Cuối đời Ðường đầu nhà Tống, chuyện Quan Âm Bồ Tát giúp đỡ người
hiền lương thoát khỏi bàn tay gian ác hãm hại được lưu truyền rộng
rãi trong khắp khu vực thành Cô Tô.
Người hiền lương nói trên tên là Yêu Nhất Phong, chủ một cửa tiệm
tạp hóa. Ðó là một người thành thật, lương thiện, tốt bụng, đối với
người khác thì vui vẻ tử tế, không bao giờ so bì tị nạnh, không
tranh dành hơn thua, vì thế người ta thường gọi ông là "người hiền".
Ông thâm tín Phật giáo, trong nhà hay ngoài tiệm đều có thờ Quan Âm
Bồ Tát, mỗi ngày sớm chiều thành tâm lễ bái, rảnh thì ngồi trước bàn
thờ tụng kinh niệm Phật, không ngày nào xao lãng.
Tuy Yêu Nhất Phong là người tốt nhưng có một bà vợ đẹp thì lại rất
dâm đãng. Bà thừa lúc chồng phải đi xa buôn hàng để thông gian với
một tên vô lại ở ngay bên cạnh nhà tên là Khang Thất. Những chuyện
tình cảm lăng nhăng như vậy thường không qua mắt ai, vì thế người
ngoài ai cũng biết, chỉ trừ có Yêu Nhất Phong thật thà khờ khạo là
trước sau không hề hay biết gì cả.
Mọi người ai cũng than thở và bất bình giùm ông, họ nói rằng "ai
cũng nói là thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, mà sao cái người tốt
bụng này, đã không có quả báo thiện thì thôi, đằng này còn phải chịu
ác báo ? Huống chi ông lại là người tin Phật, không lẽ Bồ Tát không
linh ứng hay sao ?"
Không phải là Bồ Tát không linh ứng, vì đúng lúc đó Quan Âm vừa đến
Cô Tô. Không những Ngài biết hết chuyện nhà của Yêu Nhất Phong, mà
còn biết sau này Yêu Nhất Phong còn phải chịu nhiều tai ách.
Hôm ấy, Yêu Nhất Phong lại đi ra khỏi tỉnh để buôn hàng, ban đêm
bỗng nhiên nằm mộng thấy Quan Âm Bồ Tát xuất hiện trong nhà của mình.
Tay Ngài cầm ngọc Như Ý, trên đỉnh đầu lại có một con rồng xanh.
Ngài đặt viên ngọc Như Ý lên đỉnh đầu Yêu Nhất Phong và nói :
- Yêu Nhất Phong, nghe ta nói đây, không lâu nữa ông sẽ gặp đại họa.
Ta thấy ông là người chân thành tin Phật, không nhẫn tâm để cho ông
bị tai nạn nên tới đây cứu ông. Ta dạy cho ông bốn câu kệ, xin ông
hãy nhớ cho kỹ :
Gặp cầu chớ dừng tàu
Gặp dầu trét lên đầu
Ðấu thóc ba thăng gạo
Ruồi xanh bu bút đầu.
Bằng bất cứ giá nào ông cũng không được quên bốn câu kệ này.
Quan Âm nói xong liền biến mất. Yêu Nhất Phong giật mình thức giấc,
những gì xảy ra trong mộng còn rành rành trước mắt. Nghĩ tới sự Bồ
Tát ứng mộng để cứu mình, Nhất Phong vừa mừng rỡ vừa kinh sợ, biết
rằng điều Bồ Tát nói tất nhiên không thể sai, ông vội quỳ xuống đất
nhìn lên không trung khấu đầu lễ lạy. Rồi tuân lời dặn dò của Bồ Tát,
ông nhẩm đi nhẩm lại bốn câu kệ cho tới thuộc lòng như cháo, ghi
khắc trong đầu không làm sao quên được.
Hôm sau ông đáp tàu ra đi, mới khởi hành thì sóng yên gió thuận,
tiết trời quang đãng. Nhưng đến khoảng chừng nửa ngày đường thì đột
nhiên mây đen giăng mịt, sấm chớp ngang trời, mưa như trút nước.
Cũng vừa đúng lúc ấy, tàu hướng tới một cái cầu trước mặt. Người phu
lái tàu sợ ướt, nghĩ rằng gặp cái cầu này thật đúng lúc, tốt nhất là
dừng tàu ở dưới cầu để trốn mưa nên tính gác mái chèo đậu lại ngay ở
đấy. Còn Nhất Phong thì lúc nào cũng nghĩ tới bốn câu kệ của Bồ Tát
dạy, tuy không mấy gì hiểu nghĩa, nay thấy tàu muốn dừng lại dưới
một cái cầu thì câu "gặp cầu chớ dừng tàu" chợt loé lên trong
óc khiến ông lập tức nhận ra, vội lớn tiếng la người phu lái tàu :
- Không thể dừng lại ở đây, mau chèo tiếp !
Tuy ông không hiểu rõ tại sau gặp cầu lại không được dừng tàu nhưng
ông nghĩ cứ làm đúng theo lời Bồ Tát dạy thì không thể sai lầm. Ông
không cần biết người phu lái chịu hay không chịu, cứ bắt buộc ông ta
phải chèo tiếp để ra khỏi gầm cầu.
Khi tàu rời khỏi gầm cầu không tới một tầm tên bắn thì một tiếng "rầm"
long trời lở đất đập vào tai họ chát chúa, những ngọn sóng tung toé
lên tới trời, người phu lái tàu cùng Yêu Nhất Phong quay đầu lại
nhìn thì thấy cái cầu mình mới đi ngang đã sập xuống quá nửa. Nếu
tàu ngừng lại tránh mưa ở dưới ấy thì có lẽ giờ này đã bị đập nát.
Người phu tàu líu lưỡi lại vì sợ hãi :
- Ghê quá ! Ghê quá ! Nếu không có ông hối phải chèo tiếp thì giờ
này chết toi rồi ! Ông Phong ơi, ông có phải là thần tiên không mà
biết trước vậy ?
Yêu Nhất Phong bèn kể lại chuyện Bồ Tát ứng mộng cho phu lái tàu
biết. Người này cũng cảm tạ ơn đức của Bồ Tát, nên từ đấy cũng trở
thành một Phật tử thuần thành.
Yêu Nhất Phong đến thị trấn nọ, buôn xong hàng hóa rồi lên đường trở
về. Mỗi lần đi, về như vậy phải tính vắng nhà hai tháng trời. Trong
suốt hai tháng trời ấy, vợ ông cùng tên du đãng Khang Thất đã sống
những ngày trăng hoa nóng bỏng. Khi Nhất Phong về nhà thì trời đã
hoàng hôn, nhờ có Bồ Tát báo mộng sập cầu cứu ông nên việc đầu tiên
sau khi vào nhà là đến trước bàn thờ Quan Âm Bồ Tát chí thành đảnh
lễ bái tạ.
Lễ xong đứng dậy, đột nhiên cây đèn lưu ly treo trên xà nhà bị đứt
dây rơi xuống, ông bị dầu bắn lên khắp cả người, và vì bị dầu bắn
lên người như thế nên ông lập tức nhớ đến câu kệ thứ hai "gặp dầu
trét lên đầu", thế là còn bao nhiêu dầu trong đèn ông bèn đổ cả
lên đầu lên tóc.
Lễ Phật xong, ông mới gặp vợ hỏi han việc nhà và sau khi ăn cơm, hai
vợ chồng vào phòng thay quần áo đi ngủ.
Tên du đãng Khang Thất biết rằng Yêu Nhất Phong đã về rồi. Trong hai
tháng vừa qua, hắn đã cùng người đàn bà kia mặn nồng trăng gió với
nhau, một phút cũng không muốn rời. Nay Yêu Nhất Phong trở lại rồi
thì đêm nay hắn không thể qua nhà người đàn bà để cùng nhau mây mưa,
về sau cũng sẽ khó mà tiếp tục dan díu với nhau lâu dài. Ðêm hôm ấy
hắn không ngủ được, cứ trăn qua trở lại, lửa ghen thiêu đốt tâm cang,
càng nghĩ càng căm giận, hận là không thể tức khắc xông qua nhà bên
cạnh bắt con dâm phụ ấy về với mình. Ý nghĩ giết người manh nha
trong đầu từ đấy, hắn nghĩ rằng giải pháp gọn nhất là giết quách Yêu
Nhất Phong đi, dấu thi thể để phi tang rồi sau đó mới có thể cùng
tình phụ ăn ở với nhau lâu dài được. Nghĩ xong là làm, hắn xuống bếp
lấy một con dao nhọn và bén, trèo tường qua nhà hàng xóm, lẻn vào
phòng ngủ của Yêu Nhất Phong. Trong phòng tối đen như mực, Khang
Thất cầm dao mò mẫm đến trước giường, nhưng hắn không thể phân biệt
ai là Yêu Nhất Phong ai là người đàn bà. Hắn lại nghĩ, trong đêm tối
không nên giết lầm người, đàn bà vốn thường hay xoa dầu thơm lên đầu
nên phân biệt hai người có lẽ cũng dễ thôi. Hắn đưa mũi đánh hơi,
thấy rằng cái người ngủ phía ngoài có mùi dầu sực nức, thì chắc chắn
đây là người đàn bà rồi, vậy người nằm trong ắt phải là Yêu Nhất
Phong. Tức thời hắn vung dao lên chém mạnh xuống, chỉ nghe "phập !"
một tiếng, đầu người dâm phụ bị chẻ làm hai mảnh. Yêu Nhất Phong
nghe tiếng chém thì giật mình thức dậy, hô hoán lên rầm rĩ, khoác áo
vào ngồi dậy đốt đèn. Tên sát nhân Khang Thất biết mình giết lầm
người, vội vàng trèo cửa sổ chạy trốn mất.
Yêu Nhất Phong thấy đầu vợ bị bửa ra thành hai mảnh thì thương tâm
quá khóc rống lên, tìm kiếm khắp nơi mà hung thủ thì đã biệt tăm
biệt tích. Ông bèn sai người đi liền đêm ấy báo cho nhạc phụ biết
tin dữ.
Khi nhạc phụ tới nhà Yêu Nhất Phong xem xét thì không cần biết trắng
đen phải trái ra sao, nhất định buộc tội Yêu Nhất Phong giết vợ,
lồng lộn tra vấn con rể :
- Cửa ngoài vẫn đóng, cửa nhà không mở, ngay trên giường mi xảy ra
án mạng, không phải mi giết thì còn ai vào đây ?
Yêu Nhất Phong tình ngay lý gian, có miệng mà không cãi được.
Hôm sau người nhạc phụ ra nha môn trình cáo, vị quan huyện đến điều
tra rồi cũng nghi rằng hung thủ chính là Yêu Nhất Phong.
Ðây là một vị quan huyện rất hà khắc, ưa dùng hình phạt tàn khốc để
bắt tù nhân khai tội, nên cho tra tấn Yêu Nhất Phong trong lúc thẩm
vấn. Yêu Nhất Phong là một thương nhân, một chủ tiệm, làm sao chịu
nổi cuộc tra tấn đau đớn ấy, chỉ biết tự than rằng kiếp trước đã gây
tội, vận mệnh đã an bài như thế rồi, thôi thì cứ nhận tội oan, dẫu
có chết cũng còn đỡ khổ hơn là sống mà phải chịu đọa đày như vậy.
Quyết định như thế rồi ông bèn nhận tội.
Quan huyện thấy Yêu Nhất Phong đã nhận tội rồi bèn một mặt cho giam
ông vào ngục tối, một mặt chuẩn bị phát thảo tờ công văn để xử án tử
hình. Ngờ đâu khi ông cầm bút lông lên vừa tính đặt xuống giấy thì
đột nhiên có vài con ruồi xanh bay tới, vây chặt lấy đầu bút khiến
cho ông không thể nào đặt bút xuống. Ông đưa tay xua ruồi, nhưng vừa
tính hạ bút thì chúng lại bay tới bu lấy đầu bút, cứ thế nhiều lần
nên tờ công văn không sao viết được. Vị quan huyện cảm thấy kỳ quái,
bèn nghĩ rằng ruồi xanh bu vào đầu bút không cho ông viết công văn
để xử tội, phải chăng có oan tình chi đây ? Ông bèn cho mời vị quan
cố vấn tới thỉnh ý. Quan cố vấn nói :
- Ðể tôi vào ngục hỏi lại Yêu Nhất Phong rồi sau đó hãy tính.
Quan cố vấn vào ngục, thấy Yêu Nhất Phong ngồi bình tâm niệm Phật
lại càng thấy quái lạ, bèn hỏi :
- Ông đã khai rồi, tội giết người đã định, niệm Phật có ích gì ?
Nhất Phong đáp :
- Tôi không chịu nổi tra khảo nên phải nhận tội chứ sự thật oan cho
tôi lắm. Tôi không hề giết người, Bồ Tát nói sẽ cứu tôi nên tôi niệm
Phật cầu Ngài đến cứu vì Bồ Tát tuyệt đối không bao giờ gạt người.
Tới đây ông kể lại chuyện được Bồ Tát báo mộng và đem bốn câu kệ lập
lại cho quan cố vấn nghe. Quan cố vấn nghe rồi vô cùng kinh dị, nghĩ
thầm :
- "Ruồi xanh bu bút đầu" phải chăng là ứng cho chuyện quan
huyện mới gặp vừa rồi chăng ? Vậy thì câu thứ ba "đấu thóc ba
thăng gạo" có nghĩa là gì ? Ông suy nghĩ, nghiền ngẫm, trở đi
trở lại vấn đề trong đầu nhưng vẫn nghĩ không ra. Cuối cùng bỗng
nhiên ông đại ngộ :
- Một đấu là mười thăng, nếu một đấu thóc mà chỉ cho có ba thăng gạo
thì phải chăng còn lại bảy thăng cám ? Chữ cám (Khang), bỏ bộ mễ (gạo)
ra còn lại họ Khang. Bảy là Thất, vậy phải chăng hung thủ tên là
Khang Thất ?
Nghĩ thế xong ông bèn hỏi Yêu Nhất Phong :
- Ở chỗ ông ở có ai tên là Khang Thất, Khang Bảy gì không ? Ông có
quen ai tên đó không ?
Yêu Nhất Phong đáp :
- Có, có người tên đó, mà tôi cũng biết ông ta nữa. Ðó là người hàng
xóm bên tay trái của nhà tôi, đúng tên là Khang Thất.
Quan cố vấn gật đầu bỏ đi, đem hết câu chuyện trình lại cho quan
huyện nghe. Hôm sau, tên gian phu Khang Thất bị bắt đem lên nha môn,
và bị tra vấn ngay tại chỗ. Khang Thất bèn khai thật mọi sự, Yêu
Nhất Phong được xử trắng án.
Qua tai nạn bất ngờ nói trên và tuy được xử trắng án, thoát được họa
bị xử tử hình nhưng Yêu Nhất Phong cảm thấy thế sự biến đổi vô
thường, chán nản cùng cực, bèn đem tài sản ra bố thí hết cho người
nghèo và quyết định đến Hàng Châu, vào chùa Linh Ẩn xuất gia. Ông đi
bộ suốt cả đoạn đường, một hôm đến Gia Hưng, nghỉ lại trong một lữ
điếm. Trong đêm sâu ông mơ hồ nghe ai gọi tên mình, mở mắt ra nhìn
thì thấy vợ mình cùng Khang Thất, hai người mỗi người ôm cái đầu lâu
đẫm máu xông tới đòi mạng. Nhất Phong sợ quá run bần bật, vội vàng
nhắm nghiền đôi mắt niệm thầm danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, sau một
lúc không nghe động tĩnh gì nữa, bèn mở mắt ra nhìn, không thấy hai
con quỷ đâu mà lại thấy một vị Bồ Tát đứng trên một chiếc lá sen,
bên cạnh có một cậu bé trai thân trần, đứng chắp tay hướng về Bồ Tát
như thể đang lễ bái. Chỉ trong chớp mắt , cảnh ấy cũng biến mất luôn.
Lúc ấy Nhất Phong mới biết là mình mới nằm mộng. Nhớ lại chuyện vừa
qua, biết rằng Quan Âm Bồ Tát đã một lần nữa hiển linh để cứu mình,
ông thấy mình quả thực có phúc nên càng quyết định xuất gia tu hành
.
Hôm sau ông rời huyện Gia Hưng, tiếp tục nhắm hướng Hàng Châu mau lẹ
tiến bước. Gần tới Hồ gia trang, thấy có một đám người đang đứng vây
xung quanh một cánh đồng, chẳng biết xảy ra chuyện gì, ông bèn nhanh
chân tiến đến gần xem.
Thì ra có một người nông phu họ Vương, trong lúc cuốc đất, cuốc phải
một pho tượng Phật cao cỡ một xích rưỡi (1 xích 0,33 m). Pho tượng
này làm bằng ngói lưu ly màu xanh ngọc bích, điêu khắc rất tinh vi
đẹp mắt, mọi người tranh nhau nhìn ngắm nên mới tụ lại vây quanh
đông đảo như vậy. Nhưng tượng Phật này là Phật nào ? Yêu Nhất Phong
chen vào nhìn, nhìn kỹ càng rồi thì mới nhận ra rằng tuy tượng Phật
có tướng người nam nhưng mắt mũi diện mục thì đích thị là Quan Âm Bồ
Tát. Ông hân hoan thấy rằng giữa Bồ Tát và mình quả thật có duyên
nên đã được gặp Ngài mấy lần, vì thế ông vui vẻ nói với mọi người
rằng :
- Quý vị ở đây thật có phúc nên hôm nay được gặp Bồ Tát. Quý vị hãy
mau thỉnh Bồ Tát về ngôi chùa nào trong thành mà cúng dường, Bồ Tát
sẽ hộ trì cho quý vị được bình an và năm nào gặt hái cũng được mùa.
Người nông phu họ Vương hỏi :
- Ông nói đây là Bồ Tát, vậy chứ tôi hỏi ông, ông có biết đây là Bồ
Tát nào không chứ chúng tôi nhìn mãi mà không biết.
Yêu Nhất Phong nói :
- Đây là Quan Thế Âm Bồ Tát.
Mọi người nghe thế nhao nhao lên cãi :
- Không phải, không phải, pháp tượng của Quan Âm Bồ Tát như thế nào
chúng tôi đây ai cũng đã từng nhìn thấy, không phải là lối ăn mặc
như thế này, là người nữ chứ không phải là người nam. Còn tượng này
là tướng người nam, làm sao là Quan Âm Bồ Tát được ?
Nhất Phong nói :
- Sau khi đắc đạo rồi, vì muốn cứu độ người đời và đi khắp vũ trụ
nên Bồ Tát tùy thời tùy nơi mà ứng hóa, có khi thân nam có khi thân
nữ, có khi già có khi trẻ không nhất định, có khi lại còn ứng hóa đủ
thứ thân để cảnh cáo thế gian. Sao quý vị lại còn nghi ngờ ?
Sau đó ông đem chuyện mình hai lần gặp Bồ Tát hiển linh kể cho mọi
người nghe, lúc ấy mọi người mới chịu tin và đem pháp tượng Bồ Tát
vào chùa thờ phụng. Vì tượng Bồ Tát này từ luống cày xuất hiện nên
mọi người đặt tên là "Lủng Kiến Quan Âm" (Quan Âm thấy trong luống
cày).
Yêu Nhất Phong đi suốt ngày lẫn đêm, cuối cùng cũng đến chùa Linh Ẩn
ở Hàng Châu. Có một vị thiền sư pháp hiệu là Nguyên Tịch, thấy ông
chí thành muốn xuất gia nên thâu nhận ông làm đệ tử. Từ đó Nhất
Phong xuống tóc xuất gia làm tăng, theo chúng mà tu hành, người ta
gọi ông là Nhất Phong hòa thượng.
Nhất Phong mới xả bỏ phàm trần nên tuy có nhiều thiện căn, nhưng vì
đã lăn lộn nhiều trong thế gian nên trong tâm hãy còn nhiều tạp niệm,
lục căn chưa thanh tịnh, lúc mới học ngồi thiền ông không cách nào
định tâm được. Thường thường hễ ngồi xuống lại thấy hồn ma Khang
Thất cùng vợ mình bưng đầu lâu đẫm máu đến phá quấy. Buổi thiền tọa
hôm ấy hai hồn ma lại về quấy nhiễu nhưng lần này hung tợn hơn,
Khang Thất dẫn đầu một đoàn quỷ sứ không đầu ào ào ùa tới khiến Nhất
Phong hồn phi phách tán, vội niệm thầm danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát.
Một lúc sau ông thấy một vị Bồ Tát xuất hiện trước mặt, vị Bồ Tát
này có cái cổ màu xanh, một đầu mà ba khuôn mặt, mặt chính ở giữa là
mặt từ bi của một vị Bồ Tát, mặt tay phải là mặt sư tử, mặt tay trái
là mặt heo. Đầu Ngài đội mũ báu, trên mũ có hóa thân của Vô Lượng
Thọ Phật. Ngài có tới 4 cánh tay, tay thứ nhất bên phải cầm tích
trượng, tay thứ hai cầm hoa sen : tay thứ nhất bên trái cầm bánh xe,
tay thứ hai cầm loa ốc. Ngài mặc áo bằng da cọp, tua ren là những
con rắn đen, đứng trên một hoa sen tám lá, tay đeo vòng anh lạc,
xung quanh có hào quang, trông rất là uy dũng. Vị Bồ Tát cổ xanh này
tóm lấy những con quỷ không đầu mà ăn, chỉ trong thoáng chốc là ăn
trọn hết bầy quỷ. Ăn xong, Ngài dùng tích trượng khõ Nhất Phong hoà
thượng một cái, Nhất Phong chợt thấy tâm mình trở nên minh mẫn sáng
suốt, từ đó trong tâm không còn cấu nhiễm, trần duyên cắt tuyệt.
Ngày hôm sau, Nhất Phong hòa thượng đem chuyện đêm qua trình lên
Nguyên Tịch Thiền sư, Thiền sư nói :
- Đêm qua ông thấy Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát (Bồ Tát Quán Tự Tại
cổ xanh), chính là Quan Âm Bồ Tát dưới hình tướng của Minh Vương,
ông hãy thành tâm trì niệm danh hiệu vị Bồ Tát này thì có thể thoát
khỏi mọi sợ hãi khủng bố.
Nói xong ngài lấy ra một quyển kinh"Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát Đà
La Ni" trao cho Nhất Phong, dặn ông khi nào còn gặp cảnh khủng bố
thì đọc tụng kinh này để giải trừ.
Hoà Thượng Nhất Phong tu hành tại chùa Linh Ẩn một cách chí thành,
công hạnh tinh tiến, vài năm sau trở thành một vị cao tăng nổi danh.
Ngài đi khắp nơi đảnh lễ các danh sơn, vì nhớ ân sâu của đức Quan Âm
đã nhiều lần cứu hộ cho mình nên cứ thấy những tảng đá lạ ở danh sơn
nào đều lấy để tạc tôn tượng của ngài Quan Âm lưu truyền cho hậu thế.
Ngài đã bốn lần được thấy Quan Âm Bồ Tát hiển hóa, một lần thấy
trong mộng thị hiện trên đầu có con rồng xanh, một lần thấy Ngài
đứng trên chiếc lá sen, một lần thấy pháp tượng của Ngài giữa một
luống cày và một lần thấy Quan Âm cổ xanh, vì thế những bức tượng
ngài khắc nếu không là "Thanh Long Quan Âm", thì cũng "Lủng kiến
Quan Âm", nếu không là "Nhất Diệp Quan Âm" hoặc "Đồng Tử bái Quan Âm"
thì cũng là "Thanh Cảnh Quan Âm".
Về sau, Nhất Phong hòa thượng đi triều bái ở Nam Hải, đứng trên bờ
bất ngờ nhìn thấy trong sóng to một pho tượng Quan Âm bằng lưu ly
dài một xích ba thốn, toàn thân trong suốt, bảy báu trang nghiêm.
Nhất Phong Hoà thượng cung kính cẩn thận vớt pho tượng lên đem về
chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu thờ phụng. Bức tượng này được đặt tên là "Lưu
Ly Quan Âm", cũng vì tượng này đã bồng bềnh trên sóng nên cũng có
tên "Thỗn Lai Quan Âm" (Quan Âm bồng bềnh trôi đến).
Cho đến ngày nay, chuyện Nhất Phong hòa thượng được Quan Âm Bồ Tát
cứu độ, rồi xuất gia tu hành thành một vị cao tăng, suốt đời có
những kỳ duyên hạnh ngộ với ngài Quan Âm Bồ Tát vẫn còn được lưu
truyền.