THIỀN, CON ĐƯỜNG NGHỊCH LÝ

CHƯƠNG 7

Nhịp Ðập của Vũ Trụ

 

 

 

Nhịp Ðập của Vũ Trụ

 

Xưa có một người đang đứng trên một đỉnh đồi cao. Ba người khách bộ hành đi ngang qua trông thấy ông ta từ đằng xa và bắt đầu lên tiếng tranh cãi. Một người cho rằng, “Có lẽ ông ta đang lạc mất con gia súc mà ông ta ưa chuộng.” Người kia cãi lại, “Không đâu, chắc là ông ta đang trông chờ người bạn đấy thôi.” Người thứ ba không đồng ý: “Ông ta lên đứng đó để thưởng thức không khí trong lành đó mà.”

Ba người bộ hành chẵng ai đồng ý với ai và tiếp tục cãi nhau cho đến khi họ lên đến đỉnh đồi chỗ người kia đang đứng. Người thứ nhất lên tiếng hỏi: “Này ông bạn, đứng trên đỉnh đồi trông ngóng, phải chăng ông bạn bị lạc mất con gia súc nào chăng?” “Thưa  Ngài, tôi không lạc mất con gia súc nào cả.”

Người kia hỏi tiếp: “Thế chắc là ông bị lạc mất người bạn chứ gì?” “Thưa Ngài, tôi cũng chẳng có người bạn nào bị lạc cả.”

Người thứ ba hỏi: “Như vậy chắc ông bạn đang đứng hóng gió ?” “Không phải vậy đâu, thưa Ngài.”

“Tất cả các câu hỏi của chúng tôi ông bạn đều trả lời là không phải, vậy ông bạn đứng đây làm gì vậy?”

Người đàn ông trên đồi trả lời: “Thì chỉ đứng chơi vậy thôi mà.”

 

Thiền là gì? Thiền là sống trong một sự hòa điệu -cả nội tại lẫn ngoại giới. Thiền là sống trong tình trạng chan hòa. Thiền là hoà điệu sống.

Con người lạc lối vì đã đánh mất sự hoà điệu này. Y ở trong tình trạng bị xâu xé; bị lôi đi mọi hướng khác nhau trong cùng một lúc. Y không còn là một cá thể mà đã trở thành người của đám đông. Ðám đông thì không còn ở trong thiền. Không là đám đông mà chỉ là một tức là ở trong thiền. Lúc đó chỉ có một thực thể duy nhất và ngay cả cái duy nhất này cũng không còn tồn tại nữa… Ðông phương gọi tình trạng này là bất nhị, không phải là nhất thể. Chúng ta đã phải tạo ra hai chữ “bất nhị” này để diễn tả, để chỉ rõ rằng đây không phải là nhị nguyên, thế thôi. Hai không còn hiện hữu, cái đám đông tan biến đi, và dĩ nhiên cùng với cái đám đông, cái nhất thể cũng ta biến theo. Cái một chỉ hiện hữu trong cái nhiều.

Thông thường con người là đám đông, là tập thể. Con người không hề là chính nó bởi vì ở hắn không có sự hợp nhất. Tất cả chỉ là những mảnh vụn, không được hợp thành, không bao giờ là một khối.

Thiền là trở thành một khối và khi bạn là một khối nguyên vẹn, bạn trở nên an lạc.

 

 

Thế nên điều trước tiên là người ta phải đạt đến sự hoà điệu này ngay chính từ trong nột tâm và rồi sau đó ra ngoại giới. Bản thân y trước hết phải trở thành một khối hòa điệu để có thể bắt đầu có cùng chung một nhịp đập với một khối hòa điệu lớn hơn của vạn hữu.

 

Như vậy Thiền bao gồm hai bước đi. Bước thứ nhất là không có sự xung đột nội tại, không cho phép một cuộc chiến nào kéo dài âm ỉ ở trong bạn -giữa tâm và thân, giữa lý trí và cảm xúc, giữa cảm xúc và dục tính. Thế nhưng cuộc chiến vẫn cứ tiếp tục không bao giờ ngưng nghỉ -bạn có để ý đến điều này không?  Một cuộc chiến cứ liên tục tiếp diễn không bao giờ ngừng.

Dĩ nhiên làm thế nào bạn có thể hạnh phúc được. Trừ phi những thành phần tranh chiến này ở trong bạn chịu ôm lấy nhau, chấm dứt chiến đấu, yêu thương nhau, tan hoà vào nhau, không cách gì bạn có thể có được hạnh phúc. Hạnh phúc lúc đó chỉ còn là một mối hy vọng. Phải nên hiểu rằng hạnh phúc luôn là chiếc bóng của sự hoà điệu, nó theo sát sự hòa điệu đến khắp mọi nơi. Ngoài ra không còn một cách thế nào khác để đạt đến hạnh phúc. Trừ phi bạn trở thành một khối hòa điệu, cho dù bạn có cố gắng cách mấy đi nữa rồi bạn cũng sẽ chỉ gặt lấy sự phiền toái bực bội ngày một nhiều hơn, rồi sẽ rơi vào những khổ đau bất tận. Giống như một cái bóng theo đuổi bạn, hạnh phúc chỉ theo sát khi bạn là một khối hòa điệu thống nhất.

 

Như vậy bước thứ nhất diễn ra ở ngay trong chính bạn –và khi bạn trở nên cùng chung một nhịp đập không còn sự chia cách, một luồng sóng năng lượng không còn sự đối kháng, không thấp hơn cũng không cao hơn, không chọn lựa, không đánh giá, cũng không phán xét, một cách đơn giản khi bạn chỉ là một, lúc đó bước thứ hai xảy đến. Khi bạn trở thành một, bạn mới có thể thấy được nhất thể -chỉ lúc đó nó mới có thể được nhìn thấy. Ðôi mắt của bạn đã trở nên sáng tỏ, mọi chuyện đều rõ ràng. Khi bạn là một bạn sẽ thấy được cái nhất thể bao quanh bạn. Bây gìờ thì bạn hiểu được ngôn ngữ của nhất thể. Cái ngôn ngữ của đám đông đã biến mất -tiếng động hỗn tạp kia không còn nữa, bạn đã thoát ra khỏi nhà thương điên, cơn ác mộng xưa đã chấm dứt. Bạn ở trong tĩnh lặng. Từ trong tĩnh lặng này bạn có thể tan hoà vào vạn hữu; và bây giờ thì bạn có thể hoà điệu với nhịp đập chung của toàn vũ trụ. Ðây là bước thứ hai của thiền.

 

Bước thứ nhất tương đối khó khăn, bước thứ hai thì dễ dàng hơn. Bước thứ nhất đòi hỏi nhiều cố gắng, một nỗ lực lớn lao; bước thứ hai hoàn toàn đơn giản, nó đến một cách hầu như tự động. Bước thứ nhất giống như một người mù đang được giải phẫu đôi mắt. Bước thứ hai là lúc giải phẩu xong: đôi mắt đã lành, người mù mở mắt ra và trông thấy ánh sáng, một thế giới tràn ngập ánh sáng, và hàng triệu niềm vui òa vỡ chung quanh y với màu sắc, ánh sáng, với bao nét diễm kiều, với thiên hình vạn trạng.

 

Bước thứ nhất cần nỗ lực, bước thứ hai đến một cách tự nhiên. Bước thứ nhất giống như yoga, bước thứ hai là Thiền -hoặc nếu so sánh một cách thời thượng, bước thứ nhất giống như Gurdjieff (1) và bước thứ hai giống như Krishnamurti (2). Ðó là lý do tại sao tôi gọi thiền là tuyệt đỉnh. Thiền là tiếng nói cuối cùng. Yoga chỉ mới là bước đầu của cuộc hành trình, Thiền là bước kết thúc.

 

Khi bạn trở thành một bỗng dưng bạn thấy được cái nhất thể bao quanh, tất cả mọi vật cản hoàn toàn biến mất. Lúc này chẳng còn “ta” cũng chẳng còn “ngươi”, chỉ còn duy nhất là Thượng Ðế hay chân lý hay đại định hay bất cứ danh từ nào mà bạn thích –niết bàn chẳng hạn. Thiền giả gọi tình trạng này là  konomama hay sonomama –đó là tình trạng như thị, là chân như, tagatha. Một chính là như thị, là vô tác, vô niệm, vô cảm thọ. Cái như thị này là kinh nghiệm rốt ráo về cực lạc. Ngoài ra không còn gì khác nữa. Ðấy là mục tiêu. Ðể đạt đến cái như thị này là một nỗ lực kiếm tìm không ngưng nghỉ của mọi con người.

 

Nhưng trước khi có thể biết được làm cách nào để đạt đến sự hoà điệu nội tâm này chúng ta cần phải nhìn một cách thấu đáo bằng cách nào chúng ta đã biến thành một cái đám đông bát nháo như thế. Bằng cách nào cái tai ương này lại đổ xuống đầu chúng ta như thế? Ai tạo ra chuyện đó và nó được tạo ra như thế nào. Trừ phi chúng ta biết nó được tạo ra như thế nào, không cách gì chúng ta có thể loại bỏ được nó.

 

 

Có một lần trong buổi thuyết pháp vào buổi sáng, Ðức Thế Tôn cầm trên tay một chiếc khăn tay. An vị trước mười ngàn tăng chúng, Ngài bắt đầu thắt nút chiếc khăn. Mọi người đều rất ngạc nhiên -họ chưa hề thấy Ngài làm như thế bao giờ. Phật đang làm gì vậy? Không lẽ Ngài đã quên mất buổi thuyết pháp sáng hay sao? Nhưng do lòng tôn kính Phật, tăng chúng đều yên lặng theo dõi việc làm của Ngài.

Ðến nút thứ năm thì Phật dừng tay rồi hỏi thính chúng: “Ta muốn tháo gỡ những nút buộc này ra, nhưng trước khi làm chuyện này ta muốn nêu lên hai câu hỏi: Thứ nhất, chiếc khăn này có phải cùng một chiếc khăn trước khi thắt nút hay không?”

 

Một trong những vị đại đệ tử của Phật, ngài A Nan thưa: “Bạch Ðức Thế Tôn, trên một phương diện nào đó, nó chẳng khác, bởi vì những nút thắt không làm thay đổi tánh chất của chiếc khăn. Chúng không thêm vào cũng không hủy diệt cái gì cả. Chiếc khăn vẫn giống y như cũ, phẩm chất của nó chẳng hề đổi thay, nó vẫn là chiếc khăn trước đây. Thế nhưng trên một phương diện khác nó không giống với chiếc khăn cũ, đã có một vài thay đổi. Giá trị căn bản của nó có thể vẫn y nguyên thế nhưng bây giờ có một vài yếu tố mới: năm cái nút thắt. Nó đã được cột chặt lại với nhau thế nên nó không còn tự do nữa. Tự do đã bị đánh mất. Chiếc khăn vẫn là chiếc khăn cũ nhưng là một kẻ nô lệ.”

 

“Ðúng vậy, A Nan,” Phật tiếp, “Ðó là điều mà ta muốn nói cùng đại chúng. Khi một người bị chia cách, trên phương diện nào đó thoạt trông chẳng có gì thay đổi nhưng thật ra y chẳng còn là con người cũ trước đây. Y đã mất đi tự do, mất đi sự hòa điệu –cơ bản thì chẳng có gì thay đổi. Các ngươi vẫn là những thượng đế, nữ thần, không gì thay đổi cả, nhưng đó là những thượng đế bị cầm tù. Một vài cái nút thắt đã đến trong đời. Trên cơ bản, ta và các ngươi đều hoàn toàn tự do, nhìn một cách hiện sinh ta và các ngươi đang ở cùng một chỗ, thế nhưng trên bình diện tâm lý ta và các ngươi không ở cùng một nơi, các ngươi không là ta. Trên mặt hiện sinh chúng ta đều là những vị Phật, trên mặt tâm lý chúng ta đang sống trong những thế giới khác biệt, riêng tư… những cái nút thắt.”

 

Rồi Phật hỏi tiếp câu hỏi thứ hai, “Này đại chúng, đây là câu hỏi khác: Nếu ta muốn tháo gỡ những nút thắt này ra, ta nên làm như thế nào?” Một vị đại đệ tử khác, Xá Lợi Phất, đứng dậy cung kính thưa, “Bạch Ðức Thế Tôn, nếu Ngài muốn tháo gỡ những nút thắt này hãy để cho con đến gần để quan sát chúng. Bởi vì trừ phi con biết chúng được thắt như thế nào thì mới có thể tháo gỡ chúng ra được. Phải hiểu  phương cách gì được dùng để thắt nút. Phải hiểu chúng được tạo ra như thế nào. Khi hiểu được như vậy rồi mới có thể tháo gỡ chúng. Hãy để cho con đến gần hơn. Thế Tôn đừng làm bất cứ điều gì trước khi con trông kỹ chúng, bởi vì nếu Ngài làm chuyện gì khác trước khi biết những cái nút thắt này đã hiện hữu như thế nào, có thể Ngài sẽ tạo ra thêm những nút thắt vi tế khác. Công chuyện sẽ khó khăn thêm và không chừng ta sẽ không thể tháo gỡ chúng ra được.”

 

“Ðúng vậy, Xá Lợi Phất,” Ðức Phật trả lời, “Ðó đúng là điều mà ta muốn nói.”

 

 

Trước khi một người muốn hiểu bằng cách nào để đạt đến đích, y phải hiểu rằng y đang thiếu cái gì. Những gì là nguyên nhân của khổ nạn? Tại sao ta lại trở thành bị phân liệt? Bằng cách nào chuyện bất khả này lại xảy ra –khi tình trạng bất khả phân lại trở thành phân liệt, khi cực lạc biến thành khổ đau, khi những thượng đế lại bị giam hảm? Nó đã xảy ra như thế nào?

 

Cái “thế nào” này cần phải được tìm hiểu thật thấu đáo, thế nên trước tiên ta sẽ đi sâu vào cái “thế nào”.

 

Chúng ta có thể bắt đầu với Plato (3). Ông ta là người xây đắp nền móng của ý thức hiện đại về lãnh vực này. Với Plato sự phân liệt bắt đầu một cách khá rõ ràng và đầy luận lý. Vấn đề này có thể đã hiện hữu từ trước nhưng chưa hề được nghiên cứu trên căn bản luận lý, chưa hề được hỗ trợ bởi một bậc kỳ tài như Plato. Kể từ đó, trong suốt hai ngàn năm, vấn đề phân liệt hầu như đã được mọi người tin tưởng. Và nếu bạn tin vào một cái gì đó trong suốt hai ngàn năm, nó trở thành hiện thực. Niềm tin có khuynh hướng biến thành thực tế. Ðược ru ngủ bởi niềm tin và rồi ngày qua ngày chúng vận hành cứ y như thật.

 

Theo Plato, cách ứng xử của con người được bắt nguồn từ ba nguồn mạch chính: Kiến thức, tình cảm và dục vọng. Ðây được xem như là chỉ dấu đầu tiên về sự phân liệt cụ thể trong con người. Con người được phân chia ra làm ba khu vực: Kiến thức, tình cảm và dục vọng. Kiến thức phát xuất từ cái đầu, tình cảm từ trái tim và dục vọng từ chỗ thắt lưng –cái đầu, trái tim và bộ phận sinh dục, đây là ba khu vực phân cách. Dĩ nhiên cái đầu là cao hơn hết, trái tim ở ngay giữa và bộ phận sinh dục là thấp nhất.

 

Con người sống với bản năng sinh dục được coi  là loại người thấp kém hơn cả; ở Ấn Ðộ, họ được gọi là shudra, kẻ tiện dân. Con ngưòi sống với trí óc được xem như là loại người cao quý nhất, họ được gọi là Brahmin, Bà La Môn. Còn tất cả những người khác ở lưng chừng khoảng giữa -với những cấp độ tình cảm khác nhau.

Ba khu vực này không phải đơn thuần là sự tin tưởng. Nó đã thấm sâu vào ý thức con người đến nỗi bây giờ ý thức con người xem như dược hiện hữu với ba bộ phận trên. Thế là bạn đã bị phân liệt, bạn không còn là một khối nguyên vẹn; bạn là ba, bạn trở thành ba ngôi nhất thể. Bạn mang ba khuôn mặt khác nhau. Một là khuôn mặt tính dục rất mực riêng tư mà bạn luôn dấu kín trong bóng tối. Thứ hai là khuôn mặt tình cảm tuy không đến nỗi riêng tư nhưng vẫn là riêng tư –vì rất hiếm khi mà bạn biểu lộ ra. Trước cái chết của ai đó, bạn than khóc, điều khả dĩ được chấp nhận, còn bình thường ra bạn không làm chuyện này, đôi khi còn xem như là chuyện đàn bà vì cho rằng đàn bà là sinh vật thấp kém hơn đàn ông.

 

Chủ nghĩa sô-vanh trọng nam hiện hữu khắp nơi. Người đàn bà không được xem là người bà la môn, nhiều tôn giáo khước từ vai trò của người phụ nữ -cho rằng họ không thể vào nước Trời như là một người nữ. Ðể được vào đây, trước tiên họ phải  sinh ra như một người nam, như vậy mới có đủ tư cách. Chỉ có người nam mới vào được nước thiên đàng. Phụ nữ là một sinh vật thấp kém. Người phụ nữ chỉ có hai trung tâm, tính dục và tình cảm -họ không có cái đầu, không có bộ não, không có trí óc. Như vậy, dĩ nhiên họ cứ việc tha hồ mà khóc lóc, cười giỡn, tỏ bày tình cảm một cách tự nhiên. Ðàn ông thì rất hiếm khi cho phép tình cảm của mình được biểu lộ như thế.

 

Tính dục hoàn toàn tuyệt đối riêng tư; tình cảm thì nửa công nửa tư, còn trí óc thì tuyệt đối công khai. Ðây là cái mà bạn luôn đem ra phô trương, trưng bày khắp mọi nơi. Lý trí, luận lý, kiến thức -tất cả những cái đó.

 

Sau hai ngàn năm, Sigmund Freud một lần nữa lại mang cái đề tài phân liệt này ra –Plato và Freud, đôi bạn đồng sàng. Thế nhưng con người như thế nào đó đã chấp nhận chuyện phân liệt này một cách sâu xa đến độ nó đã ăn sâu vào tiềm thức. Freud còn cho rằng lý trí là ông vua, tình cảm là bà hoàng còn tính dục là kẻ bầy tôi, và điều dĩ nhiên, ta cứ việc quân vương vạn tuế! Dẹp tính dục đi, dẹp luôn tình cảm và chuyển tất cả năng lượng của bạn lên cái đầu. Thế là những cặn cáu đã dính lại trong cái đầu này.

Không tình dục, con người không còn vui thú; không tình cảm, tất cả những gì êm ái dịu dàng, tế nhị biến mất. Thuần lý trí, bạn trở thành một sa mạc khô cằn, một vùng đất hoang dã. Không có gì gieo trồng được trên những mảnh đất này.

 

Tôi đang đọc cuốn tự truyện của Charles Darwin (4) ngang tới đoạn này. Thật là một khám phá thú vị. Charles Darwin viết rằng: “Lúc còn bé và ngay cả tuổi thanh niên, các loại hình thi ca đã mang đến cho tôi niềm thích thú lớn lao. Những hình ảnh thời xưa cũng gây ấn tượng trong tôi và âm nhạc quả thật đã tạo cho tôi niềm vui, sự khoái cảm vô biên. Thế nhưng bây giờ, trong nhiều năm qua tôi khó mà chịu đựng nỗi một câu thơ. Tôi đã hết sức cố gắng để rồi khám phá ra rằng nó nhàm chán đến độ làm tôi buồn nôn. Ðồng thời tôi cũng không còn cảm thấy thích thú ngắm nhìn tranh, thưởng thức âm nhạc. Tâm thức của tôi dường như đã biến thành một cổ máy ngấu nghiến các định luật tổng quát rút ra từ những bộ sưu tập các dữ kiện. Tại sao điều này đã gây nên sự tiêu mòn riêng phần não bộ nơi chủ trì các thưởng ngoạn cao cấp, tôi thật tình không thể hiểu được. Mất đi những thưởng ngoạn này cũng có nghĩa là mất đi hạnh phúc.”

 

Darwin đã viết những điều này lúc ông về già. Ông ta đã mất hết những cảm quan về thi ca, hay nói đúng ra, nó làm cho ông nôn mửa. Ông ta không chịu đựng nổi âm nhạc. Ông ta không hề nói đến tình yêu của mình -nếu thi ca làm nôn mửa và âm nhạc làm khó chịu, tình yêu cũng sẽ không còn chỗ đứng. Darwin đã biến thành loại người nào? Ông ta đã tự thú rằng mình đã biến thành một cổ máy.

Ðây là điều xảy ra cho nhân loại nói chung. Mọi người đều đã trở thành một cổ máy –máy lớn, máy nhỏ, máy tinh xảo, máy thô sơ –nhưng vẫn là những cổ máy.

 

Và rồi  những bộ phận nào bị khước từ sẽ nổi dậy chống lại bạn, cuộc chiến tiếp diễn liên tục là như vậy. Bạn không thể nào tiêu diệt được tính dục; bạn có thể vượt qua được nó, chắc chắn như vậy, nhưng bạn không thể tiêu diệt được nó. Bạn cũng không thể tiêu diệt được tình cảm. Trái tim vẫn tiếp tục vận hành, vẫn tiếp tục dệt ra những giấc mộng. Vì bạn đang chống lại chúng triệt để, chúng có thể rút lui vào hoạt động bí mật, hay là lặn khuất vào tiềm thức, tìm một hang động âm u sâu thẳm nào đó để ẩn trốn, thế nhưng chúng vẫn tồn tại. Tình cảm có thể được hoá thân nhưng không thể bị tiêu diệt. Không cách gì tiêu diệt được cả tính dục lẫn tình cảm.

 

Ðó là tất cả những gì mà cái đầu đang làm: Một cách tổng quát, nó hiện hữu bằng cái giá mà trái tim và xác thân phải trả. Nó giết chết trái tim, giết chết cái xác thân và sống lẩn quất như một bóng ma trong một cổ máy. Bạn có thể thấy điều này xảy ra ở khắp nơi trên thế giới này. Một người càng có học thức chừng nào, càng ít sống chừng nấy. Càng biết nhiều thì càng sống ít. Y càng thông thạo về những khái niệm, những vấn đề trừu tượng chừng nào, y càng khó mà thể nhập vào dòng sống sinh động. Một người chỉ quanh quẩn với cái đầu thì làm sao mà có thể thưởng thức được những niềm vui, những mật ngọt của cuộc đời. Ðiều nhận xét về mình của Charles Darwins rất thú vị. Ông ta nói rằng: “Cái gì đã xảy đến cho tôi? Tại sao tôi mất đi tất cả mọi lạc thú? Niềm vui, hạnh phúc của tôi biến đâu rồi?”

 

Thế là vì bạn đã chuyển toàn bộ năng lượng lên cái đầu, chẳng dành một tí nào cho tính dục, trong khi tất cả niềm vui đều được bắt nguồn từ tính dục, đó là điều mà tôi thấy cần phải nhắc lại cho bạn. Khi tôi dùng hai chữ “tính dục”, tôi không hề ám chỉ đến những hoạt động của bộ phận sinh dục. Ðây chỉ là một kinh nghiệm rất nhỏ nhoi, một biểu tỏ của dục tình, trong khi tính dục là cả một phạm trù bao quát lớn lao hơn. Nói đến tính dục có nghĩa là lúc nào mà xác thân của bạn còn sống động, còn cảm xúc, trái tim còn đập rộn ràng –là bạn đang sống trong tính dục. Nó có thể không nhất thiết liên hệ đến cái giống. Cụ thể như khi bạn đang khiêu vũ, dó là một hoạt động tính dục; một vũ công là một biểu hiện tính dục, năng lượng khiêu vũ là một năng lượng tính dục. Nó không phải là chuyện của bộ phận sinh dục, bạn có thể chẳng hề nghĩ gì đến chuyện tình dục cả, bạn có thể đã hoàn toàn quên bẳng chuyện đó đi; mà thật sự ra, khi bạn quên đi chuyện tình dục và tan biến vào trong một thể nhập sâu xa với thân xác bạn, thì đó chính là dục tính. Bạn có thể đang bơi lội, đang chạy bộ, chạy bộ vào buổi sáng chẳng hạn.

 

Trong suốt mười năm -từ 1947 đến 1957- tôi có thói quen chạy bộ tám dặm vào buổi sáng và tám dặm vào buổi chiều. Việc này đã trở thành như một thông lệ. Qua việc chạy bộ này tôi cũng đã học được lắm điều hay.

Trong mười năm đó, với mười sáu dặm một ngày, tính ra tôi đã có thể chạy bộ vòng quanh trái đất đến bảy lần. Sau khi chạy đến dặm thứ hai hay thứ ba, một khoảnh khắc chợt đến khi mọi chuyện bắt đầu cuốn trôi đi một cách tự nhiên, thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của cái đầu, lúc đó bạn bỗng trở nên một với thân xác, bạn là một cơ thể sống động. Bạn bắt đầu vận hành như một sinh thể -như một cái cây, một con thú vận hành. Ðó có thể là một con sư tử, con công hay con sói. Cái đầu lúc này đã hoàn toàn bị bỏ quên. Cả trường đại học, bằng cấp các thứ cũng không còn nhớ tới, bạn không còn biết đến cái gì khác, bạn là như thị.

 

Quả thật như thế, chạy được ba hay bốn dặm bạn sẽ không thể nào nhận ra mình còn liên hệ với cái đầu. Một tổng thể hiện khởi. Plato không còn, Freud cũng biến mất, tất cả mọi phân cách không còn tồn tại -bỏi vì tất cả chỉ là cái bề mặt –trong tận cùng thẳm sâu cái nhất thể của bạn bắt đầu tự khẳng định.

 

Chạy bộ dưới ngọn gió trong lành của buổi sáng sớm tinh khôi mà vạn hữu như chan hoà trong một niềm vui mới, chẳng khác gì được tắm gội trong nỗi hân hoan của một ngày mới bắt đầu, khi mọi vật đang phô bày nét trẻ trung tuơi mát qua một đêm dài say ngủ, quá khứ bỗng nhiên tan biến đi, tất cả trở nên hồn nhiên như thuở ban sơ –và rồi lúc bấy giờ ngay cả người đang chạy cũng bỗng nhiên không còn hiện hữu. Chỉ còn cái chạy. Không có người chạy mà chỉ còn cái chạy đang vận hành. Và rồi bạn sẽ thấy rằng một khúc luân vũ đang trổi dậy cùng với làn gió, với bầu trời, với những tia nắng ban mai, với cỏ cây, với trái đất thân yêu này. Bạn đang thể nhập vào khúc luân vũ đó. Bạn bắt đầu rung cảm cùng với nhịp đập của vũ trụ. Ðó là tính dục. Bơi trong giòng sông cũng là tính dục. Không phải chỉ giao hợp mới là hoạt động tính dục; bất cứ chuyện gì mà thể xác của bạn rung lên cùng một nhịp đập không bị ức chế đều là tính dục.

 

Thế nên khi tôi dùng hai tiếng ‘tính dục’ tôi muốn nói đến cái kinh nghiệm về sự hợp nhất này. Hoạt động của bộ phận sinh dục chỉ là một trong những chức năng của tính dục. Nó đã trở thành quan trọng bởi vì chúng ta đã quên đi tất cả toàn bộ chức năng của dục tính. Thật ra, cái mà bạn tôn xưng là bậc đại thánh đã làm cho bạn chỉ biết quanh quẩn chung quanh cái giống của bạn. Tất cả mọi thống trách nên được trút xuống đầu những ông thánh và đại thánh này -họ đều là những thủ phạm, những tên tội phạm. Họ chẳng bao giờ bảo cho bạn biết tính dục thực sự là cái gì.

 

Ngày qua ngày, tính dục đã bị gom lại vào trong cái giống; nó trở nên cục bộ, không còn là cái toàn thể. Hạn hẹp trong cái giống là điều tồi tệ, bởi vì cao nhất nó chỉ mang đến cho bạn sự khoan khoái; nó không bao giờ mang đến khoái cảm tuyệt đích. Sự xuất tinh không phải là một khoái cảm tuyệt đích; toàn bộ xuất tinh không là sự cực khoái và mỗi khoái cảm tuyệt đích không phải là một kinh nghiệm cực lạc. Sự xuất tinh là thuộc về cái giống, khoái cảm tuyệt đích là thuộc về tình dục, kinh nghiệm cực lạc thuộc lãnh vực tinh thần. Khi tính dục bị hạn chế vào cái giống, bạn chỉ có được sự khoan khoái, nhưng bạn mất đi năng lượng, bạn không thu nhận thêm vào được cái gì cả. Một cách đơn giản, đây là điều ngu xuẩn. Sự khoan khoái này cũng chẳng khác gì lúc bạn đang nhảy mũi một cái thật đả, không hơn không kém.

 

Ðó không phải là khoái cảm tuyệt đích bởi vì toàn cơ thể bạn không rung lên cùng một nhịp đập. Bạn không ở trong khúc luân vũ, bạn không hoà nhập vào tổng thể, bạn không được thánh hoá. Bởi vì nó mang tính cục bộ mà cục bộ thì không thể nào có được khoái cảm tuyệt đích vì khoái cảm này chỉ xuất hiện khi có sự dự phần của toàn thể cơ cấu. Chỉ khi nào từ cái đầu đến ngón chân cùng rung lên một nhịp, khi tất cả những sợi tơ mỏng manh trong sinh thể bạn cùng hoà điệu, khi tất cả mọi tế bào của thân xác bạn cùng hoà chung khúc luân vũ, khi mà trong bạn là một cuộc đại hoà tấu, cùng tham dự khúc luân vũ này –thì lúc đó là khoái cảm tuyệt đích. Tuy nhiên mỗi khoái cảm tuyệt đích không phải là một kinh nghiệm cực lạc. Khi mà tất cả những gì trong bạn cùng hoà chung một nhịp đập thì đó mới chỉ là khoái cảm tuyệt đích. Chỉ khi nào tổng thể của bạn hoà chung với tổng thể của vạn hữu thì lúc đó mới là kinh nghiệm cực lạc. Thế nhưng con người cứ mãi chạy theo sự xuất tinh mà quên đi khoái cảm tuyệt đích và hoàn toàn bỏ rơi kinh nghiệm cực lạc. Họ không hề biết đó là cái gì.

 

Và bởi vì họ đã không thể vươn tới cái cao hơn, họ bị giam hảm ở trong cái thấp hơn. Khi bạn có thể đạt đến cái cao hơn, cái tốt đẹp hơn, tự nhiên phần thấp kém hơn bắt đầu tan biến đi một cách tự động. Nếu bạn hiểu được những điều tôi nói... tình dục –mà không phải là dục tính- sẽ được chuyển hoá. Bạn sẽ trở nên khêu gợi hơn. Ðúng vậy, khi tình dục không còn bạn càng trở nên khêu gợi hơn. Thế nhưng tình dục sẽ đi đâu ? Nó sẽ trở thành tính dục. Bạn sẽ trở nên nhạy cảm hơn.  Bạn sẽ có sức sống mãnh liệt hơn, nhiều chất lửa hơn; bạn sẽ sống như cơn sóng lớn. Những luồng sóng nhỏ sẽ tan đi. Bạn sẽ trở thành một cơn bảo, một trận cuồng phong làm rung chuyển cỏ cây sông núi. Bạn sẽ là ngọn triều dâng, là cơn lũ. Ngọn đèn cầy của bạn sẽ cháy bùng lên một lúc cả hai đầu.

 

Trong khoảnh khắc đó -cho dù bạn chỉ được sống trong một phút giây ngắn ngủi cũng là quá đủ-  bạn đã nếm được mùi vị của vĩnh cữu.

 

 

 

Từ Plato đến Freud, sự phân liệt vẫn còn đeo đẳng mãi trong tâm trí của những triết gia, nhà sư phạm, chính khách, học giả. Sự phân liệt đó nay đã trở thành một thực tế. Bạn đâu có nghĩ rằng những bộ phận sinh dục của bạn là chính bạn -phải không? Bạn bắt đầu nghĩ như là chúng thuộc về bạn, là hai thực thể tách rời nhau.

Thậm chí có rất nhiều người còn đặt tên riêng cho cả cái giống của mình. Sự phân liệt đến đây là hoàn tất. Bây giờ thì bạn xem chúng chẳng khác gì là một dụng cụ của bạn. Bạn sử dụng chúng chứ không còn là chúng nữa. Một sự phân liệt trọn vẹn, hoàn toàn trọn vẹn.

 

Bạn luôn luôn nghĩ rằng mình là chúa tể còn thân xác là một cái gì đó tách biệt. Có bao giờ bạn nghĩ đến mình như là cái chân, cái tay, là cột sống, là máu huyết đang luân lưu trong huyết quản? Không bao giờ, cái căn cước của bạn vẫn là cái đầu; cái đầu vẫn là ông vua. Ðâu có ai muốn mình dính dấp với kẻ nô lệ, kẻ tôi tớ -hoặc ngay cả với bà hoàng?

 

Trên căn bản của sự phân liệt này một học thuyết thần học lớn lao đã được dựng lên –xin hãy cố gắng để hiểu chuyện này. Số một là cái đầu; số hai là trái tim; số ba là cái giống. Thượng Ðế chỉ có cái số một; cái số hai và số ba không hề hiện hữu. Thượng Ðế không hề có tình cảm và tính dục. Ðấy là định nghĩa về Thượng Ðế của hầu hết mọi tôn giáo ngoại trừ Thiền. Tiếp đó ta có những ông thánh. Ông thánh thì có cái số một và cái số hai, không có cái số ba. Ông ta có lý trí, trí khôn, thông minh, có tình cảm, trái tim nhưng không có tính dục. Kế đến là những con người bình thường. Y có đủ cả ba.  Cái số một, số hai và số ba. Tiếp đến là những người tội lỗi. Y không có cái số một –không có trí khôn, thông minh, không có lý trí, không có cái đầu- y chỉ có cái thứ hai và thứ ba, tình cảm và dục tính. Kế tiếp là Qủy Sứ. Y chỉ có cái thứ ba. Hai cái đầu tiên không hiện hữu –không lý  trí, không tình cảm, chỉ có dục tính. Thế nên ở Ðông phương, đặc biệt là ở Ấn Ðộ, tên của Qủy Sứ được gọi là Kam Deva, vị chúa tể của tình dục. Thật là đúng không chê vào đâu được.

 

Ðây là thần học về phân liệt: Thượng Ðế chỉ có cái đầu; Quỷ Sứ chỉ có tình dục. Kẻ tội lỗi gần hơn với Qủy Sứ nên chỉ có một con đường là đi xuống địa ngục; ông thánh gần với Thượng Ðế hơn nên sẽ lên nước thiên đàng. Bọn người khốn khổ ở giữa có đủ cả ba thứ nên tự nhiên là có nhiều xung đột hơn bốn loại kể trên. Khi bạn chứa đủ cả ba, bạn càng có nhiều xung đột.

 

Ðây không phải là quan điểm của Thiền. Ðây là ý niệm của Cơ Ðốc, của Hồi giáo, Ấn giáo chứ không phải của Thiền. Thiền có một nhận thức tiến bộ hơn về đời sống cho nên nó mang đến một nhận thức tươi mát về tất cả mọi chuyện. Thiền cho rằng Thượng Ðế là nhất thể thế nên Thượng Ðế gồm đủ cả ba, như vậy đâu còn có sự xung đột. Cả bộ ba này sẽ hoà điệu với nhau một cách tuyệt vời, tay trong tay trong cùng một vũ điệu. Chúng sẽ không tranh chiến mà ôm chầm lấy nhau thân tình. Từ đó có sự thăng hoa; khi không có sự xung đột tranh chấp, thăng hoa sẽ nẩy mầm. Trong Thượng Ðế tình dục trở thành cảm quan. Thượng Ðế là quan năng. Tình dục trở thành sống động; tình dục trở thành cuộc vui chơi. Tình cảm biến thành nhạy cảm, lòng từ, tình yêu thương. Và lý trí biến thành tri kiến, tỉnh thức, thiền.

 

 

Ðây là một viễn cảnh hoàn toàn khác biệt. Không có gì bị khước từ, không có gì bị loại bỏ. Thiền bao gồm tất cả. Nó không hề chối bỏ một ai, không hề nói «không» với bất cứ cái gì; nó chấp nhận tất cả và chuyển hoá chúng đến một thực tại cao hơn. Nó rất là tổng hợp, một hợp thành viên mãn. Tất cả mọi nguồn năng lượng đều được hội tụ để trở thành một nguồn năng lượng duy nhất. Không có cái gì bị khước từ bởi vì nếu bạn khước từ cái gì đó, bạn sẽ làm vơi đi sự phong phú vốn có.

 

 

Bây giờ hãy nghĩ đến một ông Thượng Ðế, một ông Thượng Ðế Cơ Ðốc chẳng hạn, không hề có dục tình lẫn tình cảm. Ông Thượng Ðế này thuộc loại gì vậy? Chỉ đơn thuần trí óc, ông ta giống như một tượng đá. Thế thì bạn nên đi thờ phượng một cái máy vi tính vẫn còn hơn. Một cái máy vi tính rất giống với một ông Thượng Ðế Cơ Ðốc -chỉ có cái đầu. Máy vi tính là một cái đầu được phóng đại ra. Không sớm thì muộn chúng ta sẽ sản xuất ra những chiếc máy vi tính ngày càng tối tân hơn. Ðến một ngày nào đó ta sẽ có được một cái máy vi tính rất hoàn chỉnh –nó sẽ hoàn toàn giống đúc khuôn một ông Thượng Ðế mà ta dự kiến -chỉ có cái đầu. Chiếc máy vi tính không hề có cảm quan, không tính dục, không tình cảm. Chiếc máy vi tính sẽ không hề biết nhỏ nước mắt cho ai đó mới qua đời, nó không hề biết cười, biết chúc tụng cho ai đó mới sinh ra, và một điều chắc chắn, chiếc máy vi tính sẽ không hề biết yêu –nó không bao giờ làm một chuyện ngu xuẩn như thế. Chiếc máy vi tính chỉ là cái bộ óc, thuần túy là một bộ óc. Hãy suy nghĩ đến chuyện đó... Cái đầu của bạn đã bị tách rời ra khỏi xác thân, ra khỏi tổng thể và bắt đầu tiếp tục đập một nhịp đập khác tại một nơi đầy cơ giới, được nuôi dưỡng bằng cơ giới. Bạn chỉ còn biết suy nghĩ, suy nghĩ và suy nghĩ, ngoài ra chẳng còn chuyện gì khác -vị Thượng Ðế đã hiện hữu như thế đó.

 

Nhưng Thiền thì không như thế. Cả vũ trụ, cái tổng thể phong phú đến mức bao gồm luôn tất cả. Thượng Ðế và con người -sự khác biệt không phải ở chỗ con người gồm đủ ba mà Thượng Ðế chỉ có một; sự khác biệt là ba thứ trong con người tranh chiến lẫn nhau, còn ba thứ trong Thượng Ðế thì sống chung hòa điệu. Ðó là sự khác biệt duy nhất. Bạn không biết làm thế nào để đưa chúng vào chung một tấu khúc. Ngày mà bạn biết cách, chính là ngày bạn trở thành Thượng Ðế. Bạn hội đủ tất cả nhũng yêu cầu cơ bản để trở thành một vị Thượng Ðế. Cũng giống như một nhà huyền môn Sufis đã nói: Bạn có đủ bột, đủ nước, đủ muối, đủ bơ và ngọn lửa thì đang cháy, trong khi bạn cứ ngồi đó chịu để cho cái đói dày vò, không biết cách nào để làm cái bánh chapattis. Nếu bạn không biết, bạn nên hỏi thẳng một hành giả của tôi, Paramahansa. Y có thể làm ra hàng ngàn cái bánh Chapatti chỉ trong vài giờ. 

 

Cơn đói sẽ không bao giờ biến mất trừ phi bạn biết cách làm chapatti. Chapatti là cái gì? Nó là sản phẩm gồm nước, bột, bơ và muối, kể cả lửa ở trong đó. Bạn cứ việc nấu chúng lại thôi.

 

Nó cũng giống y như trưòng hợp của bạn vậy. Bạn có đủ tất cả các yếu tố cấu thành Thượng Ðế thế mà bạn vẫn cứ như người đói khát. Bạn có đủ những gì đòi hỏi, không thiếu một thứ gì, nhưng bạn không biết làm thế nào để đạt đến sự hợp thành viên mãn.

 

Với Thiền, hành trình tâm linh mang ý nghĩa tổng thể; với Thiền, hành trình thánh hoá mang ý nghĩa tổng thể. Tất cả đều phải được dự phần và chuyển hoá; tất cả đều phải được dự phần và vượt qua. Khi tất cả đều dự phần, có mặt, bấy giờ sự quân bình hiện khởi. Sự quân bình này cho thấy một điều rõ ràng rằng -mọi thành phần đều bình đẳng với nhau. Tình dục không là kẻ tôi tớ, trái tim không là bà hoàng, lý trí và cái đầu không là ông vua –không bao giờ. Tất cả đều hoàn toàn bình đẳng. Hãy để tôi lập lại điều này. Nếu không có một cái nhìn bình đẳng, bạn khó mà đạt đến tình trạng quân bình. Tất cả đều hoàn toàn bình đẳng. Không có ai là chủ cũng không có ai là tớ. Ðấy là cuộc cách mạng của Thiền.

 

Tất cả đều là chủ mà tất cả cũng đều là tớ. Có những khoảnh khắc mà tình dục lên ngôi, nhưng cũng có những khoảnh khắc mà tình cảm hay lý trí lên ngôi –nhưng không hề có ai là một chủ nhân ông cố định, chỉ là sự luân chuyển xoay vòng. Bạn là một cái bánh xe xoay vòng đó và bộ ba kia là những biểu hiện. Thỉnh thoảng cái biểu hiện này trổi lên và cái kia chìm xuống, nhưng cả bộ ba này đều hỗ trợ cho bánh xe kia. Ðây có thể được xem là ý nghĩa biểu trưng của Thiên chúa ba ngôi trong Cơ Ðốc giáo, hay cũng là ý nghĩa của khái niệm trimurti –ba diện mạo của Thượng Ðế trong Ấn giáo: một Thượng Ðế duy nhất ẩn ở đàng sau ba khuôn  mặt.

 

 

Không có ai là ông vua, không có ai là bà hoàng, cũng không có ai là quần thần tôi tớ -tất cả đều là những ông chủ và tất cả cũng đều là những người tớ. Ðiều này có nghĩa rằng không có ai là chủ và không có ai là tớ, tất cả đều sánh vai nhau, hỗ trợ lẫn nhau, sống chung hòa điệu cùng nhau trong một mối liên hệ thân hữu rộng lớn. Nên thân thiện với cả ba yếu tố này của bạn, đừng dính mắc vào với bất cứ một cái nào, bằng không có nghĩa là bạn đang ép buộc một anh chàng cứ ngự trị trên ngôi vĩnh viễn. Hãy thân thiện với cả ba, hãy tôn trọng cả ba và hãy nên nhớ rằng bạn vừa là cả ba đồng thời cũng là trung tâm điểm của tất cả.

 

Hãy tưởng tượng đến một cái hình tam giác với ba đỉnh: một đỉnh là dục tính, đỉnh kia là tình cảm và đỉnh còn lại là lý trí. Trong cái hình tam giác đó, ngay chính trung tâm là ý thức –là chính bạn. Khi tất cả bộ ba này đều quy chiếu về bạn, về ý thức, tuệ giác của bạn, cái đó được gọi là Thiền. Trong sự hoà điệu, thanh thoả đó, chính là lúc mà bạn trở về nguồn cội.

 

Như vậy hãy nhớ một điều rằng không nên loại trừ bất cứ cái gì trong bộ ba này. Ðời sống vốn là một sự phong phú, quân bình và siêu việt, là một hợp thành viên mãn. Tất cả những yếu tố trong bạn đều phải được thanh thoả, và nó chỉ được thanh thỏa khi nào chúng hòa điệu cùng nhau, trợ giúp lẫn nhau. Nếu chúng tách lìa nhau, sẽ không có một cơ phận nào được thanh thỏa. Ðó chính là vấn nạn đã và đang xảy ra –cái đầu không hề được thanh thoả, cả trái tim và dục tình cũng thế. Từ gốc đến ngọn bạn không là gì cả ngoài sự bực dọc, một sự không thanh thỏa, một niềm bất mãn, một kẻ đói khát. Bạn cứ mãi rơi chìm vào bóng tối, cứ tiếp tục chạy đi tìm kiếm một cái gì đó nhằm thoả mãn mình –nhưng sẽ không có cách gì làm bạn thoả mãn được trừ phi bạn đạt đến sự hòa điệu nội tâm.

 

Và đây là ba lộ trình để đạt đến. Một số ít người đi vào bằng con đường tình dục –đó cũng là con đường của mật tông (tantra). Một số ít người đi vào bằng con đường tín lý –đó là con đường của trái tim, của tình cảm, của bhaki yoga.  Những người thông qua ngỏ tình dục, họ lựa chọn đi vào tantra yoga, những người theo con đường tình cảm đi qua ngưởng cửa bhaki yoga, con đường của người tín hữu. Còn những ai đi vảo ngỏ hiểu biết, trí óc, họ lựa chọn con đường thể nhập bằng tri kiến –gyana yoga. Ðây là ba lộ trình. Tất cả các tôn giáo thế giới trên một phương diện nào đó đều nằm trong ba hướng đi này.

 

Cụ thể như Vedanta (Vệ Đà), Kỳ Na giáo, Phật giáo nhập đạo lộ bằng đầu óc, trí tuệ, tri kiến, tỉnh thức. Ðó là con đường của gyana, tri kiến. Ấn giáo, Cơ Ðốc, Hồi giáo lựa chọn con đường của tình cảm, bhaki yoga. Họ đi vào ngỏ trái tim. Mật tông lựa chọn con đường tình dục, đây là con đường của du già tình dục. Có tất cả ba khả năng như thế.

 

Còn Thiền là một tổng hợp của cả ba. Thiền là mật -tantra, là tín lý, và là tri kiến. Thiền cho rằng cả ba con đường này đều có thể kết hợp lại cùng nhau, bạn không cần phải lựa chọn một. Không có nhu cầu để phải lựa chọn, ta có thể sử dụng tất cả ba –toàn bộ cái bánh xe, toàn bộ cái tam giác- đều quy hướng nội tâm. Sẽ không có một phương tiện đơn lẻ nào và cũng không có một phương cách duy nhất nào. Cũng không có một lộ trình nào được xem là có giá trị hơn lộ trình khác. Bạn theo con đường nào cũng được, nhưng đừng để bị chia cắt; bạn có thể theo bất cứ lộ trình nào nhưng đừng để cho mình bị dính mắc vào đó. Hãy để cho mình mở rộng ra với mọi con đường.

Hãy luôn luôn ghi nhớ một điều là con người có thể đi vào đạo bằng ba ngả khác nhau. Thế nên bạn đừng vội lên án bất cứ ai. Nếu như ai đó đang lựa chọn con đường tantra, bạn cũng đừng nên chê trách họ, vì làm như vậy đâu có khác gì bạn đang lên án cái dục tính của chính mình. Nếu ai đó đang đi theo con đường của tín lý đức tin, cũng không có gì để bạn phải lên án họ, bởi vì sự chê trách lên án này chỉ nói lên một điều rằng: Bạn đang khước từ trái tim của mình trong cung cách thể hiện trọn vẹn của nó. Ðiều này sẽ là một cản trở, chướng ngại cho bạn.

 

 

 

Bây giờ chúng ta hãy trở lại với giai thoại tuyệt với ban đầu. Ðây là một trong những câu chuyện hay ho nhất. Thiền có nhiều giai thoại rất ý vị nhưng không có câu chuyện nào có thể so sánh được với chuyện này. Nếu bạn bị buộc phải chọn lựa một trong số những giai thoại về Thiền, tôi sẽ không ngần ngại lựa chọn câu chuyện này. Tôi đã yêu thích giai thoại này trong rất nhiều năm.

 

Xưa có một người đang đứng trên một đỉnh đồi cao.

 

Những câu chuyện Thiền thường là những ẩn dụ. Bạn phải cố gắng để lãnh hội những ẩn dụ đó. Một người đang đứng ở trên đỉnh đồi cao có nghĩa là một người đã đạt đến đích, đã đạt đạo. Ðồi cao cũng có nghĩa là đỉnh cao của đời sống và vạn hữu. Một người đứng ở trên đỉnh đồi có nghĩa là một người canh thức quan sát mà trên những đỉnh đồi cao y có thể nhìn thấu suốt mọi chuyện chung quanh. Những lũng sâu, những con đường dẫn đến đỉnh đồi đều trải dài trước mặt. Trong vị trí đó, tất cả đều ở trong tầm mắt, tia nhìn có thể phóng ra khắp  mọi hướng, không còn bị hạn chế. Khi bạn đang ở dưới lũng thấp, bạn không thể nào có được một tầm nhìn như thế; khi bạn đang đi trên đường bạn cũng chỉ có thể thấy được con đường đi của bạn mà thôi, bạn không thấy được những người đang đi trên những con đường khác –đó là điều hoàn  toàn tự nhiên. Bạn bị thu gọn lại trong một không gian chật hẹp. Nhưng khi bạn càng lên cao chừng nào, khoảng không gian càng mở rộng ra.

 

Khi bạn lên đến đỉnh cao nhất, khi bạn lên tận chóp núi Everest và đứng ở đó, nguyên cả dảy Hy Mã Lạp Sơn đều ở ngay trong tầm nhìn. Bây giờ thì không những bạn có thể trông rõ lộ trình của bạn mà còn có thể nhìn thấy được tất cả những lộ trình khác dẫn lên đỉnh núi. Bây giờ thì bạn có thể trông thấy ngay cả những ai đang đối lập với bạn cũng như bất cứ ai mà bạn đang đối kháng. Họ cũng đang trên hành trình tiến đến chung một đỉnh. Bây giờ bạn có thể nhìn thấy vì ở trên đỉnh cao này, tầm nhìn của bạn hoàn toàn bao quát. Bây giờ thì mọi phân cách đã biến mất, mọi triết thuyết đều cáo chung, mọi chấp trước đã không còn ý nghĩa. Con người được hoàn toàn tự do bởi vì thị kiến của y đã hoàn chỉnh.

 

Xưa có một người đang đứng trên một đỉnh đồi cao.

 

Ðây là ngọn đồi của tỉnh thức, ngọn đồi của thiền định - đỉnh núi của Thiền.

 

Ba người khách bộ hành đi ngang qua trông thấy ông ta từ đằng xa...

 

Ðây là ba người lữ hành mà tôi từng đề cập đến –ba khu vực trong một con người.

 

Ba người khách bộ hành đi ngang qua trông thấy ông ta từ đằng xa...

 

Họ đang ở xa đỉnh đồi và họ đang cãi nhau, đó là điều tự nhiên thôi. Khoảng cách khá  xa nên họ chỉ việc đoán mò, suy luận.

 

Ba người khách bộ hành đi ngang qua trông thấy ông ta từ đằng xa và bắt đầu lên tiếng tranh cãi.

 

Vâng, đúng như vậy, không thiếu gì người trong các bạn có lúc đã nhận ra một vị Phật, một vị Chúa Christ; cũng không thiếu gì người đã từng đi ngang qua Mahavira (5) hay Zarathustra (6) –và rồi các bạn đã không ngừng tranh cãi nhau về họ. Vẫn còn một khoảng cách khá xa. Khi tôi nói đến khoảng cách, nó không hề bao hàm ý nghĩa vật lý, có thể là đã không hề có một khoảng cách vật lý nào.

 

 

Khi Ðức Phật trở về lại hoàng cung thăm viếng phụ hoàng, họ đang đứng trước mặt nhau không hề cách xa gì cả. Thế nhưng giữa họ vẫn có một khoảng cách muôn trùng. Ðức Phật nói một đàng và phụ hoàng nói một ngả. Người cha không phải đang nói chuyện với một vị Phật mà là đang nói với đứa con trai nay đã không còn là con của ngài nữa. Ông ta đang trò chuyện với một quá khứ đã hoàn toàn mất dấu. Ðứa con rời bỏ hoàng cung ngày xưa nay đã chết –đã hoàn toàn quá vãng; đây là một sinh thức mới đã ra đời, một sự phục sinh. Thế nhưng người cha đã không thấy được điều đó; ông ta đã bị một đám mây mù bao phủ -đám mây mù của quá khứ, của giận hờn chồng chất, vì ông cho rằng đứa con này đã phản bội lại ông trong lúc tuổi già.

 

Ðức Phật là đứa con trai duy nhất, người con được sinh ra trong tuổi xế chiều của ngài. Thế nên có không biết bao nhiêu là kỳ vọng, gắn bó. Ðứa con này sẽ là người nối ngôi, sẽ thừa hưỏng tất cả những gì trong vương quốc mà ông để lại. Mà ông thì ngày càng già đi với bao niềm lo lắng. Bây giờ đứa con yêu của ông trở thành một kẻ đi ăn mày... Ông ta giận dữ là điều rất tự nhiên.

 

Thế rồi người con đã đạt đến bến bờ -không những thế người con còn thuyết phục người cha hãy nên đi theo bước chân mình. Bạn cũng có thể hình dung ra người cha đã giận dữ và bực bội như thế nào. Có thể ông đã la lên và cho rằng Ðức Phật đã phản bội mình.

Nhưng Ðức Phật vẫn từ tốn, «Thưa Ngài, ngài đang nói chuyện với ai đây?  Người thuở nào đã từng là con trai của ngài nay không còn nữa. Hãy nhìn kỹ đi. Ai đang đứng trước mặt ngài đây? Tôi đã không còn là con người cũ. Ðã có một sự đổi thay hoàn toàn. Ðây là một con người khác, thưa ngài.» Người cha chắc sẽ cười lên và bảo, «Này, con không tính gạt cha đấy chứ? Con đang nói cái gì vậy? Bộ con khùng lên rồi chắc? Con là con trai của cha, đứa con đã bỏ nhà ra đi độ nào –Ta còn có thể nhận ra được con mà. Máu huyết của cha đang chảy ở trong con. Ta biết con, biết từ ngày đầu tiên con mới mở mắt chào đời. Làm sao ta lại quên được? Làm sao lại có chuyện ngộ nhận được?» Thế nhưng sự ngộ nhận vẫn cứ tiếp tục.

 

Ðức Phật mĩm cười, "Thưa Ngài, hãy lắng nghe tôi nói. Vâng, đúng như thế, ngài đã sinh ra một đứa con trai và chúng ta vẫn còn chung huyết thống, thế nhưng tâm thức thì đã hoàn toàn khác xa. Tôi đang nói về tâm thức, về con người trước mặt ngài, về nội tâm của tôi. Một con người từ bóng tối vô minh đạt đến ánh sáng giác ngộ. Xin hãy lắng nghe tôi -tuổi già của ngài đã đến, tôi có thể thấy rõ điều đó. Bàn tay của ngài đang run rẩy, nay ngài đã không còn đứng vững một mình. Không sớm thì muộn, thần chết sẽ gõ cửa. Nhưng trước khi cái chết đến, hãy thiền định. Trước khi thần chết viếng thăm, hãy cố gắng quán chiếu về mình."

 

Câu chuyện sẽ vẫn cứ tiếp diễn theo cung cách như thế -khoảng cách vẫn muôn trùng. Thế nên khi tôi nói ‘khoảng cách’, tôi không hề nói đến cái khoảng cách vật lý. Bạn có thể đã từng đi ngang qua một vị Phật hay Chúa hay Raman (7) hay Ramakrishna (8) –vâng, đúng như thế- và có thể là bạn đã trông thấy họ một cách gần gũi, thế nhưng bạn vẫn không ngừng tranh cãi về họ. Họ đang đứng trên một đỉnh núi xa tít nào đó và bất cứ điều gì mà bạn nói ra đều chẳng có gì liên quan đến họ vì tất cả chỉ là những phỏng đoán.

 

Ba người khách bộ hành đi ngang qua trông thấy ông ta từ đằng xa và bắt đầu lên tiếng tranh cãi.

 

Ðó là điều mà chúng ta đang làm hiện nay đối với những vị Phật –chúng ta cãi nhau, kẻ phò người chống. Thế nhưng tất cả những gì mà chúng ta nói về các Ngài đều vô nghĩa. Bạn có ca tụng hay lên án cũng chẳng có gì khác nhau. Tất cả những lời ca tụng của bạn đều vô nghĩa, tất cả những lời lên án cũng thế -bởi vì bạn không thể nào hiểu được nhũng gì xảy ra đối với một vị Phật. Ðể hiểu được, bạn sẽ phải trở thành một vị Phật.

 

Không cách gì để nhìn cái vẻ khách quan bên ngoài của ai đó như là một đối tượng bằng tâm thức đầy chủ quan của ta. Với một hiện tượng nội giới, sâu sắc như thế bạn không thể nào nhìn từ bên ngoài. Bạn phải thể nhập vào trong, phải là chính nó.

Thế nên người ta cứ cãi nhau ỏm tỏi.

 

Một người cho rằng, “Có lẽ ông ta đang lạc mất con gia súc mà ông ta ưa chuộng.”

 

Đấy là lý trí, con người cứ luôn nghĩ đến những vật sở hữu: cái nhà, chiếc xe, gia súc, đồng ruộng, cơ xưởng, tiền bạc, quyền lực và thanh danh. Đấy là lý trí. Lý trí là một chướng ngại. Lý trí là một khổ nạn. Nó chỉ biết nghĩ đến chiếm hữu, thu góp.

 

Đây là một câu chuyện có ý nghĩa tượng trưng, ẩn dụ. Người thứ nhất cho rằng, “Có lẽ ông ta đang lạc mất con gia súc mà ông ta ưa chuộng.” –đó là tất cả những gì mà lý trí có thể suy luận ra.

 

Nếu bạn trông thấy một người đang ngồi thiền định một cách tĩnh lặng và bạn là người thuần lý, bạn sẽ nghĩ ông ta đang làm chuyện gì? Bạn sẽ nghĩ rằng có lẽ ông ta đang trù tính thiết lập một cơ xưởng mới hoặc là đang suy tính làm sao để có thể chiến thắng trong kỳ bầu cử sắp tới hay là làm sao để có tiền thêm nhiều hơn trong trương mục của mình –đó là tất cả những gì mà bạn có thể nghĩ đến. Đó là cái đang chi phối bạn. Còn nếu bạn đang lặng yên tĩnh tọa, bạn sẽ suy nghĩ đến cái gì? Chắc là bạn cũng  sẽ  suy đoán về ai đó. Không có cách thế nào khác. Bạn vẫn còn bị cầm tù trong cái thế giới của bạn. Ngay cả khi bạn nói điều gì về ai đó thì bạn cũng chỉ đang nói về chính mình mà thôi.

 

Người này nói rằng, “Có lẽ ông ta đang lạc mất con gia súc mà ông ta ưa chuộng.”  Nếu y đang đứng ở chỗ đó thì có thể là như vậy –y bị mất con bò và đang đứng trên đỉnh đồi ngó mông ra khắp phía để tìm kiếm nó. Có thể con bò đã đi lạc. Để tìm kiếm con bò này y mới phải đi lên đồi cao –không còn một lý do nào khác. Cho dù y có lên đến tận trên đỉnh Everest, y cũng chỉ sẽ nhìn khắp nơi tìm kiếm con bò lạc của y thôi –hãy nhớ như vậy, ngay cả đứng ở đó tâm của y cũng sẽ không bao giờ hướng về Thượng Đế.

 

Lúc Edmund Hillary leo lên đến tận đỉnh Everest, một điều chắc chắn là ông ta không hề nghĩ đến Thượng Đế. Trong một tình huống tuyệt vời như thế, là người đầu tiên đặt chân lên một mảnh đất trinh nguyên mà trước ông chưa hề có ai đến -phẩm chất trinh nguyên đó khó mà còn tìm ra được trên trái đất này. Lẽ ra ông ta nên ngồi xuống đó để quán niệm. Thế nhưng bạn biết ông ta đã làm gì không? Ông ta cắm xuống đó những lá cờ. Thật là một cái đầu ngu xuẩn. Leo lên đến một điểm cao như thế, một cao độ như thế, một khoảng vùng đất nguyên sơ chưa hề có dấu chân người như thế, nơi mà mọi luồng sóng tâm thức của con người chưa hề vươn đến, một không gian vẫn còn ở ngoài tầm tâm thức –đây có thể trở nên một tình huống lý tưởng giúp bạn đạt ngộ. Tuy nhiên Edmund  Hillary đã cắm lên đó những lá cờ và chắc là đang suy nghĩ, “Ta là người đầu tiên, người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã chinh phục cao điểm này. Bây giờ thành tích của ta chắc chắn sẽ được ghi lại trong sách sử. Ta đã làm nên chuyện phi thường.” Đây là một cái tâm đầy ngã chấp. Ông ta đâu có thể suy nghĩ điều gì khác hơn? Ông ta chắc sẽ vô cùng thích thú khi thấy tên tuổi mình vang dội khắp thế giới, chiếm đầy trang nhất của tất cả những tờ nhật báo. Ông ta chắc chỉ nghĩ đến bấy nhiêu đó, không có gì khác. Một tình huống như thế, vô giá như thế, đã bị đánh mất, đánh mất một cách vô nghĩa.

 

Khi người này cho rằng người đàn ông đứng trên đỉnh đồi đang trông tìm con gia súc của mình bị lạc –thì y cũng chỉ  đang nói chuyện về mình thôi. Nếu y đang đứng ở trên đỉnh đồi đó thì cũng chẳng có lý do nào khác hơn ngoài việc trông tìm con gia súc của y bị mất. Chỉ với lý do này y mới leo lên một điểm cao như vậy.

 

Có rất nhiều người chạy đến tôi và hỏi, “Nếu tôi tập thiền nó sẽ mang đến cho tôi lợi ích gì trong thế gian này?” Ngay cả việc thiền quán mà họ cũng hỏi là có mang đến lợi ích, lợi nhuận gì không! Một vài người khác còn nêu câu hỏi, “Tôi đang trải qua một giai đoạn khó khăn về tài chánh, tập thiền có giúp tôi thoát ra khỏi tình trạng này không?’ Thế là ngay cả leo lên đỉnh núi, bạn cũng mang theo với mình cái đầu óc hám tiền.

 

Đấy là lý trí, là cái đầu. Cái đầu là cái xuẩn động nhất trong sinh thể của bạn bởi vì nó được liên hệ với toàn là những thứ xuẩn động, với những thứ rác rưởi. Chẳng có cái gì quý giá lọt vào cái đầu của bạn. Nó chỉ là cái bải chứa đồ phế thải.

 

 

Người kia cãi lại, “Không đâu, chắc là ông ta đang trông chờ người bạn đấy thôi.”

 

Đây là con người của trái tim; đây là ẩn dụ về trái tim. Y bảo rằng, “Không phải đâu, không phải chuyện của cải đâu. Ông ta đang tìm kiếm người bạn.” Đây là khuynh hướng nghiêng về trái tim, tình yêu, tình bạn, lòng từ. Có thể là y đã mất một người bạn. Người này đang tỏ cho thấy tấm lòng của mình, đây là suy nghĩ của trái tim. Dĩ nhiên trái tim từ ái hơn cái đầu; cái đầu thì luôn cứng ngắt.

 

Cái đầu thì hay gây hấn, cái đầu là một tên hiếp dâm. Và chúng ta được huấn luyện để trở thành những tên hiếp dâm bởi vì chúng ta chỉ được huấn luyện những gì bên trong cái đầu –khát vọng, bản ngã, gây hấn. Tất cả hệ thống giáo dục của chúng ta không ngoài mục đích chuẩn bị cho con người đi hiếp dâm -hiếp dâm thiên nhiên, hiếp dâm kẻ khác, hiếp dâm mọi người, làm cách nào để gây hấn và làm thế nào để chứng tỏ rằng bạn là A Lịch Sơn Đại Đế hay Adolf Hitler hay những mẩu người xuẩn ngốc khác. Tất cả mọi nền giáo dục đều dạy cho con người khát vọng mà khát vọng là hiếp dâm –đó là lý do tại sao tôi nói rằng cái đầu là một tên hiếp dâm

 

Trái tim thì có lòng từ hơn, nhiều chất thơ hơn, mang tính ẩn dụ hơn, nó chứa đựng một chút thương yêu, thân hữu. Người thứ hai nói rằng, “Không đâu, chắc là ông ta đang trông chờ người bạn đấy thôi.” Có thể một người bạn của ông ta đã lạc đường và người này tự nhủ, “Nếu ta phải đi lên cái đồi đó  thì chắc là không phải chuyện đi tìm kiếm tài sản rồi, ta chỉ đến đó, chịu khổ chịu sở đến đó chẳng qua là vì muốn làm một cái gì đó cho bạn ta. Vâng, ta có thể chấp nhận một cuộc hành trình như thế chỉ là vì bạn, chỉ bởi tình yêu.”

 

 

Người thứ ba không đồng ý: “Ông ta lên đứng đó để thưởng thức không khí trong lành đó mà.”

 

 

Đấy là tính dục. Tính dục… Cố gằng để hiểu điều đó. Bạn cũng phải làm cho chức năng tính dục của bạn hoạt động. Người ta làm tình chẳng khác gì như đang làm tròn một bổn phận. Có rất nhiều những ông đại thánh –như ông thánh Gandhi chẳng hạn- bảo rằng bạn chỉ làm tình khi nào bạn muốn truyền sản. Thế là cái đầu lại làm chủ, nó muốn chế ngự dục tình. Chỉ làm tình khi nào bạn muốn truyền sản. Làm như tính dục không hề có một chức năng nào cả, y như một cái nhà máy sản xuất không bằng –khi nào mà bạn muốn truyền sản, tốt thôi, hãy đi làm tròn cái bổn phận ấy đi, hoàn tất cái nhiệm vụ đó một cách ngon lành và rồi kết thúc với nó.

 

Ðối với ông thánh Mahatma Gandhi và những người như ông ta, làm tình vì dục lạc là một điều tội lỗi; vâng, ông ta gọi đó là tội lỗi. Ðối với những người như vậy –mà những người này thường là những kẻ bạo dâm- bất cứ  cái gì thoảng mùi vị hoan lạc đều là tội lỗi. Họ không để cho bạn làm bất cứ chuyện gì chỉ mang đến niềm vui mà phải làm có chủ đích. Họ đều là những nhà doanh nghiệp. Mahatma Gandhi cũng xuất thân từ một gia đình thương buôn, pania; bản thân ông ta là một vaishya, nhà doanh nghiệp. Và ông ta vẫn mãi là một nhà doanh nghiệp cho đến cuối đời -rất tính toán và mưu lược.

Ðối với những người này, tất cả mọi chuyện đều phải có chủ đích, kể cả việc làm tình. Bạn không được yêu nàng hay chàng trong tràn ngập hân hoan, vì vầng trăng tròn lung linh trên bầu trời đêm nay, vì bải bể chiều hôm sao quá đổi tuyệt vời, vì sóng biển không ngừng âm vang réo gọi, vì cơn mưa quá thơ mộng êm đềm, vì bạn muốn chúc tụng nguồn năng lượng cuộc sống đang luân lưu. Không, ông thánh Gandhi sẽ không cho phép bạn làm chuyện này. Ðó là việc tội lỗi. Trừ phi bạn có một chủ đích nào đó -truyền sản chẳng hạn- thì đừng có làm tình nữa nhé.

 

Thế nhưng, chức năng của dục tính trên căn bản là lạc thú, niềm vui. Ðó là một cuộc vui chơi, không phải là thương vụ hay công việc. Nó hoàn toàn là một cuộc chơi. Ðó là sống hạnh phúc với năng lượng của bạn, là một sự chia xẻ, một chúc tụng cuộc đời.

 

“Ông ta lên đứng đó để thưởng thức không khí trong lành đó mà,” người thứ ba đã nói như thế. Ðối với người thứ nhất thì đây thật là một ý kiến ngu ngốc. Leo lên đỉnh đồi chỉ để thưởng thức không khí trong lành thôi à? Những người như Mahatma Gandhi, ngay cả lúc đang thả bộ cũng không phải là để tận hưởng niềm vui đi bộ -họ đi bộ chỉ vì lý do sức khoẻ. Ðây là những đầu óc con buôn –mà ở đâu cũng có. Họ đi bộ chỉ vì chuyện sức khoẻ.

Và hãy nhớ rằng, điều này đang trói buộc bạn vào những chuyện rất nhỏ nhặt. Ðừng nên định vị mình trong một chuyện nhỏ nhặt như thế. Sức khoẻ chỉ là một phó sản thôi. Nếu bạn đi bộ để tận hưởng không khí trong lành thì tự khắc sức khoẻ cũng sẽ từ đó mà có, bạn không cần phải lo lắng vì nó, không cần phải xem đó là một mục tiêu. Bạn cứ việc thong dong thưởng thức không khí trong lành, ánh nắng mặt trời, bầu trời cao rộng, cứ việc đi, cứ việc chạy và rồi sức khoẻ sẽ đến với bạn như là một phó sản. Bạn không cần phải đi tìm kiếm đâu cả. Bởi vì khi đi tìm kiếm nó, bạn sẽ đánh mất tất cả. Lúc đó nó trở thành một nghiệp vụ -và bạn sẽ không bao giờ còn hưởng được những thú vị của nó.

 

Ðâu có ai tận hưởng được cái thú vị của thể dục đâu, hãy nhớ điều đó. Ðừng bao giờ làm công chuyện TẬP thể dục. Hãy tận hưởng cái thú vị của nó, đừng hành xử như là một cuộc tập thể dục. Cái tiếng đó thật là tồi tệ. Cái gì là tập thể dục? Cứ việc nhảy múa, ca hát, chạy bộ, bơi lội nhưng đừng xem đó là chuyện tập thể dục. Tập thể dục phát xuất ra từ cái đầu, nhảy múa phát tiết từ trung tâm tình dục là trung tâm cảm quan sơ khai nhất của bạn. Cái nền móng cơ bản của bạn nằm ở chỗ đó. Cái đầu là kẻ đến sau. Trước khi cái đầu có mặt, trái tim đã có sẵn rồi; trước khi trái tim có mặt, tình dục đã hiện hữu.

 

Bạn được khai sinh ra từ trong tính dục. Do cha mẹ của bạn đã làm tình mà bạn được thụ thai. Bước chuyển động đầu tiên của bạn đi vào thế giới này đã thông qua tình dục và bước chuyển động cuối cùng của bạn trước khi từ giã thế giới này cũng thông qua tình dục. Khi năng lượng tính dục mà bạn được cha mẹ ban cấp khô kiệt, đó là lúc bạn kết thúc cuộc đời. Suốt bảy mươi năm trường bạn đã không ngừng tiêu thụ nó, nó đã là nguồn năng lực của bạn. Ngày qua ngày nó cứ tiêu mòn dần và đến một ngày nào đó nó biến mất hết -thế là bạn chết, bạn lại biến mất đi một lần nữa, và lại sẽ phải chờ đợi ai đó làm tình để bạn có cơ hội nhập vào một bào thai khác. Thông qua yêu thương mà bạn đi đến cõi đời này. Yêu thương là cánh cửa mà qua đó chúng ta nhập thế và cũng là cánh cửa mà chúng ta bước ra đi. Tình dục là kẻ đến sớm nhất; cái đầu là kẻ đến sau. Tình dục giống như cái tầng hầm trong nhà, trong khi cái đầu là rầm thượng.

 

 

Người thứ ba không đồng ý: “Ông ta lên đứng đó để thưởng thức không khí trong lành đó mà.”

 

Ba người bộ hành chẵng ai đồng ý với ai và tiếp tục cãi nhau …

 

Họ chẳng bao giờ đồng ý với nhau cả, họ không thể đồng ý với nhau.

 

… và tiếp tục cãi nhau cho đến khi họ lên đến đỉnh đồi chỗ người kia đang đứng.

 

Chỉ khi nào lên đến tận đỉnh đồi thì cuộc tranh cãi mới chấm dứt, nó không hề kết thúc trước đó -bởi vì chỉ khi nào bạn bắt đầu đối diện với chính thực tại, lúc đó mới hết tranh cãi, bằng không sự đồn đoán vẫn cứ được tiếp tục. Khoảng cách giữa bạn và thực tại càng xa chừng nào, càng gây ra lắm sự tranh cãi, càng nhiều thuyết lý được đưa ra chừng nấy. Khoảng cách càng ngắn, càng bớt được sự tranh cãi, cho đến khi nào đối mặt, đụng đầu với thực tại, cuộc tranh cãi mới chấm dứt. Chỉ khi nào ba người bộ hành gặp người đàn ông đang đứng ở trên đồi họ mới thôi cãi cọ.

 

 

Người thứ nhất lên tiếng hỏi: “Này ông bạn, đứng trên đỉnh đồi trông ngóng, phải chăng ông bạn bị lạc mất con gia súc nào chăng?”

“Thưa  Ngài, tôi không lạc mất con gia súc nào cả.”

 

Cuộc cãi vả ngưng nhưng tập quán, thói quen thì không dễ gì từ bỏ. Bây giờ thì họ không còn cãi nhau, bởi vì đâu còn gì để tranh cãi khi bạn có thể nêu câu hỏi trực tiếp với đối tượng –Ðã thấy tận mặt tỏ tường rồi thì đâu còn có điểm nào nữa để phải tranh cãi hay đồn đoán?

 

Tuy nhiên thói quen cũ vẫn cứ được tiếp tục. Thay vì hỏi trực tiếp ngay người đàn ông kia rằng ông ta đang đứng đó làm gì, người bộ hành thứ nhất lại nêu câu hỏi, “Này ông bạn, đứng trên đỉnh đồi trông ngóng, phải chăng ông bạn bị lạc mất con gia súc nào chăng?” Cái tập quán như vậy đã thâm căn cố đế. Ngay cả khi không còn điểm nào để tranh cãi, khi mà bạn có thể hỏi thẳng người kia là y đang làm gì, tâm thức của bạn cũng vẫn không chịu đi trực tiếp vào thực tại –nó vẫn chạy lòng vòng trên những lối mòn xưa cũ. Nó vẫn khoác lên mình cái cung cách, lề thói riêng của nó. Người này vẫn cố gắng để chứng tỏ rằng mình là đúng.

 

Tin tôi đi, ngay cả khi đối diện với Thượng Ðế bạn cũng luôn chứng tỏ rằng –“Chỉ có Cơ Ðốc của tôi là đúng, chỉ có Ấn giáo của tôi là đúng, chỉ có Hồi giáo của tôi là đúng.” Và rồi bạn cũng sẽ hỏi Thượng Ðế, “Ngài có phải đúng là Thượng Ðế của người Cơ Ðốc không?” Thế nào lúc đó bạn cũng vẫn còn mang theo bên mình cuốn Phúc Âm và cố gắng để buộc Ngài phải trả lời cho bạn rằng: “Vâng, ta đúng là ông Thượng Ðế trong Phúc Âm đây.” Và rồi người Ấn giáo sẽ nêu câu hỏi, “Thưa Ngài, con nay đứng trước mặt Ngài, phải chăng Ngài đúng là người đã viết nên kinh Vệ Ðà, là Thượng Ðế thực sự của người Ấn giáo?” câu chuyện cứ được tiếp diễn đại loại như thế…

 

 

 

Người thứ nhất lên tiếng hỏi: “Này ông bạn, đứng trên đỉnh đồi trông ngóng, phải chăng ông bạn bị lạc mất con gia súc nào chăng?”

“Thưa  Ngài, tôi không lạc mất con gia súc nào cả.”

 

Khi bạn không nêu một câu hỏi trực tiếp thông thường bạn sẽ nhận được một câu trả lời tiêu cực –hãy nhớ điều này. Thiền giả thường rất coi trọng vấn đề đi thẳng. Nếu bạn hỏi một cách trực tiếp bạn sẽ nhận được một kinh nghiệm tích cực; nếu bạn hỏi một cách gián tiếp, thông thường bạn nhận được một câu trả lời tiêu cực, chẳng liên hệ gì đến vấn đề. Thay vì hỏi, “Ông đang làm gì đó?” bạn lại hỏi, “Có phải ông đang tìm kiếm con gia súc bị lạc?” và thế nào bạn cũng nhận dược câu trả lời, “Không đâu, thưa Ngài.”

 

Không bao giờ đặt bất cứ câu hỏi gián tiếp nào với thực tại cũng không bao giờ nên nêu lên câu hỏi với thực tại bằng định kiến sẵn có của mình, nếu  bạn không muốn nhận được câu trả lời, “Không”. Hãy hỏi một cách trực tiếp. Buông bỏ ý thức của bạn, buông bỏ tất cả những định kiến, giả định, học thuyết và hỏi thẳng vấn đề. Ðó là những gì mà nhà Thiền gọi là “nhìn thẳng vào bản thể của vạn pháp.”

 

 

Người kia hỏi tiếp: “Thế chắc là ông bị lạc mất người bạn chứ gì?”

“Thưa Ngài, tôi cũng chẳng có người bạn nào bị lạc cả.”

 

Cái anh thứ hai này cũng chẳng học được bài học gì từ anh thứ nhất –cái anh vừa mới nhận được một câu trả lời tiêu cực. Chúng ta thường xuẩn động như thế vì không bao giờ chịu học. Chúng  ta cứ tiếp tục bước đi trên lối mòn có sẵn. Lẽ ra lúc này người thứ hai nên rút kinh nghiệm là không nên nêu lên một câu hỏi gián tiếp thế nhưng y cũng chẳng khác gì người thứ nhất. Người Cơ Ðốc đã thất bại, người Ấn giáo cũng không may mắn gì hơn, và rồi người Hồi giáo, người Kỳ Na cũng thế. Họ sẽ vẫn cứ tiếp tục lập lại một lỗi lầm giống nhau.

 

 

“Thưa Ngài, tôi cũng chẳng có người bạn nào bị lạc cả.”

Người thứ ba hỏi: “Như vậy chắc ông bạn đang đứng hóng gió ?”

 

Người thứ ba, thay vì học hỏi kinh nghiệm từ hai người trên, đã hy vọng rằng có nhiều cơ may là mình sẽ đúng – đây là điều tự nhiên và rất hợp luận lý. Câu hỏi của hai người kia đặt ra đã bị trả lời là không đúng, thế nên anh ta nghĩ là mình đang gần với chân lý hơn. Ðâu còn có xác suất nào khác? Chỉ có ba khả năng: lý trí đã thất bại, tình cảm đã thất bại, bây giờ chỉ còn lại một khả năng duy nhất -rẳng tình dục sẽ thành công. Con đường tri kiến đã thất bại, con đường đức tin cũng không may mắn gì hơn, bây giờ chỉ còn lại một con đường sau cùng -mật thừa. Mật thừa sẽ thành công.

 

Người thứ ba có vẻ rất chứa chan hy vọng. Hầu như y đã nắm chắc phần đúng trong tay-người đàn ông kia đâu còn có thể trả lời gì khác hơn. Ông ta đành phải nhìn nhận thôi. Thế nhưng bạn chẳng bao giờ nắm được thực tại. Thực tại quá đổi bao la rộng lớn không thể nào bị hạn chế vào một con đường nào, nó cũng không bao giờ bị hạn chế vào bất cứ một nhận định nào về nó. Chân lý bao hàm tổng thể thế nên không một bộ phận đơn lẽ nào trong bạn có thể nhận làm của riêng mình. Người thứ ba đã không học được một điều rằng hai chàng kia vốn khôn ngoan hơn nhưng đã thất bại. Anh chàng lý trí vốn thông minh nhất trong bộ ba này, đã không ngừng quán chiếu qua hằng bao thế kỷ, sáng tạo ra không biết bao nhiêu triết lý cao siêu, đã thất bại. Anh chàng trái tim, cao cấp hơn tình dục, gần gũi với cái đầu hơn, đứng ở giữa, cũng thất bại luôn.

Dĩ nhiên khi bạn đứng giữa hai cực bạn sẽ là người hiểu biết hơn vì bạn là điểm trung dung, chiết trung. Bạn có thể nhìn về cả hai phía, không hề cực đoan. Bạn có thể thấy được cái đầu, thấy được tình dục vì bạn ở ngay giữa trung tâm. Cái đầu không thể thấy được tình dục. Trái tim ở giữa có thể nhìn thấy cả hai phía thế nên trái tim có khả năng thông minh hơn cái đầu. Cái đầu có nhiều kiến thức hơn, trái tim khôn ngoan hơn -thế mà ngay cả kẻ ngôn ngoan hơn vẫn thất bại như thường. Còn tình dục, chẳng có trí thông minh nào cả, không có khả năng để trở thành khôn ngoan như trái tim… Thế nhưng thỉnh thoảng vẫn có chuyện xảy ra là những nơi mà thiên thần sợ hãi không dám bước vào, những anh chàng đần vẫn thản nhiên đâm xổ tới.

 

 

Người thứ ba hỏi: “Như vậy chắc ông bạn đang đứng hóng gió ?” “Không phải vậy đâu, thưa Ngài.”

“Tất cả các câu hỏi của chúng tôi ông bạn đều trả lời là không phải, vậy ông bạn đứng đây làm gì vậy?”

Người đàn ông trên đồi trả lời: “Thì chỉ đứng chơi vậy thôi mà.”

 

Chắc là họ đã cùng nhau nêu câu hỏi. Câu hỏi này lẽ ra nên được đặt ra đầu tiên thì lại là câu hỏi sau cùng.

 

 

Người đàn ông trên đồi trả lời: “Thì chỉ đứng chơi vậy thôi mà.”

 

“Tôi chỉ hiện hữu. Tôi chẳng làm bất cứ chuyện gì cả.” Người đàn ông trả lời một cách đơn giản, “Tôi là trung tâm của cái tam giác đó.”

Chỉ đứng vậy thôi. Ðây chính là thiền. Ðây là trạng thái vô tác –không suy tưởng, không cảm xúc, không tình dục; không ở trong thể xác, không ở trong trái tim, không ở trong cái đầu –không hề bị cột chặt vào bất cứ đâu, chỉ thong dong đứng ở giữa trung tâm của cái tam giác.

 

Cái tam giác này là Thiên Chúa ba ngôi, là ba khuôn mặt của Thượng Ðế, mà ngay giữa trung tâm chính là Thượng Ðế. Thượng Ðế là vô tác, Thượng Ðế chỉ hiện hữu. Sống là sống trong thiền. Và một khi bạn đạt đến cái trung tâm điểm này cũng là lúc mà ba người bộ hành trong bạn biết cách đặt câu hỏi một cách trực tiếp.

 

 

Câu chuyện được chấm dứt ở đây bởi vì câu chuyện thực sự phải được kết thúc ở điểm này –nó không thể đi xa hơn. Ba người kia phải rơi vào im lặng. Họ không hề nhận ra được cái khả năng này, cái khả năng thứ tư -mà Ấn giáo gọi là turiya, cái thứ tư- không thể được nhận ra bởi lý trí, trái tim hay dục tình, không hề được nhận ra. Nó hiện hữu nhưng không hề được nhận biết, không cách gì có thể nhìn thấy nó dù đứng ở bất cứ góc cạnh nào. Tuy nhiên khi mọi góc cạnh được buông bỏ, khi bạn tuyệt đối trần truồng, khi bạn không còn mang sẵn một định kiến, không còn những lớp vỏ y phục bao che, lúc bạn tuyệt đối chìm trong tĩnh lặng, lúc đó bạn sẽ thấy.

 

 

Hãy lắng nghe câu nói, “Tôi chỉ đứng thôi mà,” tất cả bộ ba lúc này đều rơi vào trong yên lặng. Ngay cả họ không thể nào tưởng tượng ra có một tình huống như thế. Bây giờ thì không còn chuyện gia súc, bạn bè, không còn việc thưởng thức không khí trong lành, hoặc những việc đại loại như thế -điều này chắc chắn đã gây nên một cú «sốc». Khi bạn lần đầu tiên đạt đến cảnh giới thiền, tất cả mọi trung tâm ở trong bạn đều chấn động trong yên lặng. Lý trí tĩnh lặng, ngôn ngữ không còn chuyển động; trái tim tĩnh lặng, cảm thọ không còn che mờ bạn; tình dục tĩnh lặng, dục tính không còn khởi hiện. Thấu đạt chân lý, tất cả đều trở nên tĩnh lặng.

 

Câu “Tôi chỉ đứng thôi mà,” chính là định nghĩa của Thiền. Một khi bạn đã đạt đến điểm này có nghĩa là bạn đã đạt đến một sự hoà điệu ỏ trong bạn. Ðây là bước đầu tiên, bước Yoga, bước Gurdijieff, bước nỗ lực, bước ý chí trong Thiền. Rồi thì bước kế tiếp sẽ tự động xảy đến, bạn không cần phải làm bất cứ chuyện gì cả; bước đầu vẫn còn cần đến tác hành, bước  tiếp theo chỉ là một hiện bày.

 

 

Bạn đã đi một đổi khá xa đủ để lên đến tận đỉnh đồi và đứng đó vượt lên trên tất cả những bóng tối của lũng sâu, vượt lên trên tất cả mọi ngả đường, mọi quan điểm, tôn giáo, triết học; bạn phải vượt qua chúng. Dĩ nhiên đây không phải là chuyện dễ dàng, mà rất là khó khăn gian khổ. Nhưng một khi bạn đã đạt đến đó, đứng ở đó, là Thượng Ðế hiện bày. Ngay chính trong khoảnh khắc khi mà thế đứng của bạn không còn bị nhiễu loạn, đột nhiên bạn hiệp thông với Thượng Ðế. Bạn tan biến đi, Thượng Ðế cũng tan biến đi; chỉ còn lại nhất thể.

 

Cái nhất thể đó là đại định –đó cũng là điểm khác biệt giữa đạt ngộ và đại định. Ðạt ngộ là đạt đến sự hoà điệu nội tại trong bạn, đó là bước đầu tiên. Ðại định là đạt đến sự hòa điệu với tổng thể, đó là bước cuối cùng. Trong đạt ngộ, những mối xung đột trong bạn tan biến đi; trong đại định ngay chính bạn đồng thời cũng tan biến luôn.

 

Ðạt đến lạc thú này là đạt đến tình trạng không còn xung đột nội tại; đạt đến cực lạc này cũng có nghĩa là hoà chung nhịp đập với vũ trụ. Ðó là lúc bạn nhảy múa cùng muôn vì sao, lớn dậy cùng cỏ cây, nở hoa cùng vạn thảo, hát ca cùng chim chóc, thét gào với sóng biển, chan hòa trong cát mịn. Bạn trải rộng ra muôn phương, hiện hữu khắp mọi chốn. Bạn có mặt ở khắp nơi và cũng không ở một nơi chốn nào cả -đấy là mục tiêu duy nhất.

 

Và cái mục tiêu này ẩn chứa một nét đẹp tuyệt vời... Nét tuyệt mỹ này chính là một niềm vui không mang tính bóc lột. Khi bạn muốn có thật nhiều tiền, bạn sẽ phải bóc lột kẻ khác. Bạn sẽ không thể nào có thêm tiền nếu như không làm cho những người khác ở đâu đó nghèo đi. Nếu bạn muốn tăng thêm quyền lực chính trị, bắt buộc bạn phải tước đoạt từ kẻ khác.

 

Tất cả mọi nguồn lạc thú ngoài thiền đều mang tính bóc lột. Ngay cả khi bạn đang yêu một cô gái đẹp, đó cũng là một bóc lột, bởi vì người đẹp này sẽ không còn sẵn sàng cho bất cứ ai khác nữa. Bạn đã chiếm hữu nàng, vạch ra một lằn ranh, và bây giờ nàng đã xem như thuộc về bạn. Bây giờ bất cứ ai yêu nàng, cũng sẽ không tránh khỏi được khổ đau hệ lụy, vì nàng đã có người yêu

 

Ngoại trừ thiền tất cả mọi lạc thú đều mang tính bóc lột. Chỉ có Thiền mới có niềm vui không mang tính bóc lột, chỉ có thiền là một niềm vui vô tranh. Bạn không hề dành lấy của ai bất cứ cái gì, mà đơn giản, chính bạn chỉ lớn dậy trong đó. Giác ngộ không hề là cái gì đó xảy ra từ bên ngoài, mà là cái gì đó được nẩy mầm từ trong bạn, nở hoa ở trong bạn. Ðó là một sự trưởng dưỡng, không phải là một thành quả.

 

Ðó là lý do tại sao giác ngộ không thể là một hành trình của bản ngã. Thiền là một hành trình vô ngã. Thiền là gì ? Thiền là hiện hữu trong hoà điệu nội tại lẫn ngoại tại. Thiền là hiện hữu trong hoà điệu. Thiền là sự hoà điệu.

 

 

CHÚ THÍCH :

 

(1) Gurdjieff (1866-1949): George Ivanovitch Gurdjieff là người Armenian gốc Hy Lạp, sinh quán tại Alexandropol gần biên giới Nga-Thổ. Trong hành trình tìm đạo, ông đã đến Ðông phương để nghiên cứu học hỏi về mật tông. Năm 1922, ông đến Pháp và định cư tại Paris, thành lập học viện “Institute for the Harmonious Development of Man”, giới thiệu với phương Tây một giáo lý cổ truyền của mật tông chưa hề được biết đến về phát triển và tỉnh thức tâm linh, biến cuộc sống đời thường thành đời sống chân lý một cách sáng tạo. Ðây là một giáo lý nhất quán và đầy năng lực của mật tông, độc lập với tất cả các trường phái khác, để giúp con người tự chuyển hoá, và ông gọi đó là Ðệ Tứ Ðạo Lộ, “the Fourth Way.” Gurdjieff cũng lên tiếng cảnh báo rằng nhân loại có thể bị hủy diệt, trừ phi “minh triết” của phương Ðông và «năng lượng» của phương Tây được kết hợp và sử dụng hài hoà. Ông đã đào tạo được nhiều môn sinh tài giỏi.

(2)   Krishnamurti (1895-1986): Jiddu Krishnamurti thoạt tiên được «khám phá», nuôi dưỡng và đào tạo bởi Hội Thông Thiên Học Adyar, Ấn Ðộ và người ta tin ông là một nhà tiên tri hoá thân của Thượng Ðế hay Messiah. Nhưng kể từ năm 1929, Krishnamurti đã từ bỏ tất cả để bắt đầu giảng dạy triết thuyết riêng của mình. Ông tin rằng thiền định mang lại trật tự ổn định cho những hoạt động tư duy, từ đó tâm hoàn toàn tĩnh lặng và đây chính là chìa khoá để chấm dứt những khổ đau, phiền não của nhân loại.

(3)   Plato (427 – 347 BC) : Triết gia Hy Lạp, môn sinh của Socrates và là thầy của Aristotle. Sinh trưởng trong một gia đình thuộc giòng dõi quý tộc tại Nhã Ðiễn, ông đã chứng kiến phiên xử tội của thầy mình và sự kiện này đã lưu lại một dấu ấn sâu đậm trong suốt đời ông. Ở tuổi 40, ông thành lập một học viện đầu tiên của nền văn minh Tây phương, Academus –The Academy, và dành rất nhiều thì giờ để giảng dạy tại đây. Một trong những lý thuyết nổi bật của ông, cho rằng thực tại chung quanh ta chỉ là những phản chiếu của một chân lý ở một cõi cao hơn. Plato đã chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử Triết học Tây phương. Những tác phẩm của ông, đa phần dưới dạng đối thoại hiện vẫn còn tồn tại.

(4)    Charles Darwin (1809-1882): Người Anh, cha đẻ của thuyết tiến hoá. Thoạt tiên theo học Ðại học Y khoa tại Edinburg, nhưng sau đó từ bỏ và theo học ngành địa chất tại Cambridge. Sau khi tốt nghiệp, ông tham dự một chương trình thám hiểm vùng duyên hải Nam Mỹ trong năm năm và trở về Anh quốc vào tháng 10, 1936. Do việc khảo sát những mẫu phẩm vật mang về từ cuộc hành trình này mà lý thuyết tiến hoá ra đời, trong đó kể cả việc cho rằng nhân loại là kết quả của một tiến trình tiến hoá tự nhiên chứ không do ai sáng tạo. Lý thuyết của Darwin ngày càng được kiểm chứng bởi sự tiến bộ của khoa Sinh vật học và sự khám phá DNA.

(5)    Mahavira (599-527 BC): Ðược xem là Ðấng Giác Ngộ thứ 24 và cũng là cuối cùng của Kỳ Na Giáo. Mahavira hay Mahavir là một hoàng tử, sinh tại tiểu quốc Bihar, Ấn Ðộ. Ðến năm 30 tuổi, Mahavira từ bỏ tất cả tài sản, tước vị, kể cả y phục để trở thành một hành giả. Sau hơn 12 năm chìm sâu trong thiền định, Mahavira đạt thành giác ngộ và sau đó đã đi bộ khắp cả Ấn Ðộ để rao truyền chân lý mà ông đã tìm ra mà mục tiêu tối hậu là đạt đến Moksha, một tình trạng cực lạc hoàn toàn, giải phóng khỏi vòng sinh, diệt, khổ đau. Mahavira nhập Moksha năm 72 tuổi.

(6)   Zarathustra :  Zarathustra hay là Zoroaster là một trong những vị thầy vĩ đại của Đông phương, người khai sáng Bái Hỏa giáo -Zoroastrianism, được coi như là quốc giáo của Ba Tư dưới vương triều Achaemenid, trong khoảng từ 1400 đến 1200 BC (về thời điểm xuất hiện của tôn giáo này, một số học giả khác ước định tối thiểu cũng phải khoảng năm 600 BC).Học thuyết của Zarathustra hay của Bái Hỏa giáo có thể tóm tắt như sau: Từ buổi ban sơ của vạn hữu đã có sự hiện hữu cuả hai vị thần linh đại biểu cho thiện và ác. Sự hiện hữu của cái ác, như thế đã được thiết định ngay từ đầu. Cả hai vị thần linh này đều có nhũng quyền năng đặc biệt và đối chọi nhau trên mọi lãnh vực. Vi thiện thần, Ormazd, là ánh sáng, đời sống, sáng tạo ra tất cả những gì là tinh khiết, tốt đẹp -cụ thể như môt thế giới đạo đức, công chính, trật tự, chân lý. Vị ác thần đối đầu là bóng tối, là cái chết và tạo ra tất cả những gì xấu xa nhất trên thế gian này. Hai thế lực tinh thần này tranh đấu lẫn nhau. Sự chiến thắng tối hậu của vị thiện thần là một nhu cầu đạo lý của lương tâm tôn giáo và là yếu tính của Bái Hỏa giáo.

(7)   Raman: Xem Ramana Maharshi (1879-1950)

(8)   Ramakrishna: Sri Ramakrishna Paramhansa (1836-1886), là một đạo sư Ấn giáo quan trọng của thế kỷ thứ 19, thuộc trường phái Advaita Vedanta, nêu bật tính cách bất nhị giữa Tiểu Ngã (Atman) và Đại Ngã (Brahman). Ông cho rằng tất cả mọi tôn giáo đều có một mục tiêu giống nhau, và xem trọng vai trò của tín ngưỡng tinh thần hơn là chủ nghĩa lễ nghi mù quáng. Giáo lý của Ramakrishna có thể được thu gọn trong bốn trọng điểm: Tính cách nhất thể của vạn hữu; sự thánh hoá của mọi chúng sanh; sự hợp nhất của Thượng Đế; và sự hoà điệu của các tôn giáo. Giáo lý của ông đã được kết tập bởi một đệ tử xuất sắc là Đạo sư Vivekanada, người thành lập giáo phái RamakrishnaMission.

 

[MUCLUC] [LGT] CH1] [CH2] [CH3] [CH4] [CH5] [CH.6] [CH7] [CH8] CH9] [CH10] [SACH] [HOME]

 

This site was last updated 08/15/05