Diệu Hạnh Giao Trinh
chuyển ngữ
Có một lần,
vua Ung Chính nghe nói rằng Phổ Đà Sơn là một thắng cảnh nổi danh
toàn quốc, bèn tỏ ý muốn thân hành lên núi lễ bái Quan Âm để cho
trăm họ trong thiên hạ biết rằng mình là một vị minh quân thánh hiền
đại từ đại bi. Các quan trong triều nghe thế, đều can gián rằng Phổ
Đà Sơn cách xa ngàn trùng, đường xá hiểm trở, chi bằng vua viết một
bài văn khắc lên ngự bia, phái khâm sai đến Phổ Đà Sơn cai quản việc
xây một mái đình để thờ bia văn ấy cho toàn dân có dịp kính phục
ngưỡng mộ.
Ung Chính nghe
thế hết sức đẹp lòng, bèn phái khâm sai đến Phổ Đà Sơn để xây dựng
mái đình.
Mái đình che
chở ngự bia phải xây ở đâu mới thích hợp ? Vị khâm sai đứng ở khung
cửa sổ chùa Phổ Tế, nhìn về phía trước chỉ thấy một bãi đầm lầy, nếu
xây đình ngự bia ở bên cạnh đầm lầy thì cửa vào của chùa Phổ Tế sẽ
bị che kín, không được ! Nếu xây trên bờ đối diện của cái đầm thì
lại rất thích hợp, nhưng phải đi vòng qua cầu Vĩnh Thọ, thế cũng
không được ! Vị khâm sai thấy thật khó xử, ông nhíu chặt đôi lông
mày, băng qua cầu Vĩnh Thọ, bước qua rồi đột nhiên kêu lên một tiếng.
- Đúng rồi !
Xây cầu mới !
Ở giữa đầm thì
xây cái đình tám góc (bát giác), hai bên đình thì xây cái cầu bằng
đá, khiến cho chùa Phổ Tế và đình ngự bia thông qua lại với nhau.
Như thế vừa có cầu vừa có đình, thật là hùng tráng và trang nhã, nếu
vua mãn ý thì thế nào cũng thăng cho mình ba cấp quan là ít ! Quả
nhiên, Ung Chính nhìn qua bản tấu thư, hỏi han một phen rồi bảo ông
phải trông coi việc xây cất cho cẩn thận, để sớm về kinh thành phục
chỉ.
Khâm sai đắc ý
vô cùng, lập tức sai người tìm thợ thuyền xa gần, nào thợ đá, thợ
mộc, thợ hồ, tới Phổ Đà Sơn nghe ông đọc thánh chỉ, và ra kỳ hạn
trong vòng 100 ngày công việc phải xong.
Đầm lầy này
nước thì sâu, bùn thì dơ, đám thợ thuyền ngâm mình trong đầm, mệt bở
hơi tai sống dở chết dở, tốn một tháng tròn nền móng của đình mới
xuất hiện lên khỏi mặt nước. Nền đình mỗi ngày một cao lên, không
lâu nữa có thể dựng cột lợp ngói rồi. Khâm sai thấy tiến trình như
thế thì rất vui mừng, vuốt râu gật đầu cười lên thích chí. Nào ngờ
tiếng cười chưa dứt, chỉ nghe vọng lên "cô lô, cô lô", bọt nước từ
giữa đầm sủi lên và "bõm", nguyên cái móng đình đổ sụp xuống đáy
không còn thấy đâu nữa.
Khâm sai lo
lắng quá hai chân nhảy cỡn, mắng người cai thợ một trận, ra lệnh xây
lại, không được trì hoãn kỳ hạn. Vị cai thợ chỉ biết ngậm đắng nuốt
cay không nói ra lời, hướng dẫn mọi người đi kiếm vật liệu khác chở
tới, lại ngâm mình trong đầm cả ngày lẫn đêm, một lần nữa mệt bở hơi
tai sống dở chết dở, một tháng sau móng đình mới xuất hiện lên mặt
nước trở lại. Khâm sai nóng ruột muốn cho mau xong, thôi thúc thợ
thuyền khiêng gỗ xây đình. Có ai ngờ, cột đình mới dựng lên xong thì
cũng một lần nữa, từ giữa đầm lại vọng lên "cô lô cô lô", bọt nước
sủi lên và "bõm", nguyên cái móng đình chìm xuống đáy nước không còn
thấy đâu nữa.
Hai tháng đã
trôi qua rồi, đừng nói gì tới cái đình tám góc, nội bóng dáng cái
móng đình vẫn chưa thấy mặt. Khâm sai sốt ruột như thiêu như đốt, cả
người cứ thế mà quay mòng mòng. Những tưởng mau xong việc mà về kinh
lãnh thưởng, nay sự thể như thế này, đừng nói tới chuyện đầu đội mũ
lông công (mũ của quan liêu trong lễ phục đời nhà Thanh), mà tính
mạng của cả nhà chưa chắc đã giữ được. Ông càng nghĩ càng sợ, càng
sợ càng dữ dằn, bèn hét lên ra lệnh lôi người cai thợ ra chém đầu
làm gương !
- Khoan hẵn !
Chỉ thấy một
ông già khoan thai, từ tốn đến trước mặt khâm sai, cung tay vái chào
và nói :
- Đại nhân bớt
giận, đây là đất Phật thanh tịnh, làm sao có thể động dao giết người
được ?
Khâm sai liếc
mắt nhìn, thấy lão già đầu đội mũ cỏ, chân mang dép cỏ, áo bằng vải
thô, dáng vẻ tầm thường nhưng mở miệng nói chuyện thì giọng thật oai
hùng, sang sảng. Viên khâm sai đúng lúc đang bực bội, thấy một ông
già không biết từ đâu lại mà còn tự nhiên xía vào chuyện của mình,
lại càng thêm bực tức, lửa giận bốc phừng phừng gắt rằng :
- Ông là ai mà
dám to gan đến thế ?
Lão già không
lộ ra chút gì là hoảng hốt sợ hãi, đáp rằng :
- Tôi từ vạn
lý xa xăm đặc biệt tới đất Phật xây đình.
Khâm sai nghe
ông lão nói mình biết xây đình vừa mừng vừa nghi, nhíu mắt nhìn ông
lão từ trên xuống dưới để đánh giá rồi quát rằng :
- Ông đừng nói
xằng nói điên, người như ông mà có thể xây nổi một cái đình tám góc
?
- Xây một cái
đình tám góc nhỏ xíu, có gì là khó ? Ông già trả lời thẳng thắn.
Nhưng phải chịu ba điều kiện của tôi.
Khâm sai thấy
cử chỉ của ông không giống phàm nhân, sau một lúc dò xét, suy nghĩ
chín chắn rồi mới nói :
- Được rồi.
Chỉ cần ông biết xây một cái đình tám góc, ra điều kiện gì ta cũng
chịu.
- Thứ nhất,
thả ông cai thợ.
Khâm sai đáp :
- Ta bằng lòng.
- Thứ hai, tạo
đình trên đất Phật thì phải lấy từ bi làm căn bản, không được tùy
tiện mắng mỏ công nhân.
Khâm sai đáp :
- Được, được !
- Thứ ba, xin
đại nhân thêm cho kỳ hạn.
Đến đây khâm
sai lắc đầu lia lịa :
- Không được !
Phải xây đúng kỳ hạn, nếu không ta sẽ bắt tội ông !
- Ha ha !
Ông lão ngẩng
mặt cười dài, rồi nghiêm sắc :
- Xử tử người
thì dễ, xây đình mới khó. Bây giờ kỳ hạn 100 ngày gần tới rồi, ông
làm sao để về kinh phục chỉ đây ?
Câu hỏi này
đánh trúng vào chỗ yếu của khâm sai, ông suy nghĩ mãi thấy không có
cách nào khác, chỉ đành gật đầu chấp thuận.
Ngày hôm sau,
ông lão không nói không rằng, một mình một thân nhảy xuống đầm cỏ
sình lầy, sờ soạn bên này, rờ rẫm bên kia, suốt cả ba ngày mới tìm
một ra cái "miệng rồng" ngay ở giữa đầm. "Miệng rồng" này thông qua
biển lớn Đông Hải, bình thường thì bị bùn dơ bịt kín, nhưng đến ngày
thủy triều lớn thì "cô lô cô lô", bọt sủi lên mặt nước, và bùn dơ
hay rác rưởi gì cũng đều bị hút xuống đáy biển. Ông lão tìm ra được
"miệng rồng" rôi thì hớn hở trèo lên bờ. Lúc ấy tất cả đám thợ
thuyền đều đứng chờ xem ý định của ông lão là gì, bèn vây xung quanh
ông xin giao cho việc làm. Ông lão chỉ cười mà đáp :
- Không có gì
gấp, các ông hãy chuẩn bị vật liệu đi !
Mọi người nghe
thế đều ngẩn người ra :
- Vật liệu đã
chuẩn bị xong từ lâu rồi, bây giờ ông giao việc gì khác đi chứ !
Ông lão nhìn
mọi người rồi chỉ lên núi, chỗ có một đống đá vụn mà nói :
- Gánh hết chỗ
đá vụn ấy xuống đây, chất lên hai bên bờ đầm, sẽ có lúc cần dùng !
Mọi người
không biết ông lão đang nghĩ gì trong đầu nhưng không dám cưỡng lệnh,
chỉ đành đi gánh đá vụn, không đầy một ngày, hai bên bờ đầm chất một
đống đá vụn cao thật là cao. Tuy nhiên ông lão thì trốn trong một
gian thiền phòng của chùa Phổ Tế, cửa đóng kín mít nhưng đèn đuốc
sáng choang, và cả ngày chỉ nghe "sầm sập, sột soạt" chẳng ai biết
ông đang làm gì trong ấy.
Sau ba ngày,
mọi người vẫn thấy ông lão trốn trong thiền phòng chưa ló mặt ra, họ
bắt đầu bàn tán xôn xao, người thì nói :
- Ông già này
không có tài cán gì cả, chúng ta bị lừa rồi !
Người khác cho
rằng :
- Ông già này
dường như không muốn sống, tới đây tìm cái chết hay sao ấy !
Đứng lúc mọi
người đang bàn tán như thế thì đột nhiên nghe tiếng "cô lô cô lô"
quen thuộc từ giữa đầm vọng lên, và nước sủi bọt không ngừng.
Ông già nghe
âm thanh ấy, "sầm" một tiếng từ thiền phòng phóng ra, hai tay ôm một
con rồng gỗ điêu khắc thật tinh xảo, đầu hất lên trời, duỗi chân
dương móng, hệt như một con rồng thật. Ông già chạy đến gần đầm
phóng con rồng gỗ lên trời, nghe "vù vù", rồi có một con rồng toàn
thân dát vàng đâm đầu xuống đầm, chúi xuống đáy nước. Đám thợ thuyền
há hốc mồm ngây người ra mà nhìn, ông lão lớn tiếng giục giã họ đẩy
đống gạch vụn xuống đầm. Trong nháy mắt, từ giữa đầm lầy không còn
thấy nước sủi lên nữa.
Ông lão lại
nhẹ nhàng phi thân xuống ao, hướng dẫn đám công nhân khiêng đá đắp
móng đình.
Kỳ lạ, lần này
móng đình xây xong vững như bàn thạch, không còn sụp đổ nữa.
Chẳng bao lâu
sau, một ngôi đình tám góc trang nhã xinh xắn được xây lên, hai bên
đình là cây cầu đá nối ngự bia với cửa chính của chùa Phổ Tế.
Về sau người
ta dọn sạch đầm lầy xung quanh đình, biến đầm trở thành một hồ sen.
Mỗi lúc hoa sen nở rộ, toà đình tám góc này trở nên một quang cảnh
đặc biệt đẹp mắt.
Diệu Hạnh Giao Trinh