CHƯƠNG 2
MÊ TỨC
NGỘ
Câu hỏi thứ nhất :
Có
một truyền thuyết cổ xưa đă gắn liền trí tuệ với ngu dốt?
Phải chăng kẻ trí là người có một tâm hồn chơn chất,
giản đơn? Tuổi tác mang đến trí tuệ hay là
mệt mỏi? Sự khác biệt giữ người trí và kẻ ngu là ǵ?
Người
xưa đă nói rất đúng. Có một sự tổng hợp vượt ra ngoài ngu đần, vượt lên
trên trí tuệ -một sự tổng hợp mà trong đó ngu đần và trí tuệ chan ḥa
làm một.
Ngu đần
và trí tuệ là nhị nguyên, giống như tất cả những nhị nguyên khác: đàn
ông và đàn bà, đêm và ngày, mùa hè và mùa đông, sự sống và cái chết.
Tất cả nhị nguyên đều phải được vượt qua, siêu thể hóa; nếu không,
bạn sẽ không bao giờ thấy được cái nhất thể, cái thực tướng, cái phổ
quát.
Trong ư nghĩa đó, người
trí đồng thời cũng là kẻ ngu -bởi v́ trong cái siêu thể này bao gồm cả
hai. Tuy nhiên đây không phải là kẻ ngu đần như ư nghĩ của thế gian
thường t́nh -đồng thời cũng không phải thông minh theo cách hiểu thế
gian. Cái trí tuệ của y là một thực tại riêng biệt, cái ngu đần cũng thế.
Y là người trí bởi v́ y có hiểu biết, y là kẻ ngu bởi v́ y biết rằng
không cách ǵ có thể hiểu được những huyền nhiệm của đời sống. Y là
người khôn bởi v́ cuộc hành tŕnh của y đă kết thúc, là kẻ ngu bởi v́
lần đầu tiên y biết được một điều rằng không có ǵ để biết và ngay cả có
thể cũng không có cả kiến thức, rằng vô minh là rốt ráo. Y nhận thức
được một điều rằng tận cùng là sự ngu dốt. Không có cách ǵ có thể giải
mả được những bí ẩn của hiện hữu.
Ta gọi một người có thể
đưa ra lời giải đáp là trí, nhưng kẻ trí thực sự là người không có câu
giải đáp nào. Những câu hỏi của y đă biến mất và những lời giải đáp cũng
thế -y hoàn toàn trống rỗng. Trong phạm trù kiến thức, y là người không
hề biết ǵ hết.
Ta gọi một người là đần
v́ y thiếu kiến thức; và ta gọi một người đầy kiến thức là trí v́ y học
rộng, biết nhiều. Thế nhưng một kẻ trí thực sự sẽ hiểu được một điều
rằng, không có cách ǵ y có thể hiểu được thực tại. Thực tại ở ngay
trước mắt, bạn có thể sống với, bạn có thể là nó, nhưng không có cách ǵ
bạn có thể hiểu được nó. Ngay kiến thức đă bao hàm sự phân chia –phân
chia giữa người biết và đối tượng được biết; kiến thức bao hàm sự cách
biệt; kiến thức đặt cơ sở trên nhị nguyên tính.
Một kẻ trí thực sự sẽ
đạt đến cái điểm mà ở đó y không c̣n bị phân cách nữa; nơi mà y không
c̣n là một hoang đảo, nơi mà y đă chan ḥa với nhất thể. Y có chung cùng
một nhịp đập với nhất thể, rung động cùng với nhất thể, y không c̣n là y
nữa. Chỉ c̣n lại Thượng Đế. Đây là ư nghĩa của nhà minh triết
Upanishadic khi tuyên bố ‘Aham Brahmasmi’ –Ta là Thượng Đế.
Đây cũng là ư nghĩa câu nói của Christ: “Ta với Cha
ta là một.”
Khi bạn
nh́n hiện hữu như một đối thể, bạn ở trong t́nh trạng bị phân chia, thế
nhưng khi bạn thể nhập với hiện hữu, trở thành kẻ tham dự, thấy rằng đối
thể và chủ thể chỉ là một –lúc đó sẽ không c̣n cái gọi là kiến thức và
cái gọi là ngu dốt. Khi đă không có kiến thức, làm sao lại có thể có ngu
dốt? Kiến thức và ngu dốt chỉ là hai mặt của một đồng tiền và kẻ trí đều
liệng bỏ cả hai.
Có một
truyền thuyết cổ xưa đă gắn liền trí tuệ với ngu dốt. Đúng vậy. Có một
truyền thuyết nói rằng Chúa Giê Su là một kẻ đần –và quả thực như thế.
Lại có một truyền thuyết cho rằng Thánh Francis là mộ kẻ đần –và cũng
đúng như thế. Ở Ấn Độ, danh xưng Phật -Buddha- được chuyển qua một dạng
kỳ cục hơn, nó trở thành Buddhu –có nghĩa là “đần độn”. Cái tên mang một
ư nghĩa rất trí tuệ, rất giác ngộ -Phật-, được chuyển thành một cực hoàn
toàn đối nghịch, “đần, hoàn toàn ngu đần” –buddhu.
Vâng,
những thái cực đă gặp nhau. Đó là những ǵ mà tôi đă nói với các bạn
ngày hôm qua -về cái điều mà những nhà khoa học gọi là lưỡng tính. Trong
một con người đều hàm chứa cả hai yếu tố âm lẫn dương, thế nhưng bạn chỉ
công nhận một phần của cái hiện sinh này. Bạn cho rằng bạn là nam nhi,
nhưng đồng thời lại cũng có một con người nữ ở trong bạn, chờ đợi được
nh́n nhận, đón nhận, chấp nhận. Thế nhưng bạn vẫn luôn từ chối chuyện
này. Bạn nói rằng, “Tôi là một người đàn ông”. Thế là bạn vẫn luôn ở
trong t́nh trạng bất quân b́nh. Nếu bạn là một người nữ, đồng thời cũng
vẫn có một con người nam ở trong bạn, nhưng bạn luôn luôn phủ nhận nó.
Thế nên bạn sẽ không bao giờ là một nhất thể, bạn luôn luôn bị phân
cách.
Sẽ có
một tụ điểm của tuệ giác, của nhận thức, của tri kiến nơi mà phần nam và
phần nữ ở trong bạn gặp gỡ, trộn lẫn và tan biến vào nhau. Đó là điều
mà William Blake gọi là “cuộc hôn phối nột tại” –khi bạn trở thành cả
hai, lưỡng tính, nam lẫn nữ. Ở Ấn Độ chúng ta có một biểu tượng rất hoàn
hảo về ư niệm này –ardhanarishwar. Có những bức tượng thần Siva
mang nửa thân ḿnh là nam và nửa thân kia là nữ. Ngài vừa là người yêu
đồng thời là kẻ được yêu, vừa âm lẫn dương, người ái nam ái nữ.
Sự gặp
gỡ của những đối lực kiểu này tiếp tục xảy ra khắp nơi, ở mọi chiều
kích. Trí tuệ và ngu si là hai thái cực của bạn. Nếu bạn là người thông
minh và từ khước cái phần ngu si của bạn, bạn chưa hoàn toàn là một
người trí, bởi v́ một phần của con người bạn vẫn chưa được thẩm thấu.
Một phần của con người bạn vẫn c̣n lẩn quẩn ở đâu đó chung quanh bạn,
chưa được thực sự thể nhập làm một với bạn. Nếu bạn là một người ngu và
luôn cho rằng ḿnh là kẻ ngu đần và như vậy con người thông minh ở trong
bạn đă bị khước từ, bị ức chế. Người trí vừa là cả hai, vừa là không
hai. Y vượt qua nhị nguyên cho nên bạn có thể nói rằng y là không hai và
bởi v́ nhị nguyên tính đă tan biến, y trở thành một tổng hợp mới, nên
bạn cũng có thể gọi y là cả hai.
Phải
chăng kẻ trí là người có một tâm hồn chơn chất, giản đơn?
Không phải như thế. Kẻ trí vô tâm –không có tâm đơn giản cũng không có
tâm phức tạp. Bạn lại rơi vào nhị nguyên rồi khi phân biệt ra tâm giản
đơn và tâm phức tạp. Kẻ trí là người hoàn toàn vô tâm. Kẻ trí đă vượt ra
khỏi sự giam hảm của tâm, y biết là không có tâm ǵ cả. Có tâm là có sự
phân biệt. Tâm là vật chướng ngại giữa bạn và hữu thể. Tâm hiện hữu như
một bức Vạn Lư Trường Thành -Đó chính là cái vỏ bọc thép của bạn.
Người trí không có vỏ
bọc thép. Y không cần được bảo vệ, y dễ dàng bị công kích, y hoàn toàn
rộng mở. Y đâu cần tự vệ để chống lại tự nhiên –y luôn sẵn sàng, sống
trọn vẹn như thế. Y không cần phải thúc đẩy gịng nước mà trôi theo cùng
một nhịp với gịng sông. Y không cần phải khoác vào bất cứ cái tâm nào
bởi v́ mang cái tâm vạn hữu đă là quá đủ. Y đâu cần phải có một cái tâm
riêng bởi lẽ y không hề có một mục đích riêng tư. Y không đi, không đến,
không có bất cứ một khát vọng nào –đó là ư nghĩa của điều tôi nói rằng y
không hề có mục đích riêng. Như thế tại sao lại cần phải có một cái tư
tâm? Cái phổ tâm là đủ.
Ta có thể gọi đó là vô
tâm hay là một chữ Tâm viết hoa. Thiền gia sử dụng cả hai. Họ gọi là “vô
tâm” nếu họ muốn khước từ cái tâm thế tục; và họ gọi đó là phổ tâm, cái
Tâm viết hoa, khi họ muốn cho thấy cái mặt tích cực của nó.
Như vậy phải gọi chính
xác nó là cái ǵ đây? Khi ta gọi vô tâm, ta muốn nói rằng đó không phải
là cái mà bạn thực có; khi ta gọi đó là phổ tâm, quảng tâm –cái Tâm viết
hoa- chúng ta đang cho thấy thực sự nó là cái ǵ. Gọi là “vô tâm”, nói
lên khía cạnh tiêu cực, đó không phải là cái tâm như bạn đă biết. Gọi đó
là cái Tâm viết hoa –cái Tâm lớn, quảng Tâm, cho thấy được bản tánh thực
sự của nó. Kẻ trí là người vô tâm hoặc kẻ trí là người quảng Tâm.
Vâng, y hồn nhiên như
một đứa trẻ nhưng không phải là một anh cả quỷnh. Y hồn nhiên như một
đứa trẻ nhưng nên nhớ rằng y không phải là một đứa trẻ con. Có một sự
khác biệt rất lớn lao giữa trẻ con và hồn nhiên như trẻ thơ. Khi Chúa
Giê Su nói rằng: “Chỉ có những ai giống như trẻ thơ mới có thể bước vào
nhà Cha ta”, ông ta nói đến sự hồn nhiên, ngây thơ trong trắng của tuổi
thơ –ông không hề nói đến sự trẻ con hay chín chắn. Người trí không hề
trẻ con dù y rất giống một đứa trẻ. Y không phức tạp theo cái nghĩa của
một triết gia, nhà luận lư, nhà thần học. Y không phức tạp theo cái
nghĩa như một con người với đầy học thuyết, chủ nghĩa và mang nó đi rao
giảng khắp nơi –y không phức tạp theo cách hiểu như vậy. Tâm của y hoàn
toàn vắng lặng yên nghỉ. Không mảy may vướng bận. Tâm của y rỗng rang.
Không có ǵ để phải suy nghĩ.
Suy nghĩ là một sự thay
thế. Khi bạn không biết, bạn buộc phải suy nghĩ. Nếu bạn biết rồi, đâu
c̣n suy nghĩ để làm chi? Suy nghĩ là một trạng thái mù ḷa. Nếu như bạn
đang ngồi ở đây và bạn bị mù, bạn muốn đi ra ngoài, thế là bạn phải nghĩ
đến cái cửa đang ở chỗ nào. Bạn phải hỏi người khác cái cửa nằm ở đâu.
Bạn sợ sẽ bị trượt té, sợ sẽ bị đụng đầu vào tường, bạn lo nghĩ măi về
cái cửa. Thế nhưng một người có đôi mắt sáng sẽ không cần phải hỏi ai cả.
Y trông thấy cái cửa, y biết cái cửa đang ở đâu, thế nên y không phải
suy nghĩ ǵ về chuyện này. Câu hỏi “Cái cửa ở đâu?” không cần thiết v́ y
đă trông thấy nó. Người trí có đôi mắt sáng, y thấy nên không cần phải
suy nghĩ. Chỉ người mù mới phải suy nghĩ.
Tại Tây phương, cái ư
niệm về một nhà tư tưởng hoàn toàn khác biệt với h́nh ảnh của một con
người minh triết Đông phương. Chắc có lẽ bạn đă trông thấy bức tượng
“Người Tư Duy” của Rodin (1), hay ít ra
là trông qua bức h́nh chụp lại. Ta không thể gọi đó là h́nh ảnh của một
người đang tư duy. “Người Tư Duy” của Rodin có vẻ như đang đau ốm, lo
nghĩ. Nh́n vào bức tượng ta có cảm giác như có hàng triệu ư tưởng đang
tuôn chảy qua tâm trí y -giống như lưu lượng giao thông trong giờ cao
điểm. Bạn như có thể thấy được chúng trong bức tượng đá hoa này, trong
dáng ngồi thiểu năo, tay ôm đầu, và những nếp nhăn lo nghĩ trên vầng
trán. Và rồi bạn có cảm tưởng rằng nếu y cứ tiếp tục theo cái kiểu này,
chắc là y sẽ phát điên mất.
Ư niệm về một con người
minh triết hoàn toàn khác hẵn –đó là lư do tại sao ta gọi y là nhà minh
triết. Phật, như vậy là một con người minh triết, không phải là nhà tư
tưởng; Mahavir, Chúa Giê Su cũng thế. Những thiền giả cũng là những con
người minh triết. Tại sao ta gọi họ là những con người minh triết? Bởi
v́ họ thấy. Khi bạn nh́n thấy bạn không cần phải suy nghĩ. Tại sao phải
suy nghĩ khi ḿnh thấy rơ vấn đề? Khi đôi mắt làm việc, suy nghĩ bị loại
trừ. Suy nghĩ chẳng khác ǵ chiếc gậy ḍ đường của người mù.
Có một câu chuyện ngụ
ngôn. Một người mù t́m đến Chúa Chúa Giê Su. Chúa Giê Su sờ vào đôi mắt
của y và y liền được sáng. Y đang mang theo một chiếc gậy lớn, chiếc gậy
được mang theo suốt cả đời người. Lành bệnh xong y tạ ơn Chúa Giê Su và
lên đường trở về nhà –vô cùng hạnh phúc v́ có được đôi mắt sáng, lần đầu
tiên trong đời y được trông thấy màu sắc, mặt trời, những tia nắng,
những đóa hoa, con người và những khuôn mặt thân quen. Thật vô cùng xúc
động. Tuy nhiên y vẫn không quên mang theo chiếc gậy bên ḿnh. Chúa Giê
Su trông thấy bảo: “Này người kia, tại sao ngươi không quăng chiếc gậy
của ngươi đi? Ngươi c̣n mang theo nó làm ǵ?” Người kia trả lời, “Quẳng
chiếc gậy đi? Thưa Chúa, làm sao con quẳng nó đi được? Con đă quá quen
với nó rồi.”
Đó là một thói quen đă
tập nhiễm lâu đời. Y không hề biết rằng nay y đă sáng mắt và không cần
phải mang theo chiếc gậy ḍ đường nữa.
Điều này xảy ra khi bạn
hoà nhịp với trạng thái vô tâm lần đầu tiên. Bạn vẫn c̣n tiếp tục suy
nghĩ. Giống như thói quen của người mù già. Nhưng rồi ngày một ngày hai
bạn trở nên tỉnh thức, rằng quả thật ḿnh đang làm một chuyện vô nghĩa –ta
lập lại công việc theo thói quen, ta vẫn đi trên lối ṃn xưa cũ.
Suy nghĩ trở nên không
c̣n thích đáng nữa –đó là ư nghĩa khi tôi nói rằng kẻ trí chơn chất
nhưng không phải là một anh cả quỷnh. Tất cả đều sẵn đó cho y –y là một
anh đần thế nào được? Ư thức của y bung mở, ư thức của y được thánh hóa,
tâm linh phong phú như Thượng Đế -thế nên đừng bao giờ nghĩ rằng y là
một tên đần độn. Sự phong phú của y c̣n hơn của một tư tưởng gia, một
triệu lần hơn, vô tận. Nhưng y vẫn chất phác hồn nhiên; sự trong sáng
ngây thơ của y không hề bị nhiễm độc, suối nguồn ư thức của y không hề
bị bao phủ bởi những đám mây mờ.
Bạn hỏi: Tuổi tác
mang đến trí tuệ hay là mệt mỏi? Cái đến với tuổi tác là sự mệt mỏi.
Trí tuệ không liên hệ ǵ đến tuổi tác. Một người trẻ có thể rất thông
minh và không thiếu ǵ những người già ngu đần –khi bạn cố gắng t́m ra
một người, bạn có thể t́m ra hàng ngàn. Dứt khoát, tuổi già không liên
hệ ǵ đến trí tuệ. Vâng, đúng như thế, một người già có thể có nhiều
kinh nghiệm, nhưng điều đó không làm cho y trở thành thông minh hơn. Một
người già có thể có nhiều kiến thức, nhưng điều đó không liên hệ ǵ đến
trí tuệ. Y vẫn ở trong t́nh trạng ngu dốt như bao giờ.
Cả ngu đần lẫn trí tuệ
không hề là vấn đề số lượng. Không hề có chuyện kẻ ngu biết ít và người
trí biết nhiều, không bao giờ. Đây là một thay đổi hoàn toàn; đây là một
thể dạng mới. Sự ngu dốt, kẻ được gọi là người ngu, và kẻ được gọi là
người kiến thức đều hiện hữu trong cùng một chiều kích -sự khác biệt là
lượng không phải là phẩm. Có thể là người ngu chỉ biết được một vài điều
và người có kiến thức hiểu biết nhiều điều hơn, nhưng đó là sự khác biệt
giữa ít và nhiều; sự khác biệt không hề là phẩm chất mà chỉ là số lượng;
sự khác biệt chỉ là mức độ.
Người trí th́ khác, y
không cùng ở chung một tần số, y đă dời qua một tần số khác. Sự khác
biệt giữa người trí và kẻ ngu thật là vô cùng lớn lao nên không c̣n là
vấn đề số lượng. Thế nên sự khác biệt giữa kẻ trí và người ngu cũng hoàn
toàn giống như sự khác biệt giữa kẻ trí và người giàu kiến thức. Y cách
biệt sâu xa với người có kiến thức cũng tương tự như với người dốt. Sự
cách biệt giữa y và người có học vấn cũng tương tự như với người vô học.
Đây là một dạng thể cấu trúc hoàn toàn mới. Phẩm chất ư thức của y hoàn
toàn thay đổi -vấn đề không phải là y hiểu biết nhiều hơn mà là có phẩm
chất hơn. Một hiện sinh đầy chất lượng.
Có thể là bạn biết nhiều
hơn Chúa Giê Su; trong thực tế, hoàn toàn đúng như vậy. Bạn biết nhiều
hơn Chúa Giê Su, bạn biết nhiều hơn Đức Phật. Nếu Phật đến đây trong lúc
này và ta bắt ngài phải thi lấy bằng Cữ nhân, Cao học, ngài chắc là sẽ
bị đánh rớt –nhưng bao nhiêu người thi đỗ những cấp bằng này sẽ không ai
có trí tuệ hơn ngài. Ngài sẽ không biết một ngàn lẽ một thứ linh tinh.
Nếu bạn hỏi ngài “vật lư lượng tử” là ǵ, ngài sẽ không biết. Nếu bạn
hỏi ngài lư thuyết tương đối của Albert Einstein là ǵ, ngài sẽ không
biết. Nhưng những điều này không có nghĩa là ngài không trí tuệ.
Sự khác biệt giữa bạn và
Đức Phật là vấn đề phẩm chất. Sự hiện hữu của ngài là khác biệt, sự
tỉnh thức của ngài là khác biệt, ḷng từ bi của ngài là khác biệt. Vấn
đề không phải là ngài biết nhiều. Ngay cả dưới thời ngài cũng có rất
nhiều người biết nhiều hơn ngài. Không thiếu những học giả uyên bác,
không thiếu những nhà bác học tài danh thường luận bàn, tranh căi với
ngài. Thế nhưng đó là những ngày thật tuyệt vời. Con người không quá
kiêu mạn. V́ họ có thể thấy được. Ngay cả những học giả -thường là
chuyện rất hiếm có-ngay cả những học giả cũng có thể thấy được rằng ngài
là một người hoàn toàn khác biệt, ngài hiện hữu ở một tần số khác biệt.
Họ bái phục ngài. Đấy không phải là do họ biết ít hơn ngài, họ có thể
biết nhiều hơn, nhưng phẩm chất của ngài là trội vượt. Đây không phải là
chuyện tích lũy tri kiến, mà là một cái ǵ đó thăng hoa trong ngài. Đây
là một hiện hữu chan ḥa ánh sáng, không c̣n tồn tại một chút u tối nào.
Đó là ư nghĩa của giác ngộ -ngài, con người đă vươn đến ánh sáng.
Ánh sáng này là trí tuệ.
Làm sao ánh sáng này lại có thể có được do tuổi tác? Cái ánh sáng này
thỉnh thoảng cũng xuất hiện ở những người trẻ tuổi –Lăo Tử, được mô tả
là đă đạt được giác ngộ ngay khi mới sinh ra. Theo truyền thuyết ông
sinh ra th́ đă khá già, khoảng chừng tám mươi hai tuổi, già đến độ râu
tóc đều bạc trắng như tuyết. Cái truyền thuyết hay ho này dĩ nhiên chỉ
là một ẩn dụ -nó không hề có thực, căn cứ trên một sử liệu có thực. Nó
muốn nói một điều là ông thông tuệ như một người ở vào cái lớp tuổi tám
mươi hai.
Ở Ấn Độ, Shankara
(2) mất vào lúc mới ba mươi ba tuổi -gần
với giới hạn của lớp tuổi ‘híp-pi’. Tuy không sống lâu nhưng ngài là một
trong những bậc giác ngộ vào bậc nhất của thế giới này. Ngay cả những
bậc thông thái cao niên cũng đă t́m đến quỳ dưới chân ngài và đổi đạo
theo ngài.
Lúc Chúa Giê Su bị đóng
đinh, ngài cũng chỉ mới ba mươi ba tuổi. Dĩ nhiên là ngài không phải là
người có nhiều kinh nghiệm hay kiến thức uyên bác. Nhiều thầy tư tế Do
Thái giáo lúc đó c̣n có kiến thức nhiều hơn, có thể trích giảng kinh
sách một cách chính xác hơn. Chúa Giê Su gần như là một người không có
học thức, chỉ là con trai của một ông thợ mộc, ta không thể đ̣i hỏi ǵ
hơn. Thế nhưng sự khác biệt là ở chỗ nào? Sự khác biệt không phải là ở
kiến thức, sự khác biệt ở ngay chính trong sinh thể. Ngài chan hoà ánh
sáng, chan ḥa hạnh phúc, chan ḥa an lạc. Ở Ngài tỏa mùi hương giác ngộ
-không c̣n nơi để đến, mục tiêu để đạt, tất cả mọi dục vọng đă tan biến.
Khi cái sẽ là tan biến
bạn là một hiện thể -người trí đạt đến cái hiện thể. Kẻ bất trí măi chạy
theo cái sẽ là -trở thành cái này, trở thành cái nọ, trở thành giàu có,
trở thành quyền uy, luôn luôn muốn ḿnh sẽ là cái này, cái kia. Người
trí hạnh phúc với những ǵ y đang có, với thời gian, nơi chốn mà y đang
hiện hữu. Y không khao khát bất cứ điều ǵ –ngay cả Thượng Đế, ngay cả
giác ngộ. Không c̣n mong cầu điều ǵ. Dục vọng đă tan biến, dục vọng đă
từ bỏ y. Cái tâm thức vô cầu đó chúng ta gọi là trí tuệ.
Th́ như vậy, trí tuệ
chẳng dính dấp ǵ đến tuổi tác. Tuổi tác chỉ mang đến sự mệt mỏi. Nhưng
rất nhiều người lớn tuổi cứ cho là ḿnh già dặn, đầy kiến thức. Họ bắt
đầu lên lớp với giới trẻ. Họ bắt đầu nói về những điều mà ngay chính họ
chưa bao giờ hoàn tất; thực ra họ chỉ là những người già nua, mệt mỏi,
và trong sâu thẳm, ẩn chứa cả sự ghen tức. Nếu bạn trông thấy một cậu bé
đang trèo cây, bạn cảm thấy ghen tức phải không? Và ngay lập tức, sự
ghen tức này được che đậy bằng những lời khuyên làm như rất sáng suốt -bạn
bảo thằng bé, “Đùng có leo trèo nghe. Coi chừng té đó. Tin tao đi. Tao
già đầu rồi mà.” Nh́n sâu vào ḷng, bạn sẽ thấy là bạn đang ghen tức với
một thời tuổi trẻ đă qua đi, rằng bạn không c̣n khả năng leo trèo lên
cây chơi đùa như cậu bé kia nữa.
Khi một người già trông
thấy một cặp t́nh nhân trẻ trung tay trong tay ngập tràn t́nh yêu, ông
ta không khỏi cảm thấy ghen tức. Bây giờ ông đâu c̣n được như thế nữa
cho dù trong ḷng có ao ước đến bao nhiêu. Nhưng ḷng ghen tức đó lại
được ngụy trang dưới một h́nh thức cao đẹp hơn. Nó sẽ nói rằng, ôi cái
chuyện đần độn đó mà, nó chỉ thoáng qua trong phút chốc thôi. “Này, nghe
tôi đi,” ông già nói, “chuyện này sớm muộn ǵ cũng tan biến thôi. Đừng
có ngu mà dính vào.” Đừng nghĩ rằng ông già này đă trở thành người sáng
suốt, bởi v́ nếu là người trí thực sự lẽ ra ông ta phải hiểu và thông
cảm được với giới trẻ chứ không phải chống lại chúng.
Trí tuệ thực sự không hề
phản kháng lại đời sống; câu trả lời của nó với thực tại đời sống luôn
luôn là “có”, chứ không hề là “không”. Bất cứ lúc nào bạn t́m thấy tiếng
“không”, hăy nhớ kỹ rằng, rơ ràng có một cái ǵ khác đang giả bộ là trí
tuệ.
Cuối cùng, bạn hỏi:
Sự khác biệt giữ người trí và kẻ ngu là ǵ? Người trí biết
rằng y là kẻ ngu và kẻ ngu th́ không bao giờ biết chuyện đó.
Câu hỏi thứ hai:
Bạn ứng
xử với cái chết như thế nào?
Tôi chết trong từng giây
phút, nhưng tôi không tích lũy cái chết, thế nên nó chẳng có vấn đề đối
với tôi. Nếu bạn thực sự sống th́ cái chết không hề là một vấn nạn. Bạn
không cần phải đối phó với nó v́ nó thực sự không hiện hữu.
Chết là một vấn nạn hoàn
toàn do bạn tạo ra. Hăy cố gắng để hiểu rơ điều này. Bởi v́ bạn không để
cho quá khứ chết đi, nó cứ được tiếp tục tích lũy măi, nó trở thành một
gánh nặng cho bạn, một gánh nặng chí tử. Bây giờ nếu bạn để cho quá khứ
chết đi trong từng giây phút trôi qua, để cho nó kết thúc, th́ trong
từng giây phút bạn lại được tái sanh, cái quá khứ chết không hề được
tích lũy. Khi bạn không c̣n tích lũy cái chết th́ đâu c̣n vấn nạn để
phải giải quyết, đâu c̣n vấn nạn để đối phó? Trong từng khoảnh khắc bạn
trở nên tươi trẻ –và bạn biết rằng sự tươi trẻ này là vĩnh cữu, là vô
tận. Ngay cả lúc mà cái được gọi là cái chết xuất hiện, bạn cũng sẽ
không hề chết. Trong khoảnh khắc đó, đời sống đă trở thành quá khứ, thế
nên bạn không cần phải bám víu vào nó. Bạn cần phải học một điều ở trong
đời sống –không nên bám víu. Bạn không bám víu vào nó th́ vấn nạn sẽ
không phát khởi. Nếu bạn bám víu vào đời sống bạn sẽ sợ hăi cái chết.
Chính cái sự bám víu vào đời sống tạo ra vấn nạn.
Tại sao bạn bám víu vào
đời sống? Bạn bám víu vào đời sống bởi v́ bạn không biết sống như thế
nào, bạn không hề được ai bảo cho phải sống như thế nào. Bạn thực sự
hoàn toàn bị thương tật, bạn đă bị điều kiện hoá đến độ bạn chưa bao giờ
được sống. Bạn chưa sống thực sự mà chỉ sống trong nỗi sợ hăi. Bạn chưa
bao giờ đi sâu vào bất cứ một chuyện ǵ trọn vẹn. Bạn chưa hề yêu trọn
vẹn, bạn chưa hề khóc trọn vẹn, bạn chưa hề cười trọn vẹn -hầu như bạn
đă quên mất cái tiếng trọn vẹn. Bạn không c̣n biết cái tiếng trọn vẹn
nghĩa là ǵ nữa -bạn hoàn toàn cục bộ. Ngay cả khi yêu, bạn cũng không
hề yêu cho đến tận cùng, bạn không để cho nó xảy đến. Bạn luôn cưỡng
chống lại.
Trước tiên bạn tiếp tục
đi tích lũy cái quá khứ chết -tức là tích lũy cái chết chung quanh bạn.
Cái quá khứ đóng băng đó ngày càng trở nên nặng nề v́ nó tăng trưởng mỗi
ngày, và bởi v́ đời sống của bạn quá đổi mỏng manh, tinh tế, bạn chất
cái quá khứ chết này lên trên, đời sống của bạn sẽ bị nghiền nát thôi.
Chính cái quá khứ chết này không bao giờ để yên cho bạn có thể sống một
giây phút nào trọn vẹn, nó luôn luôn kéo lùi bạn trở lại. Bạn muốn tiến
về phía trước, nhưng nó lại kéo ngược bạn trở lui. Ngay cả khi bạn bưóc
đi, bạn cũng không hề đi một cách trọn vẹn. Có nghĩa là không có một cái
ǵ hoàn tất cả, bạn không hề hoàn tất bất cứ điều ǵ cả. Bạn không hề
yêu, bạn không hề cười. Vâng, bạn có thể đă cười bao nhiêu lần trong đời
nhưng những nụ cười đó không bao giờ trọn vẹn, nó chỉ là một nụ cuời dở
dang, một mảnh vụn.
Bạn vẫn chưa khám phá ra
đời sống là ǵ –chưa hát khúc nhạc đời, chưa nhảy khúc luân vũ của sự
sống. Thế nhưng khi bạn sống trọn vẹn trong từng phút giây, bạn sẽ không
c̣n sợ hăi cái chết, tuyệt đối không có ǵ để phải sợ hăi. Bạn đă sống
cuộc đời của bạn, thưởng thức những ân sủng mật ngọt của nó, với vô vàn
biết ơn. Cái chết lúc đó sẽ xuất hiện như một sự nghỉ ngơi dài, không là
ǵ khác. Cái chết sẽ không có khả năng tước đoạt được của bạn bất cứ cái
ǵ bởi v́ bất cứ cái ǵ có thể bị tước đoạt, bạn đă quẳng nó đi từ lâu
rồi, trước khi cái chết đến với bạn. Bạn đă không hề tích lũy nó, thế
nên cái chết sẽ không hủy diệt được bất cứ cái ǵ v́ bạn đă biết sống
trọn vẹn trong từng khoảnh khắc. Và khi cái chết đến, bạn cũng sẽ biết
chết một cách trọn vẹn.
Khi Socrates
(3) đang hấp hối sau khi bị kết án phải
uống thuốc độc, những môn đệ của ông không ngừng than khóc. Ông mở mắt
ra và bảo họ, “Qúy vị đang làm ǵ vậy? Tại sao quư vị lại than khóc? Quư
vị đang làm ǵ trong cái giây phút tuyệt diệu như thế này? Tại sao qúy
vị lại để lỡ mất đi một cơ hội? Hăy dự phần với ta. Cái chết đang xuất
hiện. Đừng để lỡ mất cơ hội này. Hăy cố gắng để nh́n thẳng vào cái chết.
Đó là điều ta đang làm đây.”
Rồi ông tiếp tục nói với
môn đệ, “Bây giờ th́ chân của ta tê rồi. Nhưng điều bí ẩn là –chân ta tê
rồi, ta không c̣n cảm giác về nó nữa, nhưng những cảm giác về ta vẫn y
nguyên, vẫn không hề giảm sút.” Rồi ông tiếp, “Bây giờ đến lượt đôi tay
cũng tê rồi. Chúng đă biến mất. Ta không c̣n cảm giác về chúng nữa.” Ông
bảo một môn đệ thử châm vào tay ḿnh. Người ta châm vào tay và ông không
thấy có cảm giác ǵ cả. Ông cười và bảo họ, “Thật lạ lùng, thân xác của
ta bây giờ coi như đă chết thế nhưng ta vẫn sống như bao giờ. Cảm giác
của ta về ư thức vẫn toàn vẹn như bao giờ”.
Rồi ông bắt đầu có cảm
giác rằng trái tim của ḿnh ngưng hoạt động nhưng cho đến phút cuối ông
vẫn c̣n tiếp tục bảo môn đệ: “Hăy nhớ kỹ. Đây là lời nói cuối cùng của
ta. Ta sẽ không thể nói thêm điều ǵ được nữa bởi v́ lưỡi ta đang dần tê
cóng.” Và tiếp theo là lời nói cuối cùng: “Ta vẫn sống toàn vẹn như bao
giờ; ư thức của ta không mất đi một chút nào cả. Cái thân xác này không
thể hủy diệt được ta. Cái thân xác này đang ra đi, ta đang trên bờ tan
biến, nhưng cảm giác nội tại, cái ư thức chủ quan vẫn không hề bị đụng
tới. Thực ra, nó c̣n sáng tỏ hơn xưa.”
Cái chết mang đến cho ta
một bối cảnh; nó trở thành một cái bảng đen và đời sống như là một cái
ǵ đó được viết bằng phấn trắng lên trên tấm bảng đen này. Khi sống có
thể là bạn không cảm nhận đời sống một cách sâu sắc, một cách bén nhạy,
một cách tế nhị, nhưng trái lại bạn có thể cảm nhận chúng khi chết.
Chẳng khác ǵ nh́n những ngôi sao trong đêm, bầu trời càng tối đen,
những ngôi sao càng lấp lánh. Chúng vẫn ở đó suốt ngày, chúng không đi
đâu cả, không thể đi đâu được. Chúng đi đâu bây giờ? Chúng vẫn ở đó,
nhưng v́ ánh sáng của mặt trời, ta không thể thấy chúng. Ánh sáng của
chúng bị xóa nḥa đi trong ánh sáng của mặt trời. Nhưng trong đêm tối,
chúng lại xuất hiện -lấp lánh, tuyệt vời. Điều này cũng xảy ra giống y
hệt như thế với cái chết. Đời sống trở thành một ngôi sao chiếu sáng lấp
lánh.
Bạn hỏi tôi: Ngài
đối phó với cái chết như thế nào? Thực sự ra, tôi không hề biết cái
chết là ǵ bởi v́ tôi đang chết, trong mỗi khoảnh khắc cái tôi quá khứ
đang chết. Tôi không hề sống trong quá khứ. Và bởi v́ tôi không sống
trong quá khứ, tôi cũng không hề sống trong tương lai –tương lai luôn
luôn chỉ là sự phóng chiếu của quá khứ. Cái quá khứ chết tạo ra một
tương lai sai lạc, chỉ có giây phút hiện tại này đây là đúng đắn.
Tôi đang hiện hữu tại
đây, trong khoảnh khắc này. Đâu có vấn nạn ǵ về cái chết? Làm sao bạn
có thể chết ở trong khoảnh khắc hiện tại? Cái chết luôn luôn là một vấn
nạn được phóng chiếu: Một ngày nào đó bạn sẽ chết. Đây chỉ là sự suy
luận -một ngày nào đó. Ai đó đă chết, bạn trông thấy họ đang hấp hối và
rồi bạn trở nên sợ hăi rằng bạn sẽ chết. Thế nhưng bạn có thực sự trông
thấy y chết như thế nào chưa? Bạn mới chỉ thấy những biểu hiện bên ngoài,
bạn chưa hề thấy cái ǵ xảy ra ở bên trong.
Chưa hề có ai chết. Chết
là điều dối trá lớn nhất; nó không hề hiện hữu. Chỉ có đời sống là hiện
hữu. Đời sống là vĩnh cửu. Nếu bạn liệng bỏ quá khứ, tương lai cũng tan
biến theo. Trong khoảnh khắc của hiện tại, cái chết không hề có mặt,
trong hiện tại, chỉ có đời sống.
Hăy nghe câu chuyện thú
vị sau đây.
Một lớp học về môn tâm
lư của trường đại học nọ đang nghiên cứu về những phản ứng của con người
đối với kích thích t́nh dục đặc biệt là mức độ thường xuyên của chuyện
liên hệ gối chăn.
“Có bao nhiêu sinh viên
ở đây làm chuyện chăn gối hơn một lần trong tuần?” vị giáo sư hỏi.
Có năm cánh tay đưa lên.
“Bao nhiêu người một lần
trong tuần?”
Mười cánh tay đưa lên.
“Bao nhiêu người hai lần
trong tháng?” –Tám cánh tay đưa lên.
“Một lần trong tháng?” -Bốn
cánh tay đưa lên.
“Có ai chỉ một lần trong
năm?”
Một gả nhỏ con ở cuối
lớp đưa tay vẩy loạn lên và cười một cách khoái chí.
Vị giáo sư ngạc nhiên:
“Nếu một năm chỉ làm chuyện chăn gối một lần, tôi thấy đâu có ǵ để bạn
phải vui quá mức như vậy?”
Tràn ngập hân hoan, gă
học tṛ nhỏ con trả lời, “Th́ tối nay tôi làm chuyện đó thầy ơi!”
Hăy để cho khoảnh khắc
này đây là khoảnh khắc hiện tại. Đừng sống trong quá khứ bởi v́ không
ai có thể sống trong quá khứ. Nó đă trôi qua. Cũng đừng xây những lâu
đài trong tương lai, nó sẽ không bao giờ hoàn tất. Tuơng lai không hiện
hữu. Hăy sống với chính khoảnh khắc hiện tại này.
Có lần Chúa Giê Su nói
với môn đệ: “Hăy nh́n những đoá hoa uất kim hương trên cánh đồng kia.
Thật là đẹp tuyệt vời. Ngay vua Solomon có đem tất cả gấm vóc quư giá
của ông ta trải ra, cũng không đẹp được như thế.” Thế th́ cái bí mật của
những đoá hoa uất kim hương trên cánh đồng là ǵ? Chính là do chúng
sống trong khoảnh khắc hiện tại. Ngày hôm nay là ngày hôm nay. Đêm nay
là đêm nay và khoảnh khắc này chính là khoảnh khắc này.
Một khi bạn bắt đầu sống
với khoảnh khắc hiện tại có nghĩa là bạn giao tiếp với đời sống một cách
liên tục và trọn vẹn. Và rồi đời sống sẽ không ngừng tiếp nối làm bạn
tươi mát trở lại, trẻ trung trở lại.
Vâng, một ngày nào đó
thân xác của bạn có thể tan biến đi, nhưng đó không phải là chết -một
cách đơn giản, đó là một cái thân xác mệt mỏi bắt đầu được nghỉ ngơi.
Vâng, cái tâm thức này cũng sẽ bị mất đi, bởi v́ cái tâm thức này đă
được sử dụng quá nhiều. Thế th́ bạn c̣n muốn cái ǵ nữa? Sử dụng cái tâm
này vĩnh viễn? Bạn chưa chán ngấy nó sao? Cái tâm này làm việc từ khi
bạn chào đời cho đến ngày bạn ra đi -bảy mươi, tám mươi, chín mươi năm.
Đây cũng là một cổ máy thôi. Hăy rủ một chút ḷng từ bi cho cổ máy này –ngày
qua ngày nó trở nên già cỗi, ngày qua ngày nó không c̣n làm việc hiệu
quả, bạn cần một cổ máy mới thôi.
Thân xác này đă trở nên
già nua, thân xác này đă trở nên mục rửa, nó cũng chỉ là một cổ máy. Một
cổ máy rất tinh vi, phức tạp mà cho đến nay khoa học vẫn chưa sáng chế
nổi. Một cổ máy hoàn toàn tự động. Bạn cho rằng máy móc tự động là
chuyện mới mẻ? Không đâu bạn ơi, cái thân xác của bạn là một bộ máy tự
động từ hàng triệu năm rồi. Khi bạn ăn uống, thực phẩm được tiêu hoá một
cách tự động. Bạn không phải làm công việc tiêu hóa. Khi bạn thở vào,
máu nhận dưỡng khí và thải ra thán khí một cách tự động -bạn không cần
phải làm những công việc này. Hăy nghĩ đến chuyện bạn phải cáng đáng
những công chuyện như thế! Chỉ một ngày thôi cũng đủ làm bạn phát điên
lên rồi, không cách chi sống nỗi. May mà tất cả đều tự động. Trong suốt
bảy chục, tám chục, chín chục năm trời cổ máy tự động này vẫn chạy đều.
Vâng, th́ thỉnh thoảng bạn cũng bị ốm đau, thỉnh thoảng bạn cảm thấy
không khoẻ, bị chuyện nọ chuyện kia –nhưng nó có thấm vào đâu. Với cái
cổ máy phức tạp tinh vi như thế, tất cả những ốm đau so ra chẳng là cái
ǵ cả. Chuyện bạn hiện hữu mới là phép lạ. Chuyện bạn sức khoẻ mới là
phép lạ.
Nhưng rồi tất cả mọi cổ
máy đều cũng phải có lúc già nua mệt mỏi. Ngay cả kim loại cũng thế. Các
nhà khoa học bây giờ cho ta biết kim loại cũng bị già nua. Ngay khi tôi
đang nói chuyện với bạn, không phải chỉ thân xác của tôi sẽ già đi mệt
mỏi mà cái micro tôi đang cầm trên tay cũng sẽ già đi mệt mỏi. Tất cả
mọi vật đều sẽ già nua và đều cần an nghỉ.
Cái chết là sự nghỉ ngơi,
không là ǵ khác. Bạn hoà nhập trở lại với tứ đại. Thân xác này trở về
với trái đất để nghỉ ngơi. Nhưng rồi nó sẽ được phục sinh trong một ngàn
lẻ một thân xác khác, nó sẽ trở lại. Bạn có thể thấy được điều này ở
khắp nơi. Khi mùa xuân về, cây cối đơm bông, nhưng rồi những cánh hoa
biến mất trở lại trong ḷng đất. Và rồi những chiếc lá rụng rơi trở
thành phân bón. Một lần nữa chúng sẽ lại thể nhập vào ḍng lưu chuyển
của một cái cây khác, một lần nữa chúng sẽ trở thành bộ phận của một cái
cây khác, một lần nữa chúng sẽ lại sống động dưới ánh sáng mặt trời, sẽ
lại vui đùa với làn gió, với trăng sao, chúng sẽ lại cười cợt, sẽ ca lại
khúc nhạc đời bất tận và rồi chim chóc sẽ tụ hội trở về, và con người
thích thú ngắm nh́n chúng.
Điều này lại được tái
diễn. Đời sống là một ṿng luân chuyển của hành động và nghỉ ngơi, hành
động và nghỉ ngơi. Đời sống không phải chỉ là những ǵ mà bạn gọi là đời
sống –cái chết cũng là một phần của đời sống, cái chết không phải là sự
kết thúc. Cái chết là một phần của đời sống, thông qua cái chết đời sống
hiện hữu, đúng như thế, qua cái chết đời sống được nghỉ ngơi lấy lại
toàn bộ năng lượng và sức sống để trở lại. Giống như bạn đi ngủ mỗi đêm.
Vâng, ngủ là một cái chết ngắn. Bạn chỉ chết trong ṿng vài giờ và nếu
bạn chết đúng mức, mỗi buổi sáng bạn sẽ rất tươi tắn, bạn sẽ trẻ trung
trở lại, đôi mắt sẽ linh động, đôi chân như muốn nhảy múa, con người bạn
sẽ tràn ngập niềm vui và mật ngọt hương đời. C̣n nếu bạn không thể ngủ
ngon, sáng ra bạn sẽ vô cùng mệt mỏi.
Thế nên phải học cách
sống trọn vẹn và chết trọn vẹn. Khi bạn chết, hăy chết một cách trọn vẹn
để khi tái sanh trở lại, những tinh tuư mật ngọt lại tuôn chảy trở lại
trong bạn. Nhưng tại sao bạn lại phải bận ḷng về chuyện này? Bận ḷng
về một chuyện không đáng –có bao giờ bạn phải mất công suy xét về nó? Có
bao giờ bạn nghĩ đến bạn đă ở nơi đâu trước kiếp sống này, trước khi
được sinh ra? Bạn đă không hề quan tâm đến mà. Thế th́ tại sao bạn lại
lo nghĩ đến cái chết? Bạn đă từng kinh qua cái chết biết bao nhiêu lần
rồi và không c̣n quan tâm đến nữa. Bạn có thể là Alexandre Đại Đế, đâu
biết được? Có đủ loại khùng điên đang có mặt ở đây. Bạn có thể là Thành
Cát Tư Hăn, là Adolf Hitler …bao nhiêu người Đức đang có mặt tại đây.
Làm sao biết được?
Biết bao nhiêu chuyện
xảy ra trong thế giới này và bạn không hề bận tâm đến. Ngay cả nếu có
người bảo cho bạn biết rằng bạn đă từng là Alexandre Đại Đế, bạn sẽ trả
lời là bạn không cần biết. Đâu có ǵ quan trọng? Khi bạn đang là
Alexandre Đại Đế, đó mới là chuyện quan trọng -thế mà bây giờ bạn lại
suy nghĩ rất nhiều về cái chết.
Bạn sẽ chết và bạn sẽ
không chết. Đây là một sự kết hợp. Cái thân xác này trở nên già cỗi, cái
tâm này trở nên già cỗi, cái ngă này trở nên già cỗi… thế là cái thực
tánh ở trong bạn, vị chủ nhân thực sự của ngôi nhà, cái tâm thức, làm
một bước nhảy, đi t́m kiếm một thân xác mới, một cái bào thai khác, để
được tiếp tục.
Rồi sẽ có một khoảnh
khắc nào đó bạn cảm thấy chán ngán cái ṿng lẩn quẩn của đời sống. Cái
ṿng đầu tiên, cái ṿng kế tiếp, cái ṿng khác, những ṿng quay tiếp nối
những ṿng quay. Có một khoảnh khắc trong đời bạn bỗng nhiên tỉnh thức
trước những ǵ đang xảy ra. Bạn cảm thấy chán ngán, không phải chỉ cho
một kiếp sống mà cho cái ṿng quay lẩn quẩn như thế, cái ṿng quay bất
tận hết đến rồi đi –cái mà Ấn Độ giáo gọi là awagaman, đến và đi.
Cái ngày mà bạn trở nên
chán ngán cái cơi đi, về trong hiện tại này, bạn trở nên tín ngưỡng. Một
nhân tố mới đă đi vào tâm thức bạn, một tia sáng mới. Thế là bạn bắt đầu
suy nghĩ về niết bàn. Một cái chết thông thường là sự loại bỏ một kiếp
sống để bạn tiếp tục sống trở lại; niết bàn là sự loại bỏ tất cả các
kiếp sống để bạn không c̣n sống như một cá thể, bạn bắt đầu sống như là
vũ trụ, như là Thượng Đế. Sẽ không c̣n nhu cầu phải trở lại xác thân,
với tâm và cái ngă.
Câu hỏi thứ ba:
Một
triết gia nói rằng: “Kiến thức là một đức hạnh cho nữa phần đời thứ hai
nhưng là những ǵ chán ngấy cho nữa phần đời thứ nhất.” Cái quy luật này
có nên chỉ dành cho những người trên bốn mươi?
Kiến thức luôn luôn là
một điều chán ngấy. Không phải nó chỉ chán ngấy lúc bạn c̣n trẻ mà nó
luôn luôn chán ngấy, kiến thức chỉ là rác rưởi phế thải. Kiến thức không
phải là một cái ǵ có thực. Nói về nó như vậy là đúng rồi. Đương nhiên
là nó phải chán ngấy thôi. Kiến thức không hề là một cái ǵ có thực. Nó
giống như một người đang đói và bạn đến nói với họ về thực đơn, về thực
phẩm, chuyện trên trời dưới đất -họ sẽ không hết đói.
Con người cần hiểu biết
không cần kiến thức; con người cần thông cảm chứ không phải kiến thức;
con người cần trí tuệ chứ không phải kiến thức. Kiến thức là những ǵ
chán ngấy. Bất kể bạn ở tuổi tác nào.
Vấn đề thứ hai: Tôn giáo
không liên hệ ǵ đến tuổi tác. Nó có thể đến với bạn lúc bạn c̣n trẻ
hoặc có thể không, do một ngàn lẻ một lư do khác nhau. Thỉnh thoảng một
người có thể rất tỉnh thức ngay lúc c̣n trẻ tuổi và nhận thức được sự hư
vọng của thế giới này trong khi có những người già vẫn không bao giờ
thấy được sự thật. Con người không ai giống ai. Họ rất là khác biệt. Thế
nên không hề có một quy luật nào đưa ra một kết luận nhanh chóng và cố
định cả.
Tuy nhiên, một cách tổng
quát ta có thể nói rằng con người bắt đầu có xu hướng tín ngưỡng kể từ
lứa tuổi bốn mươi hai. Bạn cũng không nên xem đây là một quy luật cố
định. Một hiện thể ở tŕnh độ cao càng ít bị chi phối bởi những quy luật
cố định, trong khi một hiện thể ở tŕnh độ thấp sẽ bị chi phối nhiều hơn.
Thí dụ, bạn nói rằng nước sôi ở một trăm độ. Đây là một quy luật cố định.
Cho dù ở Tây Tạng, Ấn Độ hay Ba Tư th́ nước cũng bốc hơi ở một trăm độ -bởi
v́ nước chưa phải là một cá thể có ư thức, nó chưa có tự do.
Cây cối có chút đỉnh tự
do hơn thế nên chúng khó đoán biết hơn. Súc vật c̣n tự do hơn cây cỏ,
chúng lại càng khó tiên đoán hơn. Con người là sinh vật có nhiều tự do
hơn cả trong thế giới hiện hữu này nên rất khó đoán trước những ǵ xảy
ra. Tuy nhiên một điều có tính cách phổ quát là, ở vào lứa tuổi bốn mươi
hai, con người bắt đầu suy tư về về tôn giáo. Có một khuynh hướng tự
nhiên như thế.
Theo du già và mật tông,
đời sống con người có thể được phân chia thành từng khoảng bảy năm. Một
đứa trẻ bắt đầu có những đổi thay đầu tiên khi lên bảy. Đây là giai đoạn
ấu thơ chấm dứt. Một thay đổi lớn. Khi nó lên mười bốn tuổi, t́nh dục
bắt đầu đi vào đời sống. Lại một đổi thay lớn lao khác. Bây giờ nó bắt
đầu trổ mả, bắt đầu có những ước vọng khác biệt. Ở lứa tuổi hai mươi mốt,
cuộc sống mở ra với những khao khát, ước mơ. Y bắt đầu thích chính trị,
nổi loạn, chống đối, đấu tranh -sẵn sàng đánh nhau với bất cứ ai. Y trở
nên một nhà cách mạng. Ở tuổi hai mươi tám y đi vào ổn định, thích tiện
nghi, có trương mục ở ngân hàng, lương cao, nhà rộng, vợ đẹp, con khôn,
rồi TV, xe hơi -đại khái như vậy. Y bắt đầu bị vây bủa.
Thế nên những người
“híp-py” rất đúng khi nói rằng đừng nên tin vào những người trên ba mươi
tuổi, bởi v́ sau ba mươi mọi người đều trở nên bảo thủ. Đó là một khuynh
hướng tự nhiên. Sau tuổi hai mươi tám gả thanh niên trở thành chủ hộ.
Thế nên bạn không thấy một anh “híp-py” già nào cả. Ở cái tuổi này họ
tan biến vào cái thế giới chung chung mà trước đây họ đă từng nổi loạn
chống đối. Ở lứa tuổi hai mươi tám con người đi vào nề nếp, quy tắc,
thích nghi với cuộc sống. Những nhiệt t́nh cách mạng đă nguội lạnh. Họ
trở nên an phận, như con chim xây tổ ấm trên cành cây, họ bắt đầu nghĩ
đến hôn nhân, con cái. Và cũng là điều rất tự nhiên, khi có gia đ́nh và
con cái, bạn không bao giờ c̣n là một nhà cách mạng được nữa.
Đến lớp tuổi ba mươi lăm,
con người hầu như đă lập thành –cái lứa tuổi được gọi là tam thập nhi
lập. Nếu y thành công trong đời, sự thành công được thiết định; nếu y
thất bại, sự thất bại mang dấu ấn rơ nét. Bây giờ y biết rằng không c̣n
có thể làm ǵ khác hơn được. Cái ǵ phải xảy ra đă xảy ra. Y trở nên tin
vào số mệnh, bắt đầu tin vào những ǵ đă được an bài; y cho rằng bây giờ
không c̣n có thể căi đổi ǵ được nữa, những ǵ trong ḍng chỉ tay định
mệnh của y nay đă hiện bày. Y không c̣n nghị lực để chiến đấu nữa. Y
buông thả.
Đến lớp tuổi bốn mươi
hai y bắt đầu trở nên phần nào thao thức… Y nh́n lại đời ḿnh, ta đang
làm cái ǵ đây? Ta đang chạy đuổi theo tiền tài, quyền lực, danh vọng?
Và cái chết đang đi đến. Cái chết gỏ vào cánh cửa đời lần đầu tiên khi
ta bước vào lứa tuổi bốn mươi hai –đó là lứa tuổi mà bạn bắt đầu bị nhồi
máu cơ tim, cao áp huyết, ung thư, đại loại như thế. Đây là tiếng gỏ đầu
tiên. Hăy lưu ư đến cái tuổi bốn mươi hai, một cái tuổi nguy hiểm nhất.
Thế rồi bạn bắt đầu cảm
thấy một thoáng dao động, một thoáng run rẩy ở bên trong, bạn không c̣n
vững chăi như một thuở nào. Bạn mất tự tin. Bạn đă từng sống, từng biết
đến tiền bạc, vợ con, từng nếm qua hương vị t́nh dục lẫn t́nh yêu, đă
chứng kiến bao nhiêu chuyện đời, đă du lịch ṿng quanh thế giới -nhưng
không có ǵ làm bạn cảm thấy thỏa măn cả, giống như bạn bị mất mát một
cái ǵ đó. Đây chính là khoảnh khắc mà tín ngưỡng tôn giáo đi vào đời
bạn. Hăy nhớ cho, cái chết và tôn giáo đến cùng với nhau. Tiếng gỏ của
cái chết đồng thời cũng là tiếng gỏ của tôn giáo.
Bây giờ th́ tất cả đều
tùy thuộc vào bạn. Nếu bạn là người chống đối tôn giáo mạnh mẽ bạn sẽ bỏ
lỡ mất cơ hội để trở thành một hành giả (sannyasin) khi thần chết gỏ cửa.
Nếu bạn là người chống đối tôn giáo mạnh mẽ, với một thái độ cứng ngắc
đầy thiên kiến, sẽ không có ǵ c̣n lại cho bạn ngoài bệnh đau tim, cao
áp huyết, lao phổi, ung thư. Chắc chắn là bạn không thể có Thượng Đế.
Cái đó hoàn toàn tùy thuộc ở bạn.
Nếu bạn là con người
cởi mở, thoáng, không mang sẵn một định kiến nào, đây là khoảnh khắc để
bạn bắt đầu t́m đến Thượng Đế. Khi thấp thoáng bóng dáng của cái chết,
bạn bắt đầu t́m kiếm một cái ǵ vĩnh cữu. Thần chết đang trên đường đến
viếng thăm và bạn không c̣n thời gian nữa. Đây là lúc mà bạn phải quán
chiếu đời sống ḿnh, phải thanh thỏa với nó. Cái đời sống mà bây giờ
bỗng dưng bạn cảm thấy trở nên nhạt nhẽo, vô nghĩa.
Điều này xảy đến trong
những giai đoạn khác nhau của đời người. Có khi ở tuổi ba mươi lăm, có
khi ở tuổi năm mươi, nhưng tôi lấy trung b́nh là tuổi bốn mươi hai.
Nhưng cái đó cũng c̣n tùy, nếu bạn rất thông minh, điều này có thể xảy
ra sớm hơn, nếu bạn quá ngu đần th́ có thể đến tuổi bốn mươi hai cũng
chẳng thấy ǵ cả. Đây là vấn đề thông minh. Những kẻ đần độn th́ cho đến
cuối đời cũng vẫn là vô tín ngưỡng.
Những người thông minh
bắt đầu hướng về tôn giáo rất sớm. Vâng, đây là vấn đề thông minh, không
phải là vấn đề tuổi tác. Tuy nhiên tuổi tác cũng đóng một vai tṛ trong
đó bởi v́ đă bắt đầu có sự thay đổi về kích thích tố trong cơ thể con
người. Đến cái tuổi bốn mươi hai, t́nh dục không c̣n là một ám ảnh lớn.
Bạn đă hoàn tất với nó.
Vâng, bạn đă hoàn tất
với nó, trừ phi bạn là một vị thánh hay nghĩ rằng ḿnh là một loại người
vĩ đại, cao thượng nào đó –cái này mới phiền. Bởi v́ rồi th́ bạn sẽ vẫn
tiếp tục bị t́nh dục ám ảnh cho đến cuối đời. Nếu bạn có một đời sống
t́nh dục thoải mái, t́nh dục sẽ sớm biến thành vô nghĩa. Nếu bạn càng có
nhiều kinh nghiệm về t́nh dục, nó sẽ càng nhanh chóng mất hết ư nghĩa.
Nó trở thành b́nh thường nhạt nhẽo. Hăy nhớ điều này: Bạn nên tránh xa
những nhân vật cao thượng, vĩ đại, những nhà tu khổ hạnh, bởi v́ họ
không bao giờ cho phép bạn đụng đến dục t́nh.
Điều này có thể bạn cho
là lạ lùng, nhưng hăy nghe tôi nói. Những người như các bạn đây chính là
những người đang giữ cho t́nh dục c̣n hiện hữu trên trái đất này. Nếu
những người như tôi tuân thủ theo lời dạy của họ, t́nh dục sẽ biến mất
trên trái đất. Nó sẽ c̣n lại cái ǵ? -một thực thể sinh vật, không c̣n
những lăng mạn t́nh yêu, không c̣n những điều vô nghĩa được bạn lập đi
lập lại trong đời sống hàng ngày. Cái vô nghĩa đó vượt ra ngoài sự ức
chế. Nếu t́nh dục bị ức chế th́ rồi cho đến tuổi bốn mươi hai bạn vẫn
không cảm thấy được sự vô nghĩa của nó. Mà trong thực tế, bạn càng ức
chế nó chừng nào, bạn càng bị nó tấn công chừng nấy; nó sẽ trở lại t́m
bạn để phục thù không ngưng nghỉ. Nó sẽ ám ảnh bạn trong giấc mơ, nó sẽ
ám ảnh trong trí tưởng bạn.
Đó là lư do tại sao luôn
luôn có một câu chuyện rất giống nhau trong các bộ kinh cổ: một vị giác
ngộ đang ngồi dưới gốc cây và rồi những nàng apsaras đến từ thiên
giới -những người đẹp da vàng óng ả xinh xắn tuyệt vời- trần truồng nhảy
múa bao quanh. Tại sao như vậy? Thật là tội nghiệp cho lăo ta. Y có làm
điều ǵ sai quấy đâu. Y chỉ ngồi dưới gốc cây đọc kinh, lần tràng hạt
thôi mà, y đă từ bỏ thế gian này -tại sao thiên giới lại chiếu cố đến y
như vậy? Tại sao lại quấy phá y?
Thế nhưng điều này đă
xảy ra trong mọi thời đại. Với Ấn Độ giáo, với Cơ Đốc giáo, với đạo
Jains, với Phật giáo –có vẻ như đây là một hiện tượng khá phổ quát.
Nhưng tại sao nó xảy ra? Người ta tiếp tục giải thích rằng đó là Ma
vương t́m cách đến lung lạc họ. Không có ai lung lạc họ cả, đấy chính là
t́nh dục bị dồn nén quay trở lại phục thù. Khi bạn ức chế t́nh dục, nó
sẽ làm cho bạn phát khùng lên. Những vị được gọi là giác ngộ đang ngồi
dưới những gốc cây trong các hang động của họ tại Hy Mă Lạp Sơn thật ra
đang bị nhiễu loạn thần kinh. Họ cần đuợc tâm lư trị liệu. Họ không cần
cái ǵ khác, họ chỉ cần một nhà tâm lư trị liệu giỏi. Có thể họ cần một
chút Freud, một chút Jung, một chút Adler. Họ cần đi sâu vào giấc mơ của
ḿnh, t́m cách phân tích chúng.
Nếu bạn không ức chế
t́nh dục, t́nh dục sẽ tự mất dần ư nghĩa với thời gian. Cũng giống như
nó bắt đầu trở nên vô cùng ư nghĩa trong lứa tuổi mười bốn, nó sẽ mất
dần đi ư nghĩa trong lứa tuổi bốn mươi hai.
Hăy ghi nhớ hai điều:
Khi cái chết đến gỏ cửa, khi cái chết bắt đầu đến viếng bạn, t́nh dục sẽ
xách nón ra đi. Chúng có mối liên hệ cùng nhau. T́nh dục là sinh sản.
Cái chết và t́nh dục v́ thế là hai kẻ thù, chúng không thể nào sống
chung cùng một mái nhà. Tuy nhiên có một điều rất cần thiết phải được
hiểu –t́nh dục chỉ ra đi khi nào bạn sống trọn vẹn với nó, hiểu biết nó,
thực chứng nó, không ức chế nó dưới bất cứ h́nh thức nào, sống trọn vẹn
có ư nghĩa. Và như thế nó sẽ chết đi một cách tự nhiên. C̣n nếu bạn ức
chế nó, nó sẽ tiếp tục bám víu lấy bạn. Bất cứ khát vọng nào chưa thành
tựu vẫn tiếp tục bám víu, bất cứ việc ǵ chưa hoàn tất vẫn luôn quanh
quẩn chung quanh không rời bỏ bạn.
Đến tuổi bốn mươi chín
lại một đổi thay lớn xảy ra. Con người không phải chỉ chú tâm đến một
cái ǵ đó cao cả hơn t́nh dục, y bắt đầu dính líu, tham dự vào. Ở tuổi
bốn mươi chín, y bắt đầu suy tư, nghiền ngẫm, quán chiếu; và trở nên gắn
bó hơn. Y có thể trở thành một hành giả sannyasin, một tỳ kheo, một tu
sĩ, hoặc ngay cả nếu y không chọn lựa một h́nh thái biểu lộ bên ngoài,
cái thế giới nội tâm của y đă bắt đầu thay đổi. Y sẽ trở thành một thiền
giả, hay bắt đầu việc cầu nguyện tu tập. Đây sẽ là một tham dự tích cực,
không c̣n là chuyện cảm nhận nữa, mà là dâng hiến trọn vẹn cuộc đời ḿnh
cho niềm tin tôn giáo. Sự dâng hiến phát khởi ở lớp tuổi bốn mươi chín,
sự tham dự gắn bó phát khởi ở lớp tuổi bốn mươi chín.
Và nếu như mọi chuyện
tiến triển một cách đúng đắn, nếu như bạn không bị lung lạc bởi đám
người đần độn bao quanh, vào cái tuổi năm mươi sáu, nỗ lực thiền định
của bạn bắt đầu nở hoa -sự chứng ngộ đầu tiên, sự tiếp xúc đầu tiên với
Thượng Đế sẽ xảy ra.
Và nếu mọi chuyện cũng
diễn tiến một cách đúng đắn, vào tuổi sáu mươi ba bạn sẽ nhập được đại
định tam muội, bạn có thể trở thành giác ngộ. Rồi trong ṿng bảy năm
tiếp theo -nếu như bạn sống đến tuổi bảy mươi- cuộc sống của bạn sẽ trở
nên thánh hóa, đem niềm vui thiêng liêng tinh thần đến cho mọi người.
Bạn có thể trở thành một bậc Thầy.
Đây là tiến tŕnh đúng
đắn. Cho đến tuổi bốn mươi hai mọi việc có vẽ như “okay”, bởi v́ tới
tuổi này mọi việc vẫn c̣n trong ṿng thế tục. Nhưng khi qua khỏi tuổi
bốn mươi hai, đă có một cái ǵ đó trục trặc, bởi v́ khi vượt qua tuổi
bốn mươi hai bạn đă bắt đầu những bước đi vượt ra ngoài thế tục. Thế nên
tất cả những ǵ mà bạn đă liên hệ, tham dự, đầu tư vào đến cái tuổi bốn
mươi hai bỗng trở thành một cái chướng ngại.
Cụ thể như, bạn đă yêu
một người đàn bà, lập gia đ́nh với họ, bây giờ bỗng dưng bạn bắt đầu trở
thành một thiền giả. Người đàn bà dĩ nhiên sẽ chống lại chuyện này v́ họ
lo sợ -điều này cũng đúng thôi. Người đàn bà lo sợ rằng nếu bạn tu thiền
bạn sẽ không c̣n quan tâm đến họ nữa. Cũng đúng thôi. Bây giờ họ sẽ t́m
cách quấy rầy bạn, chống lại bạn, không để cho bạn trở thành một hành
giả (sannyasin). Bà ta sẻ bảo: “Không, không được đâu. Hăy nghĩ đến mẹ
con tôi. Việc ǵ đă xảy đến cho ông? Bộ ông khùng rồi hả? Thế tại sao
ông lại lấy tôi? Rồi sinh con đẻ cái ra rồi bây giờ ông trở thành một
hành giả?”
Đấy là lư do mà tôi nói
rằng bạn không cần phải ĺa bỏ gia đ́nh vợ con để trở thành một hành giả
(sannyasin), bởi v́ hành tŕnh tầm đạo là một hành tŕnh nội tâm.
Bà vợ sẽ tạo ra mọi
chuyện rắc rối và ông chồng cũng thế v́ một sự yêu thích mới đă xảy ra
cho đời bạn mà trước đó chưa hề có. Niềm yêu thích mới này, rất tự nhiên,
sẽ thay đổi hoàn toàn con người bạn; bạn sẽ không c̣n là con người cũ
nữa. Nếu vợ bạn đến với tôi và trở nên thích thú trong việc học đạo, bạn
sẽ rất là bực ḿnh; nếu bạn đến với tôi, vợ bạn cũng sẽ bực ḿnh như thế,
bởi v́ một niềm yêu thích mới đă phát khởi. Làm sao ai mà biết được
chuyện này sẽ dẫn bạn tới đâu? Lo lắng, ghen tức, bảo vệ, chống đối… bản
ngă của bạn bị thương tổn. Bạn đă từng hái ra tiền, bạn đă tạo dựng ra
cả một vương quốc, một đế quốc -bỗng dưng bây giờ ở lứa tuổi bốn mươi
hai bạn lại bỏ tất cả đi tu thiền. Thế là cả cái đế quốc của bạn sẽ nổi
lên chống lại bạn thôi. Ai chịu đựng nỗi một sự đổi thay quá đột ngột
như thế.
Thế nhưng tất cả những
đổi thay đều đột ngột. Trước tuổi bốn mươi hai những thay đổi đều ở
trong phạm vi trần tục nên không hề là vấn nạn. Qua tuổi bốn mươi hai,
những đổi thay vượt cao hơn trần tục, bắt đầu hướng đến Thượng Đế, gần
hơn với Thượng Đế. Bạn đang trên đường trở lại nhà. Một cuộc hồi hương.
Thế giới trần tục này đă kết thúc.
Bạn hỏi: Một triết
gia nói rằng: “Kiến thức là một đức hạnh cho nữa phần đời thứ hai
nhưng là những ǵ chán ngấy cho nữa phần đời thứ nhất.” Kiến thức
luôn luôn là những ǵ chán ngấy, trí tuệ th́ không, trí tuệ là đức hạnh.
Và trí tuệ là đức hạnh suốt cả đời bạn, không bao giờ chán ngấy. Tôi
chưa hề thấy một người nào chán ngấy trí tuệ.
Nếu bạn được dịp gần gũi
với một người trí, bạn không bao giờ chán. Quả t́nh bạn sẽ ngạc nhiên
xiết bao khi thấy chẳng chán ngấy chút nào. Một người trí luôn luôn tươi
tắn và họ truyền cái tươi tắn đó đến bạn. Y rất trẻ trung – y có thể đă
già nhưng tâm hồn rất trẻ. Y tiếp tục mở ra những con đường mới nở hoa.
Y không hề mang theo những bụi bặm của quá khứ, luôn luôn là suối nguồn
tươi mát, như một tấm gương trong. Bạn có thể luôn luôn nh́n vào y để
thấy khuôn mặt ḿnh lớn khôn; bạn có thể luôn luôn t́m đến y như một
chất liệu nuôi dưỡng. Trí tuệ không bao giờ làm cho người ta chán, trí
tuệ là chất liệu nuôi dưỡng.
Thế nhưng kiến thức rất
là buồn tẻ. Nó tạo ra sự chán ngấy ngay lập tức -bởi v́ nó sai lầm, đần
độn, vay mượn, nó là xác chết.
Bạn có trông thấy một
đứa nhỏ đang đùa giỡn chung quanh bạn chưa? Chắc chắn là bạn sẽ không
cảm thấy bưồn tẻ v́ nó. Nó vui đùa, sống động -nhảy nhót, ca hát, chạy
giỡn khắp nơi- làm bạn cũng cảm thấy trẻ trung lây với nó. Thế c̣n bạn
ngồi cạnh một ông già? Có thể ông ta chỉ ngồi yên đó, không làm ǵ cả
hoặc đọc một tờ báo chẳng hạn, nhưng bạn vẫn cảm thấy tẻ nhạt làm sao.
Có thể ông ta không nói ra một lời nào, nhưng sự hiện diện đó cũng đủ là
nặng nề rồi.
Kiến thức là nặng nề;
trí tuệ luôn nhẹ nhàng.
Câu hỏi thứ tư:
Tất
cả những điều mà ngài nói sáng nay đều có cả ở trong Phúc Âm. Thế sao
ngài lại từ khước Chúa Giê Su và Phúc Âm trước mặt chúng tôi, thay v́
nói rằng nó rất là toàn vẹn, nhưng những thông điệp của nó đă bị con
người giết chết? Và như vậy, những ai là người Cơ Đốc nên quay t́m trở
về với nguồn cội của ḿnh, tức Phúc Âm, hoặc nếu ai không phải là Cơ Đốc,
hăy cố gắng đi những bước đầu tiên bằng lối tiếp cận của ngài?
Một người Cơ Đốc đến với
chúng ta!
Nếu bạn hiểu Phúc Âm th́
có lẽ câu hỏi đă không được đặt ra -bởi v́ bất cứ những ǵ tôi nói đều
chứa đựng sẵn trong Phúc Âm, kể cả chối bỏ Phúc Âm. Tất cả những kinh
điển thật sự đều chối bỏ các kinh điển. Tất cả những cuốn sách sống đều
chống đối lại những cuốn sách chết.
Nếu bạn hiểu Phúc Âm câu
hỏi này sẽ không được đặt ra. Bạn không hiểu Phúc Âm của bạn và bạn
không thể nào hiểu được nó -bởi v́ cách thức duy nhất để hiểu Phúc Âm là
hướng vào nội tâm. Phúc Âm không thể được hiểu một cách trực tiếp; bạn
không thể nào cầm lấy Bible đọc và hiểu được nó –điều đó may ra chỉ giúp
bạn được một ít kiến thức nhưng không phải là tuệ giác. Cái kiến thức đó
là những ǵ mà bạn thu thập và đó là lư do tại sao bạn trở thành phiền
hà với nó. Tất cả những điều ǵ mà tôi đă nói, ngay cả nếu thỉnh thoảng
tôi nói những điều chống lại Christ, ngài đều chấp nhận chuyện đó. Không
tin bạn có thể đi thẳng đến Christ để hỏi ngài.
Làm sao mà tôi có thể
chối bỏ được Christ? Làm sao ngài lại có thể chối bỏ tôi? Không hề có
chuyện như thế. Đấy là câu hỏi của một tâm thức khác biệt. Christ không
có liên hệ ǵ đến Cơ Đốc –cũng như Đức Phật không có liên hệ ǵ với Phật
giáo, Krishna không có liên hệ ǵ với Ấn Độ giáo. Những vị này sống
trong một tâm thức hoàn toàn khác biệt và nếu bạn muốn hiểu họ, những
lời họ nói ra chẳng giúp ích ǵ cho bạn cả. Bạn sẽ phải đi vào thế giới
của tâm thức, lúc đó may ra bạn mới hiểu được.
Bạn nghĩ rằng chúng ta
nên t́m về cội nguồn, Phúc Âm. Phúc Âm không hề là cội nguồn; cội nguồn
là ngay chính ở trong bạn. Nếu bạn t́m về cội nguồn ở ngay chính trong
bạn, bạn sẽ hiểu được Phúc Âm, không có một con đường nào khác, không có
chuyện ngược lại. Không hề có chuyện bạn hiểu được Phúc Âm và từ đó bạn
đi trở vào ḷng ḿnh, không bao giờ. Chỉ có một con đường duy nhất là
phải đi vào chỗ thẳm sâu nhất của tâm thức bạn.
Chúa Giê Su đă nói với
chúng ta những ǵ? Ngài phán, “Nước Trời đang ở trong bạn.” Ngài không
nói là nó đang ở trong Phúc Âm. Ngài phán, “Hăy nh́n vào bên trong,
Thượng Đế đang ở cùng với ngươi.” Ngài không nói là, “Hăy nh́n lên trên
thiên đàng,” mà hăy nhớ kỹ là ngài nói “Hăy nh́n vào bên trong.”
Hoàn toàn giống với
những ǵ Thiền đă nói. Chúa Giê Su là một vị Thiền Sư. Khi vị Thiền sư
nói rằng hăy đem đốt hết các kinh điển, đừng lấy đó làm điều bị xúc phạm,
v́ đó là lối nói của Thiền. Đây là một trong những cách
nói chứa đựng nội dung sâu sắc nhất –«Hăy đốt hết các kinh điển.» Tại
sao ? Để cho chiếc cầu nối liền với ngoại giới bị chặt găy và bạn sẽ
không c̣n ǵ ở bên ngoài để t́m kiếm, bám víu. Thế là bạn phải hướng
nội. Và cái ngày mà bạn đạt đến tận cùng tâm thức của bạn -bản lai diện
mục-, bạn sẽ thấy Chúa Giê Su nói đúng như thế nào. Lúc đó bạn trở thành
Phúc Âm.
Bạn
hỏi : Tất cả những ǵ ngài nói trong buổi sáng hôm nay đều có sẵn cả
ở trong Phúc Âm. Vâng, ngay cả điều này cũng vậy -sự chối bỏ cũng
được bao gồm trong Phúc Âm. Sự hoàn toàn chối bỏ Phúc Âm cũng có sẵn ở
trong đó. Tất cả nội dung Chúa Giê Su giảng dạy đều nói rằng Thượng Đế
là một thực chứng. Chúa Giê Su không phải là nhà thần học, Ngài là một
huyền nhiệm. Tuy nhiên một điều thường xảy ra là, khi tất cả những nhà
huyền nhiệm vĩ đại vắng bóng rồi, các nhà thần học lại nhảy bổ vào vẽ
rắn thêm chân.
Tôi có
nghe câu chuyện về nhà danh họa Michelangelo (4). Trong một thánh đường ông vừa hoàn thành xong một bức họa về
Chúa Giê Su. Khi Giáo Hoàng và một số Giám Mục đến tham quan, họ bắt đầu
chỉ trích về bức họa, t́m kiếm những sai lầm trong đó. Michelangelo lặng
yên đứng nghe và cuối cùng Đức Giáo Hoàng phán: «Tốt. Mọi chuyện đều rất
tốt, chỉ có một điều là họa sĩ đă vẽ mặt Chúa quá đỏ. » Michelangelo vội
trả lời: “Thưa Ngài, không phải là tôi đă vẽ mặt Chúa quá đỏ đâu. Chúa
đỏ mặt v́ ngài hổ thẹn bởi qúy vị. Ngài hổ thẹn khi thấy những lời dạy
của Ngài đă rơi vào tay của qúy vị.»
Đó là
điều thường xảy ra. Đó là điều cũng sẽ xảy ra đối với tôi. Hăy cẩn thận.
Tại
sao Ngài lại bác bỏ Giê Su và Phúc Âm trước mặt chúng tôi... ?
Tôi bác bỏ Phúc Âm, tôi bác bỏ Cơ Đốc, và thỉnh thoảng bác bỏ cả Chúa
Giê Su -để tôi có thể mang qúy vị đến với Giê Su. Đến với Giê Su ta phải
kinh qua sự chối bỏ hoàn toàn, nếu không bạn cũng lại chỉ tiếp tục bám
víu vào một cái ǵ đó. Không c̣n ǵ nên để lại ở ngoài bạn –kinh điển,
nhà thờ, hội thánh. Mọi thứ cần phải được hủy diệt để có thể mang con
người bạn trở lại với chính ḿnh –đó là phương pháp của Thiền.
Nhưng mà
tôi thông cảm chuyện này. Khi bạn đang sống trong một loại định kiến nào
đó, nếu bạn là người Ấn Độ giáo, Hồi Giáo hay Cơ Đốc, rất khó khăn để
loại trừ nó. Đó không phải là y phục để lúc nào bạn cũng có thể thay đổi
một cách dễ dàng, nó giống như da thịt của bạn. Đấy là điều rất mực khó
khăn, rất mực đau đớn. Nhưng không đau đớn, không thể trưởng thành được.
Đọc kinh
điển bạn trở thành một loại đồ cũ bởi v́ Thượng Đế của bạn cũng chỉ là
một thứ đồ cũ.
Một bà
bốn mươi chưa chồng được một cậu em ở ngoại quốc gởi biếu một cặp vẹt
nuôi trong một chiếc lồng đôi. Bà ta rất ṭ ṃ muốn biết trong hai con,
con nào là trống, con nào là mái, v́ nó giống hệt như nhau. Bà tham khảo
ư kiến một nhà thú y sĩ.
«Hăy xem
kỹ chúng,» Nhà thú y trả lời, «Trong hai con, con nào nằm trên con kia
là con trống.»
«Tôi
quan sát chúng kỹ lắm, nhưng không hề thấy chúng làm ǵ cả.» Bà ta trả
lời.
«Th́ hăy
đợi đến lúc gần sáng, rón rén ḅ đến gần và nh́n lén chúng th́ biết ngay
mà, biết con nào là trống rồi bà nên làm dấu cho khỏi nhầm. »
Bà ta
làm đúng theo lời chỉ dẫn và bắt quả tang cặp chim đang làm công việc
truyền giống. Cảm thấy kinh hoàng, bà ta tóm cổ con trống và quấn quanh
cổ nó một cái giải màu trắng.
Sáng Chủ
nhật hôm sau vị Cha sở đến nhà thăm dùng trà. Khi ông cỡi chiếc áo khoác
bên ngoài, con vẹt trống tưởng là gặp người đồng hội đồng thuyền, la
lên : « Hêlo. Thế là Cha bị bắt quả tang đang làm chuyện ấy với phụ nữ
rồi, phải không?» (5)
Tất cả
những kiến thức vay mượn đều giống như thế.
Đừng
mang theo bạn một Thượng Đế cũ mèm. Thượng Đế sẽ không bao giờ hạnh phúc
với bạn. Đừng trở nên một bản sao của tờ giấy ‘các-bon’. Thượng Đế yêu
những ǵ nguyên thủy bởi v́ Thượng Đế là một nguyên thủy vô cùng. Thượng
Đế không hề muốn có một Giê Su thứ hai, bởi v́ nếu không ngài đă sáng
tạo ra một người khác. Thượng Đế không hề muốn có nhiều hơn một vị Phật
v́ nếu không ngài đă làm điều này. Ngài chỉ sáng tạo ra một vị Phật một
lần duy nhất, không bao giờ lặp lại.
Thế nên
nếu bạn muốn đến với Thượng Đế, hăy là ḿnh trước tiên. Không nên là một
người Cơ Đốc, người Ấn Độ giáo, người Hồi giáo. Nên là chính ḿnh, một
hiện thể chân thực, trong cái hiện thể mà bạn sẽ biết Chúa Giê Su là cái
ǵ, Đức Phật là cái ǵ, Thượng Đế là cái ǵ.
Câu hỏi
cuối cùng :
Càng
ngày tôi càng cảm thấy chán ngán t́nh dục, điều này làm cho tôi băn
khoăn. Có vẻ như tôi không c̣n tha thiết ǵ nữa, ngay cả với đời sống.
Như vậy đâu có ǵ c̣n lại ngoài cái chết ? Tôi nên làm ǵ bây giờ ?
Bạn hỏi
nhầm người rồi. Lẽ ra bạn nên t́m gặp những người được gọi là đại thánh
giả. Bạn có thể đọc sách của Đại thánh giả Gandhi hay của Swami
Sivananda (6) –may ra chúng giúp ích phần
nào cho bạn. Tác dụng của chúng giống như là những loại thuốc kích dục.
Đây là
một vài đề nghị : Đừng xem Playboy, đừng đi coi phim, đừng nh́n đàn bà
nữa. Khi bước đi hăy theo đúng quy luật Phật dạy: chỉ nh́n mặt đất phía
trước chừng bốn feet. Nếu gặp đàn bà, hăy t́m cách chạy trốn. Thế là bạn
sớm hết chán ngán t́nh dục ngay ! Các nàng thiên nữ khỏa thân apsaras
lại bắt đầu chạy đi kiếm bạn thôi !
Câu hỏi
này chắc chắn là do một người Tây phương nêu ra, nó không thể là của một
người Ấn. Người Ấn không bao giờ thấy chán chuyện này, khó lắm. Họ có
rất nhiều vị đại thánh giả. Khi người Ấn đến với tôi, câu hỏi thông
thường của họ là làm sao loại trừ được t́nh dục. Khi người Ấn Độ giáo
đến với tôi, điều lo lắng của họ là làm sao loại bỏ được t́nh dục.
Câu hỏi
này chắc chắn là của một người Mỹ. Vâng, tại Mỹ t́nh dục sẽ không có chỗ
đứng trong tương lai, nó coi như chấm dứt. Nếu không bây giờ th́ trong
ṿng hai mươi năm nữa nó sẽ hoàn toàn chấm dứt. Một khi t́nh dục được
chấp nhận một cách công khai, nó sẽ trở thành buồn tẻ. Một sự lập đi lập
lại nhàm chán; một bổn cũ soạn lại như cơm nếp nát. Một khi t́nh dục sẵn
sàng trong tầm tay, bạn đâu c̣n những tưởng tượng phong phú về nó nữa.
Đến khi nó thừa thải quá, ngày qua ngày bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên tự
hỏi, ḿnh đang làm cái ǵ đây, cái tṛ nhảm nhí vô nghĩa này là cái ǵ
vậy? Không chừng bạn lại bắt đầu quẩn trí trước câu hỏi, Bạn đang làm
cái ǵ vậy? Kỳ thực nếu bạn thật sự muốn giữ cho t́nh dục măi măi xanh
tươi, trẻ trung, không có con đường nào khác ngoài sự ức chế.
Trong
tất cả mọi thời đă qua, Đông cũng như Tây, t́nh dục không bao giờ là
điều nhàm chán, bởi v́ các tôn giáo đă “lo lắng” cho nó rất chu đáo.
Thông qua những thuyết giảng ngăn cấm, chống lại t́nh dục họ đă làm cho
t́nh dục trở nên sống động.
Con
người trong thời đại hậu-Freud một ngày nào đó sẽ cảm thấy t́nh dục là
một chuyện buồn tẻ. Đúng như thế. Đó là một chuyện rất máy móc thôi. Tất
cả những ǵ mà bạn nh́n thấy ở trong đó đều thông qua lăng kính của sự
ức chế. Nó không phải sự thực như thế.
Chẳng
khác ǵ một người đang nhịn đói -đồ ăn sẽ trở thành mối ám ảnh lớn trong
trí tưởng khi bạn nhịn đói. Nếu bạn đang nhịn đói và đi vào chợ, bạn sẽ
không nh́n thấy bất cứ cái ǵ khác ngoài cửa hàng thực phẩm, quán ăn,
khách sạn. Bạn sẽ không trông thấy những cái ǵ khác hơn. Dĩ nhiên là có
cả hàng ngàn vạn thứ đang bầy bán, nhưng nh́n đi đâu bạn cũng sẽ chỉ
thấy đồ ăn, nó nổi lên bồng bềnh trước mắt bạn.
Heinrich
Heine đă kể lại rằng có lần ông bị lạc ở trong rừng. Suốt ba ngày vẫn
không t́m được lối ra, ông rất đói. Đó là một dêm trăng tṛn. Heine là
một nhà thơ lớn và trăng là một đề tài mà ông mê đắm nhất. Ông đă luôn
luôn so sánh trăng với người t́nh yêu dấu tuyệt vời của ḿnh.
Thế
nhưng cái đêm hôm ấy đă làm cho ông ngạc nhiên –ông không nh́n thấy
trăng đâu cả mà chỉ là một khúc bánh ḿ màu trắng nằm lơ lửng trên bầu
trời. H́nh ảnh người đàn bà xinh đẹp biến đi đâu mất. Ông dụi đôi mắt
ḿnh. Cái ǵ đang xảy ra thế này? Ḿnh khùng lên rồi chắc? Dĩ nhiên
không hề có chuyện ǵ xảy ra cả. Cũng giống như khi bạn nh́n thấy h́nh
ảnh một người đàn bà đẹp trong mặt trăng, thế thôi, chỉ là sự phóng
chiếu. Khi bạn đang nhịn đói, đồ ăn cũng là sự phóng chiếu.
Trong
quá khứ, những con người được gọi là tín ngưỡng “săn sóc” t́nh dục quá
kỹ thế nên trong những thời đại trước đây người ta rất thích thú về
chuyện này. Tất cả các kinh điển đều chống lại nó, tất cả các nhà tu đều
chống lại nó, tất cả các ông Giáo hoàng đều chống lại nó. Họ đă làm cho
t́nh dục trở nên sống động. Bây giờ th́ điều đó rất khó khăn.
Nhưng mà
bạn đă nêu câu hỏi lầm người rồi.
Hăy lắng
nghe một vài câu chuyện vui vậy.
Một cậu
bé mười hai dẫn một cô bé lên mười, con gái của người hàng xóm, đến gặp
cha ḿnh.
“Bố ạ”,
cậu bé nói, “Tụi con muốn thành hôn với nhau.”
“Ừa,
mười năm nửa, con.”
“Không,
con muốn ngay bây giờ, bố!”
“Thế th́
con làm ǵ để sống nào?”
“Tụi con
biết cách quản lư số tiền tụi con có trong túi mà.”
Ông bố
đùa: “Thế ngộ nhỡ tụi con có em bé th́ sao?”
“Ồ, chưa
có chuyện ǵ xảy ra cả mà, bố.”
Như thế
đó, từ tuổi lên mười, có khi c̣n sớm hơn, bạn đă bắt đầu rồi, như thế
bạn giữ cho nó khỏi nhàm chán được bao lâu? Rồi th́ tất cả mọi thứ
chuyện đều có đủ ở Mỹ -Dục kinh Kamasutras của Vatsyayana
(7) với h́nh ảnh đủ kiểu làm t́nh, những
sách với h́nh ảnh của Khajuraho, Konarak, và Puri và hàng ngàn lẻ một
phương pháp tạo ra h́nh ảnh những thân xác đẹp đẽ gợi cảm –ít nhất là
đẹp đẽ qua trí tưởng- bằng kỹ thuật chụp h́nh, kỹ thuật ghép h́nh. Rồi
tranh lơa thể khiêu dâm góp phần quan trọng vào việc giết chết những ham
muốn dục t́nh. Hefner cũng là một kẻ thù của ham muốn t́nh dục, và rồi
Playboy cùng với bao nhiêu những tạp chí khai thác thân xác đàn bà khác
đang giết chết, hủy diệt ḷng khao khát này. Chưa kể đến đủ mọi h́nh
thức luyến ái: đối tính, đồng tính, lưỡng tính và hàng ngàn lẽ một
phương pháp làm t́nh khác.
Khi đọc
cuốn Dục kinh Kamasutras của Vatsyayana -một công tŕnh lớn- tôi cứ có
cái cảm giác rằng Ấn Độ dưới thời Vatsyayana chắc chắn cũng đang có cùng
một tâm cảnh như Mỹ quốc bây giờ. Con người sống chắc là buồn tẻ lắm,
nếu không tại sao lại có người sáng tạo ra đủ kiểu làm t́nh? Tại sao?
Một kiểu cũng là đủ quá rồi thế mà Vatsyayana lại cứ tiếp tục phát minh
ra những kiểu mới. Th́ đă hẵn như vậy -buồn tẻ quá mới bày ra những tṛ
mới. Cái phát minh này không cho thấy điều ǵ khác hơn là sự chán
chường. Vatsyayana chắc là đang t́m cách giúp đỡ con người thời đại ḿnh
–ông hẵn là một nhà minh triết, một trí giả. Ông hẵn đă trông thấy cái
bất hạnh của họ. Họ đang sống một cách chán chường, thế nên phải làm một
cái ǵ đó cho họ.
Bất cứ lúc nào một nền
văn hoá trở nên quá phóng túng về t́nh dục nó sẽ trở thành buồn chán. Ấn
Độ một thời đă rất tự do -một trong những quốc gia tự do nhất trên thế
giới. Khi có tự do, bạn không bị ức chế. Khi bạn không bị ức chế, sự
buồn chán phát khởi. Thế là bao nhiêu kiểu cách được bày ra –t́m cách
thỏa măn những khoái lạc cũ rích bằng những tṛ chơi mới. Khi bạn cảm
thấy buồn tẻ th́ lại t́m cách khác để giải khuây. Giao hoan tập thể trở
nên thịnh hành –c̣n để lại những dấu ấn trong các đền đài Khajuraho. Khi
người ta chán cái mối liên hệ một chồng một vợ, người ta bắt đầu luyến
ái tập thể. Chuyện đổi vợ cho nhau trở thành một cái mốt thịnh hành.
Đây là tất cả những dấu
hiệu cho thấy t́nh dục đang chết, đang chết v́ có quá nhiều tự do.
Một anh híp-py trẻ tuổi
bị cảnh sát bắt về tội rao bán h́nh lơa thể khiêu dâm.
“Ông bắt lầm người rồi!
Những bức h́nh này có ǵ là dơ dáy đâu!” Chàng híp-py phản đối.
Người cảnh sát lựa ra và
xem kỹ một số h́nh lơa thể đàn ông lẫn đàn bà, “Bây giờ th́ anh không
thể nói rằng những bức h́nh này là không dơ dáy!”
“Trời đất!” chàng híp-py
nhún vai, “Bộ ông từ trước đến giờ chưa hề trông thấy năm người đang làm
t́nh sao?”
Những câu chuyện đại
loại như thế đă trở nên thông thường. Đây là những dấu hiệu của sự buồn
chán.
Tuy nhiên tôi muốn lập
lại một lần nữa, bạn đă gỏ cửa nhầm người, bởi v́ tôi rất vui khi thấy
bạn đang nhàm chán. Tất cả những nỗ lực của tôi ở đây là làm cho các bạn
trở nên chán ngán t́nh dục. Bởi v́ chỉ khi nào bạn chán ngán t́nh dục,
bạn mới quay trở về lại với Thượng Đế, và không hề có chuyện ngược lại.
Một người bị ẩn ức sinh lư sẽ vẫn c̣n quan tâm đến t́nh dục măi, đó là
lư do tại sao tôi chống lại sự ức chế. Có thể bạn sẽ ngạc nhiên nhưng đó
là lô-gíc của tôi, sự tính toán của tôi. Một người bị ức chế sinh lư sẽ
vẫn c̣n quan tâm đến t́nh dục, vẫn bị ám ảnh bởi t́nh dục,
thế nên tôi nói rằng bạn cứ việc thanh thoả với
t́nh dục đi và rồi ngay sau đó bạn sẽ chán, chuyện đó sẽ chấm dứt.
Và khi bạn đă thanh thoả xong với nó, t́nh dục mất tất cả ư nghĩa của nó
rồi, th́ đó chính là ngày trọng đại, khoảnh khắc lớn lao nhất trong đời
bạn. Lúc đó bạn trở nên quan tâm đến Thượng Đế, điều mà chưa bao giờ xảy
ra trước đây.
Chỉ có một kẻ chán
chường –nhàm chán t́nh dục- mới có thể trở thành một người độc thân thực
sự. Một vị phạm hạnh –brahmacharya-, một con người phạm hạnh thật
sự xuất hiện –vượt ra từ nỗi chán chường. Thế nên nếu bạn chưa đủ chán,
con người phạm hạnh của bạn vẫn c̣n bị ức chế, và tôi không tán thành
bất cứ sự ức chế nào, bởi v́ sự ức chế làm cho con người vẫn c̣n say đắm
măi với t́nh dục.
Người ta nghĩ là tôi
đang rao giảng về t́nh dục. Không phải vậy, tôi là một trong những người
rao giảng Thượng Đế. Nếu tôi có nói những chuyện liên quan đến t́nh dục,
dĩ nhiên là phải có lư do –mà cái lư do chính là tôi muốn rằng bạn phải
hiểu biết về nó trước khi quá trễ. Hiểu biết về nó, hiểu biết một cách
hoàn toàn, trực diện với nó và kết thúc với nó. Bạn phải đi vào t́nh dục
trong suy niệm, trong cảnh báo, tỉnh thức –đó là cách thức tiếp cận của
mật tông, đó là phong thái của mật tông. Thể nhập vào đó và chứng nghiệm.
Một khi bạn hiểu biết cặn kẽ một cái ǵ đó, có nghĩa là bạn được hoàn
toàn tự do không c̣n vướng bận đến nó nữa. Từ kiến thức, đến hiểu biết,
rồi giải phóng.
Đối với tôi, tâm của bạn
ở trong một trạng thái khá tốt, không có ǵ để phải lo lắng. Rất tốt là
đàng khác, bạn là người may mắn. T́nh dục đă kết thúc. Bây giờ đừng có
chạy đến t́m bất cứ vị đại thánh giả nào nữa nhé, làm như vậy không
chừng nó sẽ bắt đầu trở lại đấy. Đây chính là khoảnh khắc mà bạn có thể
giúp cho năng lượng của ḿnh hướng đến Thượng Đế mà không bị bất cứ
chướng ngại, trở lực nào. Bây giờ bạn hoàn toàn không bị một cản trở nào.
Đây chính là lúc năng
lượng của t́nh dục được chuyển hoá thành tam muội. Một khi năng lượng
t́nh dục được giải phóng ra khỏi những đối tượng dục t́nh nó bắt đầu
chuyển hướng vào thiền quán, nó trở thành lời kinh cầu nguyện. Vâng,
Chúa Giê Su đă rất đúng khi nói rằng Thượng Đế là yêu thương. Chính năng
lượng t́nh yêu của bạn đă nở hoa cùng Thượng Đế. Một khi nó được giải
phóng ra khỏi người nam và người nữ, một khi bạn không c̣n cảm thấy yêu
thích người khác phái, th́ cái năng lượng của bạn sẽ đi về đâu? Nó sẽ
bắt đầu hướng nội. Chuyện nam nữ đă được bỏ ra ngoài. Một khi bạn c̣n
yêu thích người khác phái có nghĩa là bạn vẫn c̣n lưu ư đến kẻ khác.
Nhưng một khi t́nh dục không c̣n, một khi bạn chấm dứt với kẻ khác, cũng
là lúc đối mắt bạn bắt đầu nhắm lại. Bạn trở nên vắng lặng một cách an
nhiên tự tại.
Dĩ nhiên là tôi hiểu mối
băn khoăn của bạn -mối băn khoăn của người Mỹ. Bạn luôn luôn nghĩ đời
sống chỉ là t́nh dục. Bây giờ hết t́nh dục đời sống đâu c̣n lại ǵ ngoài
cái chết? Tôi muốn thưa với bạn rằng ta vẫn c̣n lại Thượng Đế. Khi t́nh
dục chấm dứt, Thượng Đế bắt đầu. Không có ǵ để phải lo lắng, không có
ǵ để phải băn khoăn, không có ǵ để phải đau khổ, phiền năo. Hăy thư
giản trong trạng thái này. Và đừng để lỡ mất cơ hội hiếm có này, bởi v́
sẽ có cơ may là bạn lại rơi vào ṿng tay của ai đó và y lại tạo ra những
khát vọng dục t́nh ở bạn. Hăy lợi dụng cơ hội này để thiền quán; đây là
cơ hội ngàn năm một thuở. Cánh cửa đă hé mở, hăy nh́n vào bên trong.
Vâng, đây cũng là cánh
cửa mà thần chết bước vào, và hành giả cũng đi vào bằng cánh cửa đó.
Bằng cánh cửa này thần chết đến với ta và Thượng Đế cũng thế. Thượng Đế
đă cho bạn cơ hội. Đừng để lỡ mất.
CHÚ THÍCH:
(1)
August Rodin (1840-1917): Nhà điêu khắc nổi tiếng người Pháp với
hai bức tượng “Người Tư Duy –La Penseur” và “Nụ hôn –La Baiser” được xem
như là hai công tŕnh điêu khắc tiêu biểu của truyền thông nghệ thuật
Tây phương. Bảo tang viện Rodin tại Paris, Pháp hiện trưng bày khá đầy
đủ tất cả các công tŕnh nghệ thuật của ông.
(2)
Shankara (788-820): Adi Shankara là triết gia nổi tiếng của
truyền thống Vệ Đà, Ấn Độ giáo. Tuy có một cuộc sống khá ngắn ngủi,
nhưng ông đă đi bộ khắp cả lănh thổ Ấn Độ để rao giảng và tạo nên một
sức sống mới cho kinh Vệ Đà, đặc biệt là lư thuyết bất nhị, lúc này đang
bị lu mờ trước ảnh hưởng của Phật giáo. Ông cho rằng nguyên nhân của vô
minh là do chấp ngă, trong khi thực sự bản ngă không hề hiện hữu. Chân
lư rốt ráo theo ông là đấng Phạm thiên –Brahman, vượt ra ngoài thời gian,
không gian và nguyên nhân. Ông phủ nhận triết học Tánh Không của Phật
giáo đồng thời chối bỏ sự phân chia giai cấp và các nghi lễ vô nghĩa và
cho đó là sự xuẩn động.
(3)
Socrates (470-399 BC): Triết gia Hy Lạp, một trong những khuôn
mặt hàng đầu của nền triết học Tây phương và được coi như là cha đẻ của
bộ môn đạo đức học. Ông sống trong buổi giao thời giữa hai giai đoạn
hưng thịnh và suy tàn của đế quốc Athenian, sau khi bị Sparta đánh bại.
Cố gắng để hồi phục sau trận thảm bại này, do sự xúi bẩy của ba khuôn
mặt lănh đạo đương thời, công chúng đă đưa ông ra xử về các tội ngịch
đạo và làm hư hỏng giới trẻ. Ông bị kết án tử h́nh bằng cách uống thuốc
độc.
(4)
Michelangelo (1475-1564): Tên thật là Michelangelo di Lodovico
Buonarroti Simoni, sinh quán tại Tuscany, Ư Đại Lợi. Ông là một nhà danh
hoạ lừng lẫy của thời Phục Hưng, với các bức họa nổi tiếng bậc nhất
trong truyền thống nghệ thuật Tây phương, cụ thể như bức “Ngày Phán Xét
Cuối Cùng – the Last Judgment” và các bức bích họa trên trần các thánh
đường danh tiếng tại La Mă. Ông cũng là một nhà thơ, nhà điêu khắc và
kiến trúc sư tài hoa.
(5)
Các vị linh mục Thiên chúa giáo thường mang một cái cổ cồn trắng
quanh cổ.
(6)
Swami Sivananda (1887-1963): Sinh quán tại Ấn Độ, Swami Sivananda
Sarawati là một nhà du già và là một đạo sư. Tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ,
thoạt tiên ông làm việc tại Mandalay, sau đó tu theo pháp khổ hạnh và
giúp đỡ các người đau yếu. Năm 1936 ông thành lập một phong trào tôn
giáo mới lấy tên là “Divine Life Society” và năm 1945 sáng lập tổ chức
“All-world Religions Federation”.
(7)
Vatsyayana : Người sáng tác bộ Dục Kinh –Vatsyayana kama sutra,
phỏng đoán là sống trong khoảng thế kỷ thứ nhất đến thứ sáu. Đây là bộ
kinh cổ nhất của Ấn Độ liên quan đến t́nh dục, gồm 35 chương, chứa đựng
64 tư thế làm t́nh -khoảng 20% cuốn sách, phần c̣n lại là những kim chỉ
nam để trở thành một người công dân tốt và những cái nh́n thấu đáo về
mối liên hệ nam nữ.
[MUCLUC] [LGT]
CH1] [CH2]
[CH3] [CH4]
[CH5]
[CH.6] [CH7] [CH8]
CH9]
[CH10] [SACH]
[HOME]
|