ? Cô hãy quyết định, chúng tôi sẽ
theo ý của cô, tuyệt đối không có ý kiến nào khác.
Ngài Quan
Âm nghe xong rất vui mừng. Mới có hai đêm tụng kinh Phật mà tâm địa
bọn thanh niên này đã thanh tịnh được rất nhiều, tâm ích kỷ tham lam
đã giảm xuống không ít. Nhưng Ngài đến đây không phải vì vấn đề hôn
nhân mà vì muốn tìm cách cải hóa họ thêm một tầng bậc nữa. Ngài bèn
nói với bốn anh chàng thanh niên rằng :
- Tôi
nhìn bốn người còn lại cũng thấy khó xử, người nào cũng xứng đáng
cả, nếu do tôi quyết định chọn lựa thì e không được công bình. Tôi
nghĩ tốt nhất là mình tiếp tục phương pháp cũ, lại học thuộc kinh
Phật một lần nữa, lần này tôi chọn một bộ kinh dài hơn, ai thuộc thì
tôi sẽ làm vợ người ấy.
Bốn người
không còn cách nào khác hơn là nghe theo. Ngài Quan Âm bèn lấy ra bộ
kinh dài tới 10 vạn chữ "Diệu Pháp Liên Hoa" và nói với bốn người
rằng :
- Bộ kinh
lớn này tên là "Diệu Pháp Liên Hoa Kinh", các vị đã học thuộc một
chương trong bộ kinh này rồi, tức là phẩm "Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ
Môn phẩm". Bây giờ các vị về nhà học thuộc bộ kinh lớn này, nội
trong 3 ngày sau, ai học thuộc được thì tôi nguyện làm vợ của người
ấy.
Bốn người
đều đồng ý rằng biện pháp ấy rất công bình, hơn nữa chỉ còn lại có
bốn người, người nào cũng còn giữ hy vọng, có ai lại không muốn cưới
mỹ nhân về làm vợ ? Thế là bốn người lại chăm chỉ ghi nhớ học từng
chữ, từng chữ với Ngài Quan Âm.
Về tới
nhà, bốn người lại thêm một lần nữa gian nan khổ sở ba ngày ba đêm.
Bộ kinh này rất khó thuộc, trong số ấy 3 người học không nổi vì lòng
nóng như lửa đốt, mà càng nóng nảy thì càng học sai, họ chỉ đành tự
nhận rằng mình dở, buồn bã chấp nhận sự thất bại. Có ai ngờ anh
chàng Mã Lang lỗ mãng ấy lại quá giỏi, đọc thuộc làu bộ kinh không
sai một chữ. Nhìn Mã Lang đọc tụng bộ kinh lớn ấy làu làu, Ngài Quan
Âm cũng phải thầm khen là giỏi. Vì ngay từ đầu đã giao ước rõ ràng,
Bồ Tát Quan Âm cũng vui vẻ nhận lời cầu hôn và nói với Mã Lang rằng
:
- Tôi nói
là làm, anh cứ về chuẩn bị và định ngày hôn lễ.
Mã Lang
thấy mình sắp cưới được cô gái bán cá xinh đẹp, thôi thì miệng cười
không ngớt. Mấy ngày vừa qua Mã Lang đã thay đổi rất nhiều mà không
biết, nhờ chuyên tâm đọc kinh Phật, không còn tranh dành gây gổ
ngoài chợ nữa, nhờ thế chợ cá cũng trở nên yên tịnh. Bây giờ anh
chàng lại hân hoan chuẩn bị lễ cưới, trong nhà từ già tới trẻ ai
cũng vui mừng hớn hở, chờ đợi đón nàng dâu tuyệt sắc giai nhân về.
Ngày hôn
lễ, giăng đèn kết hoa rực rỡ, vô cùng nhiệt náo nhưng có ai ngờ khi
cô gái bán cá được các cô phù dâu quây quần xúm xít đưa đến phòng
hoa chúc, khi mọi người trong làng đang vui vẻ chọc phá trước cửa
phòng thì tân nương đột nhiên ngã xỉu xuống đất, chẳng bao lâu sau
tắt thở mà chết. Ðương nhiên rõ ràng chuyện xảy ra như thế là do
Quan Âm Bồ Tát dùng một chút thần thông mà nên.
Niềm vui của Mã Lang chưa tàn mà bi thương đã ập đến, chỉ biết đem
thi thể người vợ chưa cưới đi tẩm liệm. Mã Lang thương nhớ cô gái
bán cá xinh đẹp nên quyết tâm không lấy vợ khác, mỗi ngày còn âm
thầm đọc tụng và học thuộc kinh Phật khác cho bớt buồn khổ, hơn nữa,
ban đầu anh chàng học kinh một cách mù quáng nhưng bây giờ thì bắt
đã tìm hiểu nghiền ngẫm Phật Pháp, ngộ được rất nhiều đạo lý, và
cuối cùng, cả con người chàng biến đổi, không còn hung hãn ngang
ngược, không còn ức hiếp người làng nữa.
Mấy tháng
sau, Bồ Tát Quan Âm thấy Mã Lang đã tỉnh ngộ nhiều, lại hoá thành vị
tăng hành cước đến thị trấn để giáo hóa thêm một bước cho Mã Lang,
chỉ cho anh chàng thấy đâu là bến mê, đâu là bờ giác.
Nhờ nhiều
ngày tụng kinh tin Phật nên gặp vị tăng hành cước, Mã Lang cảm thấy
có gì rất thân thiết, hai người nói chuyện với nhau rất tâm đầu ý
hợp. Mã Lang bùi ngùi thương tiếc đem chuyện tụng kinh cưới vợ cho
vị tăng nghe. Lúc ấy Bồ Tát Quan Âm mới nói với Mã Lang :
- Cậu
đừng buồn chuyện ấy nữa, cậu có biết cô gái đánh cá ấy là ai không ?
Chính là Quan Âm Bồ Tát ở Nam Hải Phổ Ðà đấy. Ngài đã đến thôn chài
này chỉ là để cảm hóa các vị mà thôi. Nếu không tin hãy quật mồ lên
xem, lúc ấy sẽ rõ.
Mã Lang
nghe lời vị tăng, đi quật mồ lên xem và giật mình thấy trong mồ
không hề có thi thể của cô gái bán cá nào cả, mà chỉ có một khúc
xương đòn bằng vàng ròng. Bồ Tát Quan Âm lại bảo :
- Sao ?
Bây giờ cậu biết Pháp lực của Bồ Tát rồi chứ ? Chỉ vì dân chúng các
vị ở đây không biết lễ nghĩa, không tin Phật Pháp, ngang ngược hiếu
chiến, vô tri ngu muội nên Ngài mới hóa thành cô gái bán cá đến đây
cảm hóa các vị. Mà chính cậu là người có pháp duyên nhiều nhất, đã
được nghe và học hai bộ kinh Kim Cang và Pháp Hoa. Từ nay về sau,
cậu nên theo sự chỉ dẫn của Bồ Tát mà hoằng dương Phật Pháp, hướng
dẫn chúng sinh, sau này công đức viên mãn, hậu vận rất tốt.
Mã Lang
gật đầu đồng ý, vâng dạ luôn mồm. Ðang lúc nói chuyện, vị tăng đột
ngột biến mất, Mã Lang hiểu rằng đây cũng chính là Bồ Tát Quan Âm về
giáo hóa mình, nên nhìn lên không trung bái tạ không ngừng.
Từ đó trở
đi, Mã Lang biến căn nhà tranh ba gian của mình sửa thành cái miếu,
dựa theo hình cô gái bán cá mà tạc bức tượng ngài Quan Âm, vì tay
Ngài cầm giỏ nên mới đặt tên là "Ngư lam Quan Âm" (Quan Âm cầm giỏ
cá), lại vì Quan Âm Bồ Tát đã từng làm hôn lễ với Mã Lang nên còn
gọi là "Mã Lang phụ Quan Âm" (Quan Âm vợ Mã Lang).
Diệu Hạnh
GiaoTrinh