Chùa Từ Vân nhờ có thờ tượng Đa Bảo Quan Âm nên khách dâng
hương lễ bái kéo đến nườm nượp, tiền cúng dường vô cùng hậu
hĩ. Tuy nhiên, người dâng hương lễ bái không phải bất cứ người
nào cũng là hạng người mà Bồ Tát kỳ vọng, nghĩa là những người
có tâm hướng thiện. Có rất nhiều người đến lễ bái Quan Âm với
tâm ích kỷ, với ý đồ riêng tư.
Lúc ban đầu, đại đa số đến chỉ để cầu tiền cầu phúc, muốn bất
cứ việc nhỏ việc lớn nào cũng đến trước tượng Bồ Tát mà cầu
khẩn. Về sau nữa thì thậm chí kỹ nữ, tú bà cũng đến thắp
hương quỳ lạy, cầu xin Bồ Tát gia hộ cho việc làm ăn của mình
được phát đạt, dân trộm cắp xin cho đường sinh nhai của mình
được hanh thông, kẻ si tình người thất chí thì xin được thành
duyên gia thất. Người đến dâng hương lễ bái hạng nào cũng có,
làm cho ngôi chùa Từ Vân đang trang nghiêm trở thành rối ren
đen tối.
Một hôm, có một tên cướp tên là Hồ Thất cũng đến chùa Từ Vân
dâng hương. Tên cướp này vốn có tà tâm nên cứ lảng vảng đứng
ngắm bức tượng Đa Bảo Quan Âm. Bảo tượng Quan Âm này được khắc
bằng tinh lõi của cây lê lúc Bồ Tát hiển thân dùng cây lê thế
thân chịu đòn cho mình ngày xưa. Bên trên có che trướng bằng
hạt châu, tràng phan bằng đá quý. Tên cướp trở về tụ họp bọn
đồng lõa lại bàn thảo, chuẩn bị ra tay. Tối hôm ấy, Hồ Thất
một mình leo tường đột nhập vào chùa Từ Vân cõng tượng Quan Âm
ra, kéo đến một chỗ hẻo lánh và cùng đồng lõa lột hết các bảo
vật trên 18 cánh tay của tượng chia đều với nhau, xong đem
tượng liệng xuống sông cho tượng theo dòng nước trôi đi chỗ
khác.
Khi bọn cướp vứt tượng Đa Bảo Quan Âm xuống sông thì Ngài Quan
Âm cũng vừa qua sông để đến thành Kim Lăng. Đôi mắt từ bi của
Bồ Tát nhìn thấy bọn cướp trộm tượng lột bảo vật nên Ngài
không vui lòng chút nào. Thấy bức tượng đang trôi về phía Kim
Lăng Ngài chợt nghe tâm động, quyết định chọn một người thiện
lành và có duyên với Phật Pháp để nhờ người ấy ra tay giúp đỡ.
Người này họ Phan tên Hòa, là một người làm nghề bán gạo ở Kim
Lăng, có một cửa hàng bán lương thực nên cảnh nhà cũng khá
giả. Đây là một Phật tử thuần thành, thích bố thí làm việc
thiện, xa gần ai cũng khen ông là người tốt. Tuy là người chí
thành thờ Phật và làm việc thiện nhưng Phan Hòa vẫn có điểm ưu
phiền, đó là tuy đã quá nửa đời người rồi mà trong nhà chỉ có
một cô con gái chứ không có con trai nối dõi. Ông mong muốn
con trai tha thiết mà không được như ý, đành tìm nơi xứng đáng
kén rể quý rồi bắt rể coi như con trai. Nhưng vì ông quá kén
chọn, cao không tới thấp không thông nên cứ dùng dằng mãi cho
đến ngày nay, cửa nhà vẫn cứ trống trải.
Bồ
Tát Quan Âm biết rằng người này có thiện căn nên mới chọn ông
ta. Một hôm Phan Hòa nằm mộng thấy một người đàn bà đầu đội
khăn, toàn thân áo trắng, nói với ông rằng :
-
Ông Phan, ngày mai ông hãy ra cửa sông đứng chờ, khoảng giữa
giờ tý và giờ ngọ sẽ có một bức tượng Quan Âm bốn mặt và 18
cánh tay trôi vào. Ông hãy cẩn thận vớt tượng lên rồi sau đó
đem tượng lên chùa Kê Ô ở trên núi Thanh Lương tu sửa lại để
thờ phụng. Chỗ đó có một tảng đá hình như cái lá sen, vừa khéo
có thể dùng làm đài sen. Ông làm được việc này thì công đức vô
lượng, muốn điều chi cũng có.
Phan Hoà đáp rằng :
-
Tôi xin tuân theo lời dạy của bà làm tất cả các điều ấy, hôm
nay có phúc lành xin cho tôi hỏi một chuyện, tuy đã quá nửa
đời người rồi mà nhà vẫn chưa có con trai, mấy năm nay ao ước
mong cầu, không biết tôi có hy vọng nào không ?
Người đàn bà áo trắng nói :
-
Điều đó dễ thôi, tôi ban cho ông một đứa con trai cũng được !
Nói xong người đàn bà lấy một con cờ vây trắng trao cho Phan
Hòa. Ông tính hỏi thêm một câu nữa thì người đàn bà đã biến
mất, bèn giật mình thức giấc. Hôm sau Phan Hòa chạy ra cửa
sông đứng đợi, quả nhiên thấy một bức tượng Quan Âm bằng gỗ từ
từ trôi vào. Ông cẩn thận vớt tượng lên, lập tức đưa lên chùa
Kê Ô và còn bỏ tiền ra mướn thợ tu sửa lại kim thân Bồ Tát,
xong lấy tảng đá hình lá sen tạc thành một đài sen. Khi tên
cướp Hồ Thất trộm tượng cõng lên lưng vượt tường ra khỏi chùa,
vô ý đụng bể phần dưới của tượng nên tượng không đứng được,
chỉ có thể nằm nghiêng nghiêng trên đài sen nên người đời đặt
tên cho bức tượng này là "Quan Âm nằm hoa sen" (Ngọa liên Quan
Âm).
Lúc ấy Phan Hòa bỗng nhiên ngộ ra rằng người đàn bà áo trắng
đến báo mộng cho mình không ai khác hơn là Quan Âm Bồ Tát, vừa
ngạc nhiên vừa mừng rỡ, ông bèn mời một người thợ vẽ nổi tiếng
ở Kim Lăng vẽ lại hình dáng người đàn bà áo trắng mà mình đã
mộng thấy, và với tâm mong cầu con trai tha thiết, ông còn nhờ
người thợ vẽ thêm một cậu bé trai trong lòng Ngài Quan Âm, đặt
tên hình là "Tống tử Quan Âm" (Quan Âm cho con), thờ phụng tại
nhà, ngày nào cũng chí thành lễ bái.
Quả nhiên không lâu sau, vợ Phan Hòa hoài thai sinh được một
quý tử trắng trẻo dễ thương. Chuyện Phan Hòa thờ tượng Bạch Y
Tống tử mà sinh được con trai được truyền đi khắp nơi, nên
toàn vùng Giang Nam, nhà nào không có con trai cũng thi nhau
bắt chước, về sau việc này trở thành một phong tục địa phương.
Kỳ
thật, Ngài Quan Âm mà Phan Hòa mộng thấy chỉ trao cho ông một
con cờ vây trắng, trong lòng không hề ôm đứa bé nào cả, tấm
hình ôm con kia hoàn toàn do trí tưởng tượng của Phan Hòa đặt
ra.
Nhắc đến Hồ Thất và đồng lõa, khi chúng chia nhau xong bảo vật
cướp được của Đa Bảo Quan Âm, mỗi người đi một hướng khác nhau
mà trốn tránh quan quân. Hồ Thất một mình chạy đến Nam Kinh,
trốn lên núi Tử Kim Sơn ẩn mặt một thời gian, nghe ngóng thấy
sự truy nã đã bớt gắt gao mới dám chường mặt ra giả làm một
địa chủ vào thành bán bảo vật. Hắn tìm đến một tiệm vàng nói
với chủ tiệm rằng muốn bán một vài bảo vật gia truyền.
Tên chủ tiệm cũng là một phường lưu manh xảo trá không kém gì
hắn, nên tuy thừa biết những hạt minh châu của Hồ Thất rất quý
giá song vẫn nói rằng đó là đồ giả. Sau hắn còn muốn bóp chẹt
nên bảo rằng hiện tại buôn bán khó khăn, hắn chỉ có thể mua
lại với một giá rẻ mạt. Hồ Thất thấy chủ tiệm bóp chẹt mình mà
vẫn còn tỏ ra vênh váo hợm hĩnh thì lửa giận phừng phừng.
Theo thói gian ác của hắn, hắn đã muốn cho tên chủ tiệm một
bài học đích đáng nhưng biết mình hiện còn đang bị truy nã,
không muốn làm kinh động tới quan quân nên mới không ra tay.
Hắn ước lượng những hạt châu mình mang tới ít nhất cũng đổi
được một ngàn hai trăm lượng bạc, ai ngờ tên chủ tiệm chỉ bằng
lòng đưa có hai trăm lượng. Hắn không nhẫn nhịn được nữa, bèn
lấy tay quơ lại bảo châu bảo không muốn bán nữa, xong hầm hầm
quay mình bỏ đi.
Hắn đang giận dữ nên không nhìn thấy ai, không ngờ hắn vừa mới
quay người đi thì đụng phải một người đàn bà mới bước vào cửa
tiệm. Bước đi hùng hổ dữ dằn của hắn rất mạnh bạo nên khi đụng
phải người đàn bà, người này ngã xuống đất một cách nặng nề.
Đây là cô tiểu thiếp của vị quan phủ đương thời, hôm nay đến
tiệm vàng tính mua sắm trân châu làm vật trang sức cho mái
tóc, có lính hầu đi theo. Người lính hầu thấy bà chủ bị đụng
ngã lăn xuống đất la oai oái, bèn xông tới tóm lấy Hồ Thất.
Khi Hồ Thất thấy đó là người của quan phủ thì sợ hãi tính bỏ
chạy, nhưng người lính túm lấy tay áo của hắn nắm cứng.
Hồ Thất nóng ruột muốn thoát thân nên rút dao ra tính đâm
người lính, nhưng người này vốn là con nhà võ, võ công cao
cường lại quen bắt giặc cướp, nên chỉ nhích thân tránh dao và
bay lên đá vào tay của Hồ Thất, con dao rơi xuống đất đánh
"keng !" một tiếng. Hồ Thất nào dám đánh tiếp, vừa lăn vừa bò
lết tới cửa, ra tới ngoài rồi thì phi thân chạy thục mạng.
Người lính một mặt đuổi theo một mặt hô hoán lên, một vài
người lính đang đi tuần tiễu ngoài đường nghe thế cũng đuổi
theo Hồ Thất sát gót. Trong cơn hoảng hốt, Hồ Thất chạy bừa
không kể đường xá, chạy tới bờ sông, nhìn thấy bọn lính đã đến
ngay sau lưng mình rồi và xung quanh không có đường nào khác
thối lui, quẫn bách quá hắn đành nhảy đại xuống sông. Nhưng
tên cướp này không hề biết bơi, hắn vùng vẫy một lúc trong
nước và trong nháy mắt, bị sóng cuốn vào một con nước xoáy,
thế là không thấy hắn nữa.
Số
phận của những tên đồng lõa cũng không khá hơn gì. Chia tay
với Hồ Thất rồi, chúng tìm được một cái miếu hoang ẩn thân.
Nhưng trong một đêm sâu, đột nhiên sấm chớp dậy trời, cuồng
phong giận dữ, mưa như thác nước, bọn cướp sợ quá nép vào góc
tường co rúm lại quỳ xuống đất dập đầu lạy xin tha mạng.
Nhưng mưa to gió lớn vẫn không thuyên giảm, trong miếu mưa
tuôn xối xả dội xuống bọn giặc cướp khiến chúng không còn chỗ
dung thân. Đột nhiên trong ánh sáng một lằn chớp, chúng nhìn
thấy một vài vị Kim Cang La Hán mắt trợn trừng giận dữ, tay
cầm vũ khí giáng xuống đầu chúng dồn dập. Bọn cướp sợ quá
không còn hồn vía, vãi cả ra quần, liều mạng chạy ra ngoài tìm
đường trốn. Đúng ngay lúc đó, trong một tiếng nổ long trời lở
đất, một lằn sét giáng xuống và toàn bộ những tên giặc cướp
ngã lăn xuống. Những bảo vật chúng đã cướp được vung vãi đầy
mặt đất.
Ngày hôm sau trời quang mây đãng, dân chúng làng bên đi ngang
miếu hoang, thấy một vài tử thi nằm la liệt dưới đất, bên cạnh
là rất nhiều bảo vật rải rác. Có một vài thiện nam tín nữ đã
từng đi chùa Từ Vân và đã nhìn thấy tượng Đa Bảo Quan Âm, nay
nhìn thấy bảo vật là nhận ra ngay, bèn lập tức gởi trả về
chùa.
Sau việc này, dân chúng ở đây cảm nhận được uy lực vĩ đại của
Quan Âm Bồ Tát, nên lòng tin kính Tam Bảo tăng trưởng rất
nhiều, một lòng hướng về đạo. Những tên trộm vặt bắt gà trộm
chó cũng do đó mà sám hối tội lỗi, bỏ dữ làm lành.
Diệu Hạnh GiaoTrinh |