Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM


Truyền Thuyết Về

Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM


Pháp Luận
HOME




27 - Ao Quan Âm

Diệu Hạnh Giao Trinh
chuyển ngữ

 

Xưa thật là xưa, dưới chân núi Hổ Phong phía đông huyện Bích Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, có một người nhà giàu họ Hoàng. Tiểu thư nhà này đem lòng yêu thương một người thợ làm công trong nhà, ông nhà giàu biết được bèn sai gia nhân tống cổ người thợ ra khỏi cửa. Tin này đến tai cô tiểu thư, cô bèn lén bỏ nhà đi theo tiếng gọi của ái tình.

Hai người đi hoài đi mãi, đi đến một khe núi nọ, người thợ mới nghĩ rằng :

- Ta nghèo khổ đến nỗi một cái nồi nấu cơm cũng không có, nên ở độc thân là hơn, tại sao lại kéo tiểu thư vào cái cảnh sống cơ cực này ? Chi bằng lập kế bắt nàng phải trở về !

Nghĩ ngợi kỹ lưỡng rồi bèn ngắt một bó lá, nói rằng :

- Nàng ở đây chờ một chút, tôi ra đằng kia đi cầu rồi trở lại.

Nhưng người thợ một đi là không trở lại. Tiểu thư chờ đợi mỏi mòn, đi khắp các đường đèo dốc núi, vừa đi tìm vừa gọi tên, gọi tới rát khan cả cổ mà vẫn không thấy bóng người tình, cô tuyệt vọng quá đến một gốc cây treo cổ tự tử.

49 ngày sau, người thợ kia đi ngang qua khe núi bữa trước, tới chỗ chia tay với cô tiểu thư ngày nào thì bất chợt thấy nàng đang ngồi ở đấy. Anh chàng vội vàng tiến đến hỏi :

- Tại sao nàng lại ngồi ở đây ?

Hoàng tiểu thư đáp :

- Sau khi chàng bỏ rơi thiếp, cha thiếp không đoái hoài tới thiếp nữa nên ngày nào thiếp cũng đến đây ngồi đợi chàng.

Người thợ thấy tiểu thư đối với mình chung tình và chân thành như thế, cảm thấy quá ăn năn hối hận, nói với nàng rằng :

- Không phải tôi muốn bỏ nàng, thật ra chỉ vì tôi quá nghèo khổ, không nỡ thấy nàng vì tôi mà phải sống cảnh bần cùng cơ cực nên mới hành động như thế khiến cho nàng phải đau lòng, có trời chứng kiến cho lòng thành của tôi !

- Thôi được, đừng nói đến nữa. Nhưng chàng phải hứa với thiếp là từ nay về sau chàng sẽ không bao giờ bỏ rơi thiếp nữa.

- Không bao giờ nữa đâu ! Lần này là vì muốn cho nàng sung sướng nên mới làm như thế, nếu về sau còn làm thế nữa thì ra tôi táng tận lương tâm quá !

Thế là hai người đến phía Nam huyện Bích Sơn, tìm một cửa tiệm có mặt tiền hướng ra ngoài đường mà mở tiệm bánh hấp để sinh sống. Tiệm bánh hấp mở không bao lâu đã phát đạt vô cùng.

Một hôm, có một lão hòa thượng từ trên núi Hổ Phong xuống, thấy ở tiệm nọ có rất nhiều người đang tranh nhau mua bánh hấp, ngài cũng đến mua một cái.

Mới đến ngài ngửi thấy có cái gì không ổn, dường như có yêu khí đâu đây ! Nhìn kỹ lại, ngài phát giác rằng yêu khí đó là từ người của bà chủ tiệm toát ra. Ngài đứng đợi một chút, thấy ông chủ tiệm bước ra đường, bèn gọi ông lại mời ông cùng đi dạo với mình một vòng. Ông chủ tiệm nào phải ai xa lạ, chính là anh chàng thợ làm công xưa kia. Lão hòa thượng nói một cách thẳng thừng :

- Vợ ông là yêu tinh đó !

Người chồng nghe thế giật mình hoảng hồn, nhưng cũng hơi giận nên đáp rằng :

- Thầy dựa vào đâu mà nói vợ tôi là yêu tinh ? Vợ tôi là một người đàn bà hiền lành đức độ, lại còn siêng năng giỏi giang, làm sao là yêu tinh được ?

Lão hòa thượng hỏi hai người cưới nhau lúc nào, thì người chồng không dấu giếm gì cả, đem hết sự thật kể cho ngài nghe. Lão hòa thượng lại nói :

- Buổi sáng, hai ông bà ai là người ra khỏi giường trước ?

- Vợ tôi luôn luôn dậy trước hấp bánh đâu đó xong xuôi rồi mới gọi tôi dậy, ai cũng nói tôi là "chuột sa chỉn nếp" !

Lão hòa thượng nói :

- Thế được rồi, sáng mai ông chờ bà ấy dậy, lén theo dõi xem bà ấy làm gì nhé.

Nói xong ngài bỏ đi ngay. Người chồng tuy nói là không tin nhưng cũng muốn làm cho hai năm rõ mười nên làm theo lời hòa thượng.

Sáng sớm hôm sau, người chồng thấy vợ ra khỏi giường rồi bèn mở mắt theo dõi. Trước hết, ông thấy vợ ra đứng trước gương chải đầu, chải đầu xong thì xuống bếp. Ông rón rén dậy theo, núp sau cánh cửa mà nhìn qua khe thì thấy vợ lấy gạo bỏ vào một cái vại lớn, chế nước vào rồi kê miệng thổi một hơi, gạo liền biến thành bột đã quậy nước rồi. Tiếp theo, ông thấy từng cái, từng cái lồng hấp bay vào nồi chồng lên nhau, không có lửa mà từ mấy cái lồng hấp ấy lại có khói bay lên mù mịt, còn cái vại bột gạo ban nãy thì không còn thấy nữa. Nhìn đến đây, ông tính trở về giường nhưng chợt thấy vợ biến thành một làn khói xanh bay xuyên qua khe cửa sổ mà ra khỏi nhà. Ông sợ quá, vội vàng trèo lên giường lấy mền che đầu kín mít. Một chốc sau bình tĩnh trở lại, ông suy nghĩ rằng :

- Yêu tinh cũng có người tốt kẻ xấu, từ khi cưới nhau nàng đối với ta rất tốt, chắc nàng sẽ không bao giờ hại ta đâu. Hơn nữa, may mà nàng có pháp thuật nên cửa tiệm bánh mới phát đạt như thế ! Có gì đâu mà lo, yêu tinh thì yêu tinh, rồi đã sao nào ?

Vợ ông trở về rồi bèn gọi ông dậy và hai người lại lo chuyện buôn bán như bình thường.

Không lâu sau, lão hòa thượng lại đến mua bánh nữa. Chờ vắng khách ngài lại gọi người chồng ra hỏi :

- Sao, ông thấy cả rồi phải không ?

- Thấy thì thấy, nhưng vợ tôi không hại ai thì có sao đâu ?

- Ông cứ cố chấp không chịu tỉnh ngộ ! Bây giờ bà ấy không hại ai, còn về sau thì sao ? Tại vì hồi đó ông bỏ rơi bà nên bà mới treo cổ tự tử, tại sao bà ấy chưa ăn sống ông tôi cũng lấy làm lạ ! Nhưng thôi, chuyện đó không nói, nhưng trong thành còn có dân chúng có thể bị vạ lây, vì ông mà mang họa. Ta không thể thấy vậy mà để yên.

Nghe lão hòa thượng nói thế, người chồng cảm thấy đuối lý. Lão hòa thượng vội vàng vẽ 21 lá bùa, đưa cho ông dặn rằng :

- Ngày mai, đợi vợ ông ra khỏi nhà rồi thì lấy mấy lá bùa này dán lên phía trên cửa vào và cửa sổ, dán xong, thủ trong mình 21 quả trứng gà và lên núi Hổ Phong tới cái miếu bên cạnh ao Quan Âm tìm ta. Vợ ông sẽ theo đuổi ông, khi nào ông thấy bà ấy sắp bắt kịp thì ném một quả trứng gà lên người bà. Gần đến miếu, ta sẽ có cách thu phục bà ấy.

Người chồng tiếp lấy bùa, lại nghĩ thầm rằng :

- Chính ra, vợ ta mà trở thành yêu tinh là lỗi tại ta. Nếu quả thật sau này bị hại, có chết cũng cam tâm nhưng ngộ nhỡ để cho người khác bị vạ lây rồi có bề gì thì tội ta rất lớn. Dầu sao đi nữa, xong vụ này ta phải xuất gia tu hành để độ cho oan hồn nàng được siêu sinh, có thế mới không uổng tình vợ chồng từ bao năm nay !

Nghĩ thế xong, ông trở về nhà và làm như không có chuyện gì xẩy ra. Hôm sau trời chưa sáng, vợ ông ra ngoài rồi, ông lấy mấy là bùa dán lên phía trên cửa ra vào và cửa sổ như lời lão hòa thượng chỉ bày, rồi lấy trứng gà đem theo mình, hướng phía núi Hổ Phong lên đường.

Vợ ông về nhà, thấy trên cửa và cửa sổ dán đầy bùa, nhớ lại lão hòa thượng hôm qua đến tìm chồng mình, bèn nghĩ rằng :

- Chắc chắn lão hòa thượng này đến phá thối chứ không ai vào đây cả !

Nghĩ xong bà quay đầu đuổi theo chồng, vừa chạy vừa kêu :

- Phu quân ơi, sao lại bỏ thiếp vậy ? Thiếp một lòng một dạ với chàng mà !

Người chồng nghe tiếng vợ kêu như vậy, lòng đau như cắt, đôi chân mềm nhũn. Nhưng khi thấy vợ sắp đuổi kịp, biết mình không thể quay về được nữa, bèn nhớ lại lời dặn của lão hoà thượng, lấy một quả trứng gà cắn răng ném vào người vợ.

Vợ ông bị ném trúng quả trứng gà thì lập tức lùi lại mấy bước, kêu lên một cách thảm thiết :

- Chàng đừng ném trứng gà lên người thiếp nữa ! Thiếp không bao giờ hại ai cả mà !

Người chồng thừa cơ ấy đứng lại nói với vợ rằng :

- Nàng đừng đuổi theo tôi nữa, tôi không cố ý bỏ nàng đâu. Tôi biết là tôi không xứng đáng với nàng, nhưng tôi đã quyết tâm xuất gia tu hành. Làm thầy tu rồi, biết đâu tôi có thể độ cho nàng được siêu sinh !

Nói xong ông quay đi, hướng vế phía núi Hổ Phong mà chạy. Vợ ông cũng chạy theo đằng sau, chạy một lúc thì gần bắt kịp, ông lại phải ném một quả trứng gà khác. Cứ thế mà ném hết 21 quả trứng gà thì cửa miếu cũng vừa hiện ra trước mắt. Người chồng bủn rủn chân tay, ngã nhào xuống đất.

Lão hòa thượng đã đứng trước cửa miếu từ bao giờ, mở xoạc một cánh quạt ra quạt một cái, trong ánh sáng chói lòa bắn ra, có thể thấy một làn khói xanh từ từ chui vào ao Quan Âm. Sau đó, giọng người vợ vang lên, vừa khóc vừa nói :

- Trời ơi, sao số của tôi khổ thế này !

Lão hòa thượng lại quạt thêm một cái nữa, bỗng có hai cái chuông sắt bay lên liên tiếp, một cái rơi trên cành cây mọc bên cạnh bờ ao treo lủng lẳng, một cái nữa thì rơi vào trong ao Quan Âm.

Từ đó không nghe tiếng kêu khóc của người vợ nữa. Về sau có người nói rằng người chồng quả thật đã xuất gia làm thầy tu.

 

Diệu Hạnh Giao Trinh

 

|MUCLUC | QA1 | QA2 | QA3 | QA4 | QA5 | QA6 | QA7 | QA8 | QA9 | |QA10 | QA11 | QA12 | QA13 | QA14 | QA15 | QA16 | QA17 | QA18 | |QA19 | QA20 | QA21 | QA22 | QA23 | QA24 | QA25| QA26 | QA27 | |QA28 | QA29 | QA30 | QA31 | QA32 | QA33 | QA34 | QA35 | QA36 | |QA37 | QA38 | QA39 | QA40 | QA41 | QA42 | QA43 | QA44 | QA45 | |QA46 | QA47 | QA48 | QA49 | QA50 |

Mọi Chi tiết xin liên lạc:

Tâm Hà Lê Công Đa: lecongda@aol.com