Găi Ngứa Ngoài
Giày.
Vị thiền sư lên toà giảng pháp
trước đám đông t́m cầu giác ngộ,
Ông chỉ nói một câu ngắn gọn:
“Ha! Ha! Ha! Cái ǵ thế này?
Về hậu liêu và uống trà đi.”
Xong bước xuống, ông ta bỏ đi.
Điều duy nhất mà ta có thể nói về cái rốt ráo, đó là, không có
ǵ để có thể nói về nó cả. Như vậy cũng là đă quá nhiều; như
vậy cũng đă quá nhiều khi phải dùng ngôn từ để diễn đạt. Đó là
lư do tại sao những kinh điển vĩ đại đều vô cùng tiêu cực –chúng
không hề nói đến Thượng Đế là ǵ, chỉ tŕnh bày những ǵ đó
không phải là Thượng Đế. Với cách nói này, họ không hề đả động
bất cứ cái ǵ về Thượng Đế mà chỉ đơn giản cho biết cái ǵ đó
không phải là Thượng Đế. Và khi hiểu ra được điều này, lần hồi
đôi mắt của bạn sẽ hướng về Thượng Đế. Bởi v́ một khi bạn nhận
ra được cái hư vọng là hư vọng, không sớm th́ muộn rồi bạn
cũng sẽ rơi tỏm vào chân lư. Biết rơ được cái hư vọng là hư
vọng cũng có nghĩa là nắm bắt được chân lư.
Đức Phật, Mahavira, Krihna, Chúa Giêsu –không có ai nói bất cứ
điều ǵ về chân lư. Họ chỉ nói về những ǵ không phải là chân
lư -họ chỉ ra những hư ngụy, họ cho bạn làm quen với hư ngụy.
Nếu sự quen biết này ăn sâu vào tâm, không sớm th́ muộn rồi
bạn sẽ có thể nhận ra chân lư. Bóng tối có thể được diễn đạt
bằng ngôn ngữ nhưng ánh sáng th́ không. Hận thù có thể diễn
đạt thông qua ngôn ngữ, nhưng thương yêu th́ không.
Có khi nào bạn để ư quan sát đời sống của chính ḿnh không?
Khi bạn đang trong cơn giận điên người, ngôn ngữ như rất mực
sẵn sàng. Khi bạn ch́m trong cơn giận dữ, ngôn ngữ như tuôn
trào ra bất tận. Người ta ăn nói, chữi bới rất mực sống động
khi họ giận dữ, phẫn nộ -mọi người đều trở thành một nhà ăn
nói khi họ lên cơn giận. Lúc đó th́ họ không cần phải chộp bắt
ngôn ngữ nữa, chúng tự động ùa tới. Lúc đó th́ tất cả những e
thẹn nhút nhát cũng biến mất. Thế nhưng khi bạn đang yêu, ngôn
ngữ hầu như có vẻ bất lực. Ngay cả câu nói “Anh yêu em –Em yêu
anh” cũng nghe rất xu nịnh, ốm đau, không chút nào sinh khí.
Cái sai có thể diễn đạt bằng ngôn ngữ nhưng cái đúng th́ không.
Đó là lư do tại sao Lăo Tử đă nói rằng: Đạo khả đạo phi
thường đạo. Bởi v́ cái ǵ có thể nói ra hay đă được nói ra
đều trở nên hư ngụy. Đạo không thể được nói ra. Đạo chỉ có thể
hiện bày mà không thể được nói ra. Ngón tay chỉ mặt trăng –ngón
tay không bảo rằng mặt trăng là cái ǵ, nó chỉ có thể chỉ cho
thấy; nó chỉ hướng cái tầm nh́n của bạn về phía mặt trăng.
Đừng để bị vướng mắc vào cái ngón tay –đó là chuyện đang xảy
ra. Và đây là một trong những cuộc cách mạng mà Thiền mang đến
cho thế gian này. Thiền đốt luôn những kinh điển –đó là cách
để giúp bạn không c̣n bám víu vào những ngón tay.
Nếu tôi muốn cho bạn nh́n thấy mặt trăng và chỉ nó bằng ngón
tay của tôi, đừng có để bị vướng mắc vào cái ngón tay này –ngón
tay của tôi không phải là mặt trăng. Và nếu bạn cứ măi bị ám
ảnh quá mức bởi cái ngón tay, bạn sẽ không c̣n nh́n thấy mặt
trăng nữa. Muốn nh́n thấy nó, bạn phải quên đi cái ngón tay
này, bạn phải hoàn toàn buông bỏ nó. Lúc đó bạn mới để ư đến
cái hướng chỉ và nh́n theo hướng này -chỉ với như vậy th́ cái
ngón tay mới được quên đi. Cái ngón tay chẳng là ǵ cả. Nó có
thể rất xinh xắn dễ thương ở trên bàn tay của một nhà nghệ sĩ
lớn. Nó cũng có thể cục mịch, ốm đau, khoẻ mạnh, đen hay trắng,
đàn ông hay đàn bà –không thành vấn đề.
Những phẩm chất của ngón tay không hề được đặt ra; bất kỳ ngón
tay nào cũng có thể chỉ vào mặt trăng cả. Thế nhưng người ta
cứ măi bám chặt vào những ngón tay. Người Kỳ Na Giáo đang bám
vào ngón tay của Mahavir -họ măi thờ lạy cái ngón tay đó mà
quên đi cái mặt trăng. Người Phật tử th́ cũng đang thờ lạy cái
ngón tay của Đức Phật.
Đúng như vậy, không phải là chuyện ngẫu nhiên mà có một ngôi
chùa ở Nhật Bản người ta không thờ tôn tượng Phật mà chỉ thờ
một ngón tay, một ngón tay bằng đá cẩm thạch, đang chỉ về một
hướng vô định nào đó. Những ai xây dựng ngôi chùa này hẵn phải
là có nhận thức sâu sắc; thế nhưng người ta đâu có hiểu ư
nghĩa -người ta đang thờ lạy cái ngón tay này. Họ mang hương
hoa đến đó và quỳ lạy. Chẳng ai buồn để ư đến cái ngón tay
đang chỉ về hướng nào.
Những người Cơ Đốc cũng đang ôm chặt một cái ngón tay khác. Và
rồi họ cứ tiếp tục tranh căi với nhau –“Ngón tay của ai là đẹp
nhất? Chúa Giêsu là người vĩ đại nhất? Hay là Ông Phật? Hay là
Krishna, Mohammed?” Các bạn đang tranh căi chuyện ǵ thế? Tất
cả đều vô nghĩa! Bạn đang bàn luận về những ngón tay, mà những
ngón tay này th́ chẳng hề dính dáng liên hệ ǵ đến chủ đề cả.
Bất cứ ngón tay nào cũng có thể chỉ về hướng mặt trăng. Và tất
cả những ngón tay chỉ về hướng mặt trăng đều giống nhau -giống
nhau ở chỗ cùng chỉ về hướng mặt trăng, những chuyện phụ thuộc
khác đều vô nghĩa.
Đức Phật nói một loại ngôn ngữ, Chúa Giêsu nói một thứ ngôn
ngữ khác, và rồi Mahommed cũng thế. Chuyện đó không thành vấn
đề. Đối với người có nhận thức, chỉ cần cái hướng là đủ rồi.
Con người của nhận thức sẽ đi về hướng mặt trăng và quên đi
tất cả mọi ngón tay. Và cái khoảnh khắc khi bạn đi về hướng
mặt trăng, bỗng nhiên bạn nhận ra rằng tất cả mọi ngón tay đều
chỉ về cùng một hướng.
Và như thế Thiền là một ngón tay đưa lên chỉ về hướng mặt
trăng trong yên lặng. Đó cũng là cách thế căn bản của tất cả
mọi tôn giáo. Tại sao ngôn ngữ lại bất lực như thế? Tại sao
đạo lại không thể được nói bằng lời? Một vài điều cần phải
được nhận thức trước khi chúng ta đi vào giai thoại sau đây.
Một cách đơn giản, ngôn ngữ không tải được đạo –do một vài lư
do ở ngay tự cấu trúc của nó. Trước tiên, ngôn ngữ là vật dụng
thiết thực cần đến. Cũng tốt thôi, cho đến khi nào chúng ta
c̣n sống trong cái thế giới của tiện dụng này. Bạn đi vào chợ
để mua sắm cái ǵ đó, bạn cần đến ngôn ngữ -nó làm cho mọi
chuyện trở nên dễ dàng hơn. Ngôn ngữ như một thứ dầu nhớt, nó
giúp vào công việc truyền thông của con người –nhưng chỉ trong
thế giới của tiện dụng.
Cái khoảnh khắc mà bạn khởi sự đi vào hiện hữu… Hiện hữu không
hề có vật dụng thiết thực, nó không phải là một cái ǵ đó để
bạn có thể bán buôn. Hiện hữu là phi-dụng, là không có mục
tiêu để vươn tới. Hiện hữu phải được quan sát bằng sự lặng yên
tuyệt đối trong mắt bạn.
Nếu bạn đi vào chợ và hoàn toàn câm nín, lặng yên, th́ sẽ là
một sự phiền hà cho bạn lẫn người khác. Nếu bạn vào văn pḥng
cảnh sát và người ta hỏi bạn, “Ông tên ǵ?” và bạn ứng xử theo
một phong cách rất Thiền, người ta sẽ nghĩ rằng bạn là kẻ mát
giây, điên khùng, hay láu cá không chừng. Ở đó người ta không
hiểu được sự im lặng của bạn. Nếu bạn đi vào một cửa hàng rồi
cứ đứng ngây ra đó, người bán hàng chắc chắn sẽ không thể nào
hiểu được bạn muốn ǵ.
Trong sinh hoạt đời thường, người ta cần đến ngôn ngữ -ngôn
ngữ được phát minh ra cho cái thế giới phàm phu này, cho những
sinh hoạt thường nhật này. Thế nhưng ngôn ngữ không dành cho
cái thế giới vĩnh cửu. Ở đó không có bất cứ cái ǵ để bạn mua
sắm. Ở đó bạn không tṛ chuyện với bất cứ ai mà chỉ hiệp thông
với hiện hữu. Không có nhu cầu để nói chuyện, lời nói không
c̣n cần thiết một chút nào. Đây là điểm cơ bản đầu tiên cần
phải hiểu rơ: ngôn ngữ có một vài tiện dụng và bởi v́ những
tiện dụng đó, nó có những mặt hạn chế.
Hiện hữu không thể nào hiểu được ngôn ngữ của bạn. Ngôn ngữ
thuộc về nhân sinh, hiện hữu th́ bao quát, trải rộng hơn –nó
không hề bị cầm tù trong nhân sinh.
Mới đêm hôm kia, tôi đang đọc môt cuốn sách của nhà hiện sinh
Nga, Nikolai Berdyaev. Là một triết gia hiện sinh, ông ta có
quan điểm rất gần gũi với Thiền -chỉ gần thôi chứ chưa nhập
vào một cách rốt ráo. Ông ta bảo rằng ngày xưa những thánh
nhân thường cho rằng tri thức là một cái ǵ đó rất mực thần
thánh, thiêng liêng. Ông ta cảm thấy như thế là chưa đầy đủ,
bởi v́ tri thức, để có hiểu biết về rốt ráo và tổng thể, cũng
phải thuộc về con người nữa. Bằng không con người nên được
loại ra khỏi phạm trù này. Thế nên làm sao mà tri thức chỉ có
thể là thần thánh được? Nó phải là vừa thần thánh lẫn con
người –con người nên được dự phần trong đó.
Đúng như vậy -tuy nhiên ông ta đă dừng lại ở đây. Tại sao lại
không kể thêm súc vật, cây cỏ, khoáng chất? Chúng cũng đang
hiện hữu, chúng không thể bị bỏ ra ngoài. Berdyaev cho rằng
tri thức, một cách toàn bộ, phải nên là thần thánh lẫn con
người. Tôi th́ cho rằng phải là khoáng chất, thực vật, động
vật, con người, thần thánh -cộng vào. Nếu c̣n thiếu cái
ǵ đó, nó cũng phải được liệt kê vào trong đó.
Thế nhưng ngôn ngữ thuộc về con người. Không có loài vật nào
hiểu được ngôn ngữ của bạn, cây cối cũng chẳng thèm quan tâm
đến ngôn ngữ của bạn, sỏi đá cũng sẽ chẳng bao giờ lắng nghe
ngôn ngữ của bạn –và cũng không hề hiểu. Mà ngay cả tất cả
nhân loại cũng không hề nói chung một loại ngôn ngữ -có đến
hàng ngàn ngôn ngữ trên cái hành tinh bé nhỏ này. Như thế ngôn
ngữ là sản phẩm do con người tạo ra, nó rất mực cục bộ. C̣n
hiện hữu th́ rất là to lớn, bao la; chúng ta chỉ là những phần
tử bé nhỏ ở trong đó. Cái quả đất này đây, chỉ là một hành
tinh bé nhỏ. Cực kỳ nhỏ bé. Ngay cả cái mặt trời của chúng ta
cũng chỉ là một ngôi sao nhỏ nhoi. C̣n không biết bao nhiêu
những mặt trời lớn hơn hiện hữu. Bao quanh ta là vũ trụ vô tận;
chúng ta không nên mang tinh thần địa phương.
Đó chính là điều mà Thiền cho rằng ngôn ngữ không diễn tả được
chân lư. Ngôn ngữ rất mực cục bộ, địa phương -chỉ là một phát
minh của nhân loại. Nếu nhân loại biến mất, tất cả ngôn ngữ
cũng sẽ biến mất. Hiện hữu vẫn tiếp tục. Hiện hữu đă ở đó
trước khi con người có mặt, hiện hữu cũng sẽ ở đó nếu chiến
tranh thế giới thứ ba xảy ra và con người biến mất. Cây cỏ sẽ
vẫn tiếp tục đơm bông, mùa xuân sẽ vẫn đến đúng hẹn, hoa vẫn
sẽ nở và chim chóc vẫn hát ca. Vẫn c̣n đó những đêm trăng, mặt
trời vẫn mọc vào buổi sáng. Không có ai sẽ cảm thấy thiếu vắng
bạn cả, hăy nhớ như vậy; mọi chuyện rồi sẽ vẫn đâu vào đấy.
Con người rất mực bé nhỏ…
Thế nhưng bởi v́ chúng ta sống trong thế giới loài người,
chúng ta sống với con người, chúng ta bắt đầu cho rằng con
người là tất cả. Ngôn ngữ v́ thế trở nên rất mực quan trọng.
Bạn có thể thấy rơ điều này. Có bao giờ bạn thấy những bức
tranh Thiền chưa? -bạn sẽ thấy điều đó trong những bức tranh
này. Khi người ta xem một bức tranh Thiền người ta luôn luôn
ngạc nhiên và một chút ǵ bất ổn, bởi v́ người ta không thể
nh́n thấy cái trọng tâm của bức tranh. Nếu bạn có dịp ngắm một
bức tranh Thiền, nguyên cả bức tranh không hề được vẽ ǵ cả,
cả khung vải hầu như để trống –có thể nói là chín mươi phần
trăm bỏ trống. Chỉ một góc nhỏ ở phía dưới ta mới thấy một bức
tranh nhỏ xíu. Và trong cái bức tranh này, sông núi, cây cối
được vẽ rất lớn –c̣n con người th́ nhỏ nhoi như một con kiến.
Có thể có một chiếc thuyền bé và con người như là một cái chấm
nhỏ đang ngồi ở đó.
Tranh của phương Tây th́ khác hẵn; con người như phủ trùm lên
cả khuôn vải. Thiền gia không khỏi mĩm cười về chuyện này. Họ
bảo, “Đây là chủ nghĩa vị ngă -bạn đă không mang đời sống lên
toàn bộ khung vải. Ở đó người ta chỉ thấy một cái tôi to tướng
của bạn, tỉ lệ không cân xứng chút nào. Bầu trời đâu không
thấy? Và khoảng không gian bao la?” Những hoạ phẩm của Tây
phương không nói lên sự hiện hữu. Tranh Thiền th́ cho ta thấy
điều đó –cái bầu trời trống không kia chiếm đên chín mươi phần
trăm bức tranh, hay hơn nữa. Có vài bức nó chiếm gần như chín
mươi chín phần trăm, chỉ c̣n lại một cái góc nhỏ bên dưới… Bức
tranh có vẻ như tập trung vào cái khung trời trống không này –làm
cho người xem nghĩ rằng bức tranh ở đó chỉ là để nhằm trưng
bày cho bạn thấy cái bầu trời trống rỗng kia. Và rồi mây, rồi
núi, rồi sông -tất cả trong một tỉ lệ tương xứng- và một con
người thật nhỏ xíu. Đây là một bức tranh đúng đắn. Thế nhưng
chúng ta có đủ những tṛ bịp bợm, thế nên chúng ta cứ tiếp tục
phóng đại ḿnh lên, tiếp tục vẽ ḿnh ra thật lớn
Đây là chuyện xảy ra hằng ngày. Khi bạn đứng trước tấm gương
soi trong pḥng tắm, bạn có nhận thấy điều đó không? Đứng
trước nó, trong cái khung nhỏ kia, h́nh của bạn như phủ lên cả
toàn bộ tấm gương, chỉ có bạn bao trùm tất cả. Nh́n vào tấm
gương, bạn sẽ không khỏi có một ấn tượng sai lầm về chính ḿnh.
Những tấm gương là những cấu trúc rất tuyệt tạo nên bản ngă –nh́n
vào đó bạn cảm thấy ḿnh như là tất cả, trọn vẹn. Trong tấm
gương không có cái ǵ cả, ngoại trừ bạn. Thế nên người ta
thích đứng trước tấm gương soi một ḿnh. Một người càng ái ngă
chừng nào càng thích đứng trước tấm gưong soi chừng nấy. Những
tấm gương là những tên xu nịnh giỏi, chúng không ngừng tâng
bốc bạn lên. Chúng làm cho bạn lớn lao ra –chúng trợ lực cho
cái bệnh ghiền vĩ đại.
Đó là cả một sai lầm. Bạn nên nh́n vào những hàng cây kia -trước
những cây này chúng ta thật là nhỏ bé. Rồi những đám mây trời,
so với chúng, chúng ta càng nhỏ bé hơn. Và cái bầu trời bao la
kia với muôn vàn tinh tú, cái khoảng không vô tận. Đứng trước
cái vô tận này, con người chỉ là những chấm nhỏ nhoi.
Ngôn ngữ của chúng ta không thể nào diễn tả được cái tổng thể.
Thế nhưng sự im lặng lại có thể nói lên -bởi v́ khi chúng ta
lặng yên, chúng ta rơi vào sự hoà điệu với hiện hữu. Thế nên,
tất cả mọi tôn giáo đều cầu nguyện trong lặng yên. Khi bạn
thật sự yên lắng bạn không c̣n là một sinh thể nữa -bạn chan
hoà vào đá, vào cây, vào động vật, vào mây trời… Khi bạn lặng
yên, bạn hoà điệu với vạn hữu. Khi bạn quên lời bạn không c̣n
là bộ phận của con người cục bộ nữa, cái cục bộ nhỏ bé của
nhân loại. Bạn trở thành bộ phận của một hiện hữu bao la rộng
khắp.
Im lặng là rất mực kỳ diệu. Đạo chỉ có thể cảm nhận được qua
im lặng, và một khi đạo được cảm nhận qua im lặng, nó chỉ có
thể diễn tả qua im lặng, làm sao có thể diễn đạt được bằng
tiếng động? Ngôn ngữ là tiếng động. Nếu đạo đưọc cảm thông qua
im lặng, nó phải được tỏ bày trong im lặng.
Ngôn ngữ không nắm được nó. Trước tiên, đạo rất mực lớn lao và
lời nói th́ quá bé nhỏ. Và rồi -một điều có vẻ rất nghịch lư-
đạo th́ rất mực vi tế c̣n lời nói lại quá thô. Ở cả hai phía,
ngôn ngữ đều không nắm được. Một bên th́ đạo quá đổi lớn lao
c̣n lời nói th́ quá nhỏ bé, c̣n mặt kia, đạo th́ quá vi tế mà
ngôn ngữ th́ rất thô kệch. Cũng chẳng khác ǵ bạn quăng chiếc
lưới xuống gịng sông để bắt cá. Bạn có thể bắt được cá nhưng
nước th́ không. Khi bạn kéo chiếc lưới lên, có thể có vài con
cá bị dính vào lưới nhưng bạn không hề bắt được nước -nước đă
chạy thoát. Nước vi tế hơn. Cái lưới của bạn không thể dùng để
đánh bắt nước, nó chỉ có thể đánh bắt cá, cá càng lớn càng tốt
–cá nhỏ cũng sẽ không bị dính vào. C̣n nước là một chất lỏng
rất khó nắm bắt –và nó chạy thoát.
Thế nên, đó là sự nghịch lư, một đằng, đạo lớn lao vô tận
không thể nghĩ bàn. Nhưng đằng khác, đạo lại rất mực tế vi,
cực kỳ nhỏ bé –không c̣n có thể phân chia được nữa, một nguyên
tử. Ngôn ngữ một lần nữa, không thể nắm bắt được. Ngôn ngữ do
con người tạo ra c̣n đạo th́ không. Ngôn ngữ là một sản phẩm
của con người, nó chỉ như là một thứ tiện nghi. Một quy ước
được tất cả tin tưởng chấp nhận.
Bạn gọi một đoá hoa là “hoa hồng”, người Ấn Độ gọi là “gulab”,
chuyện đó không thành vấn đề. Trong sáu ngàn ngôn ngữ khác
nhau, có đến sáu ngàn cách gọi khác biệt cho đoá hoa hồng. Mà
thật ra hoa hồng không hề có tên; tất cả những cái tên là đều
do chúng ta đặt ra. Nếu bạn tin như thế, nó trở thành cái hoa
hồng. Nếu bạn tin ở một hệ thống ngôn ngữ khác, nó trở thành
gulab. Tuy nhiên tất cả ngôn ngữ đều chỉ là những tiện
nghi.
Chân lư không phải là một thứ tiện nghi. Tiện nghi được điều
chỉnh cho thích nghi với bạn; c̣n với chân lư, bạn phải
điều chỉnh theo. Hăy lưu ư đến sự khác biệt đó. Tiện nghi là
để cho bạn sử dụng, c̣n chân lư th́ không. Nếu bạn muốn sống
trong chân lư, bạn phải đi theo chân lư –chân lư không hề đi
theo bạn.
Có hai loại người trong thế gian này. Loại thứ nhất là những
người muốn chân lư phải theo ḿnh. Loại người này sẽ không bao
giờ đạt đến chân lư. Y luôn luôn nghĩ rằng chân lư phải đứng
về phía ḿnh, như cái bóng theo đuôi. Loại người này chỉ quan
tâm đến cái ngă của họ hơn là chân lư. Khi loại người này
tranh chiến và khẳng định rằng, “Đây là sự thật,” y chẳng hề
quan tâm ǵ đến chân lư. Thực ra y đang nói rằng, “Đây là chân
lư của tôi -bất kể cái ǵ mà các người nói đều sai lầm tất cả!”
Nh́n kỹ mà xem. Nếu tôi nói điều ǵ đó ngược lại với chân lư
của bạn, bạn sẽ nổi giận lên ngay. Không phải bạn nổi giận v́
tôi nói cái ǵ đó không đúng với chân lư, không phải vậy; mà
là v́ nó ngược lại với chân lư của bạn; nó thương tổn đến cái
ngă của bạn. Nếu điều ǵ nói ra chống lại cái chân lư của bạn,
sự thương tổn là cái ngă -bạn chẳng hề bận tâm đến cái gọi là
chân lư. Có ai thèm quan tâm đến chân lư đâu? Người ta cứ luôn
miệng, “Đạo Cơ Đốc của tôi, Ấn giáo của tôi, Kỳ Na giáo của
tôi, Hồi giáo của tôi. Và rồi Kinh Koran của tôi, Kinh Vệ Đà
của tôi, Gita của tôi, Thánh Kinh của tôi” –thương tổn là
những cái đó. Cái “của tôi” này cần phải nh́n được sâu vào. Có
thể bạn không kêu đích danh nó ra, nhưng khi nói rằng, “Kinh
Thánh là sự thật,” một điều cần phải được hiểu là –“Cuốn Kinh
Thánh này là thánh kinh của tôi.” Điều này không cần
phải nói trắng ra một cách rơ ràng, không có một nhu cầu như
thế. Cái ngă đă chen vào bằng những cách thế rất mực xảo quyệt
–nó không hề chường mặt ra, nó ẩn núp ở đàng sau.
Khi người ta tranh căi vớí nhau, người ta không tranh căi về
chân lư. Đạo không cần đến tranh biện -bởi v́ chân lư không
thể được quyết định bằng những cuộc tranh căi hay thảo luận.
Không có cuộc tranh luận nào có thể đưa đến kết quả tối hậu;
đó là một việc làm vô nghĩa. Khi bạn tranh căi, bạn đang tranh
căi cho cái ngă của ḿnh –cái chân lư của bạn và chân lư của
ai đó. Hai cái ngă này xung đột với nhau, và bạn phải chứng tỏ
rằng chỉ có bạn là đúng. Ngay cả đôi lúc bạn chợt thoáng nhận
ra điều đối phuơng nói là đúng, nhưng bạn không thể nào chấp
nhận chuyện đó. Chuyện như vậy xảy ra không biết bao nhiêu lần.
Cái ư thức trong bạn làm việc -rất nhiều lần nó hé nh́n thấy
điều mà đối phương nói có thể đúng. Thế nhưng bạn không thể
cho phép một chuyện như thế, bạn không thể chấp nhận chuyện
này –nó sẽ làm thương tổn cái ngă của bạn rất mực. Thế là bạn
phải chiến đấu cật lực để bảo vệ nó.
Có lần tôi sống vài năm trong một thành phố nhỏ và quen biết
một người hàng xóm –một người rất đặc biệt. Ông ta là một
người Ấn giáo rất cực đoan, thế nên ông ta đă t́m đến và tranh
căi với tôi hàng giờ không biết mệt. Và tôi có thể thấy được
một điều là ông ta đă nhận ra và hiểu được những ǵ tôi nói -thế
nhưng ông ta cứ vẫn t́m đến để tranh căi. Thế rối có một ngày
tôi vô cùng ngạc nhiên. Ông ta đang tranh luận với một người
nào đó, và dùng những điều mà tôi vừa mới nói với ông ta hồi
sáng.
Thế là tôi đến nhà ông ta và bảo, “Ông bạn đang làm cái ǵ vậy?”
–ông ta có vẻ bối rối- “Mới sáng nay bạn đă chống đối lại
những điều mà bạn vừa nói ban nảy mà.” Ông ta bị bắt quả tang
tại trận, nên đành phải thú nhận, “Vâng, đó là chuyện xảy ra
ngày một. Khi tôi lắng nghe ông, tôi rất muốn đồng ư, nhưng
cái ngă của tôi lại kháng cự lại. Tôi không thể gật đầu đồng ư
ngay trước mặt ông, nhưng khi về nhà ngẫm nghĩ lại, quả t́nh
tôi nhận thấy những điều ông nói là chí lư. Và ông đừng ngạc
nhiên,” ông ta nói tiếp, “Tôi đă từng biện hộ cho ông trước
bao nhiêu người, nhưng tôi không thể nói ra điều này với ông.
Tuy nhiên hôm nay ông đă bắt quả tang tại trận -thế nên sẽ là
một điều khó khăn khi c̣n tiếp tục tranh căi với ông.”
Và quả thực như vậy, kể từ hôm đó ông ta không c̣n tranh căi
với tôi nữa. Ông ta vẫn đến với tôi –nhưng bây giờ th́ im lặng
lắng nghe. Một chứng nghiệm lớn lao đă xảy ra cho ông ta, và
ông ta đă hoàn toàn thay đổi kể từ hôm đó, đă thực sự trở
thành một người kiếm t́m chân lư. Và rồi ông ta không c̣n bị
quấy nhiễu bởi cái ngă của ḿnh – không c̣n bận tâm đến cái
gọi là “niềm tin của tôi” nữa.
Sự thật là ǵ? Đâu là chân lư? Bất cứ nơi đâu mà nó có mặt, kẻ
t́m kiếm thực sự sẵn sàng đi cùng với nó. Tôi cần phải nhắc
lại một lần nữa, có hai loại người trên thế gian này -một loại
chỉ muốn chân lư phải theo ḿnh, phải đứng về phía ḿnh, c̣n
loại thứ hai th́ rất mực dũng cảm và sẵn sàng bước đi theo
chân lư, bất kể là nó sẽ dẫn dắt đến đâu. Y không hề mặc cả,
nêu ra điều kiện, chỉ đơn giản bước theo với tất cả tâm huyết
của ḿnh. Và trừ phi bạn rất mực nhiệt thành với chân lư, ṣng
phẳng với chân lư, bạn sẽ không bao giờ có thể vươn đến chân
lư.
Ngôn ngữ là một sáng chế của con người. Chân lư không phải là
một sáng chế mà là một khám phá -một sự khám phá trở lại. Chân
lư đă có sẵn ở đó, c̣n cái từ “chân lư” th́ không, cũng giống
như cái từ “hoa hồng”. Đoá hồng đă có mặt sẵn đó, nhưng cái từ
“hoa hồng” th́ không. Lửa đă có mặt ở đó nhưng cái từ “lửa”
th́ không. Thượng Đế hiện hữu ở đó mà không phải là cái từ
“thượng đế” -thế nhưng con người cứ tiếp tục đánh nhau về
chuyện phải gọi đó là Thượng Đế, là Allah hay Ram. Thượng Đế
không hề có tên; đạo là “phi thường danh”. Không cần đến một
thứ nhăn hiệu ngôn ngữ nào, nhưng bạn muốn dùng bất cứ nhăn
hiệu nào cũng được. Nếu bạn cần đến một cái nhăn hiệu, cái nào
cũng sẽ tốt thôi –Allah hay Ram hay Thượng Đế cũng vậy. Bất cứ
cái tên nào cũng sẽ không có vấn đề. Nếu bạn hiểu như vậy -rằng
Thượng Đế không hề có tên gọi, rằng đạo không hề có tên gọi –và
nếu sự nhận thức này măi bền vững ở trong bạn- th́ bất cứ tên
gọi nào cũng được thôi. Lửa vẫn là lửa. Bạn có gọi nó bằng bất
cứ cái gi th́ cũng chẳng có ǵ đổi khác.
Chân lư luôn sẵn ở đó; ngôn ngữ là do chúng ta tạo ra. Bạn
không thể tạo ra sự vô ngôn –đó là sự tuyệt vời của im lặng.
Vô ngôn là tặng phẩm của Thượng Đế, ngôn ngữ là sản phẩm của
con người. Nếu bạn muốn t́m thấy Thượng Đế, bạn phải kinh qua
những ǵ Thượng Đế trao gởi, bạn phải đi theo ngài, thông qua
tặng phẩm của ngài. Cái tặng phẩm này gói trọn một cái ǵ
trong đó –đó là một chiếc cầu. Thông qua chiếc cầu này mà bạn
nhập vào ḍng thánh.
Im lặng là vàng, im lặng là rất mực quư giá. Một khoảnh khắc
lặng im có giá trị hơn cả hàng giờ suy nghĩ, học tập.
Bởi v́ ngôn ngữ là sản phẩm của con người, nó mang tính nhị
nguyên. Cái tâm của con người thế gian không thể nh́n thấy cả
hai khía cạnh của thực tại cùng một lúc; mỗi một lần nó chỉ có
thể nh́n thấy một khía cạnh. Ngay cả một vật rất nhỏ: Nếu tôi
cho bạn một viên sỏi nhỏ, rất nhỏ, và bạn có thể nắm giữ nó ở
trong ḷng bàn tay, thế nhưng bạn cũng vẫn không thể nh́n thấy
hết toàn bộ viên sỏi chỉ với một cái nh́n. Bạn sẽ chỉ trông
thấy một mặt của nó. Khi bạn xoay viên sỏi đi, bạn sẽ nh́n
thấy mặt khác, nhưng cái mặt lúc đầu đă biến mất. Như vậy,
ngay cả một viên sỏi nhỏ, bạn cũng không thể nào trông thấy
hết cái toàn bộ của nó. Cái toàn bộ đó chỉ là một sự suy diễn
-trước tiên bạn nh́n thấy một phần, rồi bạn nh́n thấy cái phần
khác, thế rồi bạn h́nh dung ra cái toàn bộ của nó.
Bây giờ th́ bạn đang đối mặt với tôi, bạn đang nh́n thấy khuôn
mặt tôi nhưng bạn không thể trông thấy cái lưng của tôi. Khi
bạn thấy cái lưng của tôi th́ bạn sẽ không thấy được cái mặt.
Bạn có thể nh́n thấy cái đồng tiền, nhưng mỗi lần bạn cũng chỉ
nh́n thấy một mặt mà thôi. Một cái ǵ đó luôn luôn bị mất.
Cái hiện hữu luôn có nhiều chiều kích; có rất nhiều khía cạnh.
Không phải chỉ nhiều chiều kích mà nó c̣n nghịch lư. Ngày và
đêm luôn có mặt cùng nhau -thế nhưng khi ta nh́n, ta thấy đêm
và ngày tách biệt. Sống và chết luôn sánh vai cùng nhau ở đó,
nhưng khi ta nh́n ta thấy chúng phân ĺa. Thực ra ta thấy
chúng như là những kẻ tử thù với nhau. Chúng không hề là những
kẻ thù -đời sống đi vào cái chết và cái chết đi vào sự sống.
Chúng giống như những thung lủng và non cao –sánh bước cùng
nhau. Núi cao không thể hiện hữu nếu không có lủng sâu. Lủng
sâu không thể hiện hữu nếu không có non cao. Chỗ nào có thung
lũng, nơi đó có núi non; chỗ nào có núi non, nơi đó có thung
lủng. Chúng hiện hữu cùng nhau.
Thế nhưng tâm của con người luôn luôn chỉ nh́n thấy môt khía
cạnh, và khi mặt đối nghịch xuất hiện, người ta cho rằng cái
này chống lại cái kia. Thế rồi ngày trở thành cái ǵ đó chống
lại đêm, ánh sáng chống lại bóng tối, yêu đương chống lại hận
thù –mà thực ra chúng không phải như vậy. Hận thù biến thành
t́nh yêu, t́nh yêu biến thành hận thù –chúng chỉ là một lượn
sóng, hai biểu hiện của cùng một năng lượng. Và rồi nếu bạn
quan sát một cách chăm chú, kỹ lưỡng trong lặng yên, bạn sẽ có
khả năng trông thấy sự thật. Nó rơ ràng như ban ngày! Có thể
nào bạn hận thù một người nào đó mà không yêu thương y? Vô
phương. Có thể nào bạn biến một người trở thành kẻ thù của
ḿnh mà không làm bạn với y từ lúc đầu –vô phương. Trước tiên
bạn phải tạo ra t́nh thân hữu, rồi sau đó bạn mới có thể tạo
ra sự thù nghịch. Trước tiên bạn phải yêu thương, rồi sau đó
bạn mới có thể thù hận.
Đó là lư do tại sao chúng ta thù hận cùng một người mà chúng
ta thương yêu. Người chồng cứ tiếp tục thù ghét người vợ và
tiếp tục yêu thương. Và người vợ cứ tiếp tục thù ghét người
chồng và tiếp tục thương yêu. Và đôi lúc bạn quả t́nh bối rối
-tại sao? Tại sao bạn lại giận ông chồng của ḿnh đến điên
người lên như thế? Tại sao bạn lại tức giận quá mức bà vợ của
ḿnh như thế. Tại sao đôi lúc bạn không khỏi khởi lên ư nghĩ,
“Tại sao ta lại không giết nàng đi?” Và bạn biết rằng bạn cũng
yêu nàng rất mực; bạn không thể sống nếu thiếu nàng. Ngay cả
đôi lúc nàng đi vắng đâu đó vài ngày là bạn cảm thấy như thiếu
vắng cái ǵ, bạn cảm thấy cô đơn, buồn bă. Khi người vợ đi
vắng th́ bạn không ngừng nghĩ về nàng. Khi nàng ở cạnh bạn,
th́ bạn lại cầu Trời khẩn Phật, “Bao giờ th́ bà ấy đi đâu vài
hôm? Bao giờ th́ bà ấy chịu để yên cho tôi và ngày trong yên
b́nh, vắng lặng?”
T́nh yêu và thù hận luôn sóng đôi cùng nhau. Thật ra nếu nói
chúng là hai là không đúng. Chúng là một. Thân hữu và thù địch
là một.
Hiện hữu là nghịch lư và mang nhiều chiều kích. Thế nhưng ngôn
ngữ th́ không thể nghịch lư. Nếu ngôn ngữ là nghịch lư nó sẽ
mất đi tính các tiện dụng. Nếu có ai hỏi bạn cái ǵ đó và bạn
trả lởi, “Đúng và không”, như vậy thật là vô nghĩa. Hoặc là
bạn trả lời “đúng vậy,” hoặc là bạn trả lời, “không phải” như
vậy mới có ư nghĩa. Thế nhưng hiện hữu có câu trả lời đúng-sai
cùng một lúc. Ở đó đúng-sai không hề tách biệt; khẳng định và
phủ định là hai khía cạnh củ cùng một năng lực. Đó là lư do
tại sao ngôn ngữ là nhị nguyên –nó tạo ra một loại tâm thần
phân liệt trong ư thức con người, nó tạo ra sự chia cắt.
C̣n hiện hữu là bất nhị, nó là một nhất thể, không hề có
sựchia cắt, phân ĺa. Quả là điều rất mực khó khăn đối với bạn
khi cho rằng cái chết chẳng là ǵ cả ngoài sự sống của chính
bạn, cái cao điểm của đời sống bạn. Bạn đă được nhồi vào đầu
qua hằng bao thế kỷ rằng cái chết là kẻ thù -phải tránh xa,
chạy trốn, phải tự chống đỡ, bảo vệ để chống lại nó. Không
phải thế; nó chính là cái nền của sự sống. Nếu cuộc sống của
bạn là ánh chớp, th́ cái chế là nền mây đen. Nếu không có đám
mây đen, sẽ là một mất mát lớn lao cho cái ánh chớp này –nó sẽ
không c̣n loé sáng lên được. Nếu đời sống bạn giống như muôn
vàn tinh tú đang nhấp nháy trong đêm, th́ cái chết giống như
một đêm tối trời không trăng. Những ngôi sao kia vẫn c̣n đó
trong ban ngày, nhưng bạn không thể nh́n thấy chúng v́ thiếu
bóng đêm. Chúng hiện hữu cùng nhau –cái này là chính diện, cái
kia là khung nền. Khi cái kia trở thành chính diện, cái này
lại trở thành khung nền.
Khi bạn đang sống, đời sống giống như là một ánh chớp hằn trên
đám mây đen, một ngọn đèn trong đêm tăm tối. Khi bạn chết, cái
bóng tối trở thành chính diện và ánh sáng di chuyển vào khung
nền. Bạn đi vào yên nghỉ, một sự yên nghỉ sâu xa. Cái chết là
sự nghỉ ngơi cho đời sống. Từ cái chết mà bạn được tái sanh
trở lại, trở lại măi. Và từ sự sống mà cái chết xảy đến, xảy
đến măi. Chúng sóng đôi cùng nhau, một điệp khúc bất tận.
Đó là lư do tại sao mà ngôn ngữ bất lực trong việc diễn đạt
cái nhất thể, cái bất nhị, advaita –nó không thể diễn
tả được. Ngôn ngữ có tính luận lư –nó phải như thế. Nếu nó
không mang tính luận lư, phi luận lư, nó sẽ lại trở thành vô
nghĩa.
Một hôm Gurdjieff đang ngồi nghỉ và có một nhà báo t́m đến gặp
ông ta. Ông là người chúa ghét những nhà báo. Bỗng dưng ông
cất tiếng hỏi người đàn bà ngồi kế bên, “Hôm nay là thứ mấy?”
Người đàn bà trả lời, “Thưa, thứ Bảy”. Gurdjieff có vẻ rất
hoang mang, “Sao lại có thể như thế được? Mới hôm qua là Thứ
Sáu –làm sao mà hôm nay lại có thể là Thứ Bảy được?”
Người đàn bà cũng không khỏi bối rối –ông ta đang nói cái ǵ
vậy? Nhưng bà biết rằng thỉnh thoảng Gurdjieff cũng phát ngôn
những câu không có tính luận lư chút nào. Thế nhưng người kư
giả này tưởng ḿnh đang gặp một người khùng. Có phải là ông ta
đang nói, “Làm sao mà hôm nay lại có thể là Thứ Bảy được khi
ngày hôm qua là Thứ Sáu ? Sao lại như vậy được? Cho tôi biết!”
Người kư giả nghĩ rằng quả là điều vô ích khi nói chuyện với
cái ông này. Ông ta có vẻ như khùng, và ông ta coi bộ cũng
hung dữ nữa -đúng vậy, Gurdjieff làmột người da trắng to con
cao lớn, khoẻ mạnh thực sự… Thế là người kư giả chuồn êm. Khi
y bỏ chạy rồi, Gurdjieff liền cười lớn. Người đàn bà nói với
ông ta, “Sao ngài lại làm như thế với cái anh kư giả tội
nghiệp này?” Ông ta trả lời, “Bởi v́ anh ta dùng cái thời gian
một cách vô ích và làm mất thời gian của tôi. V́ thế mà tôi
phải nói ra một câu vô nghĩa lư. Nếu y không thể khoan dung
được với câu nói này, th́ chẳng có lợi ích ǵ cả -y sẽ chẳng
bao giờ hiểu được tôi đang nói ǵ.”
Chân lư là phi lư. Chân lư là siêu luận lư –chân lư vượt ra
ngoài những giới hạn và phạm trù của luận lư. Luận lư th́ rất
mực rơ ràng, dứt khoát. Nó giống như một cái hoa viên của
người Anh - đối xứng, đâu vào đấy. Một bụi cây trồng ở bên này,
một bụi cây khác đối xứng lại ở phía bên kia -rất mực cân đối.
Cỏ phải được cắt, hàng rào cây phải được tỉa, mọi thứ phải
sạch sẽ tươm tất, cân đối hài hoà.
Chân lư giống như một vườn Thiền… như cái hoa viên của tôi vậy.
Mukta là người chăm sóc cái vườn của tôi –cô ấy khổ sở với cái
vườn của tôi không ít. Cô ta luôn muốn làm cho nó sạch sẽ, cây
cảnh cũng phải trồng cho thật cân đối. Cô ấy là người Hy Lạp.
Cái tâm thức của người Hy Lạp rất mực luận lư -cứ xem các ông
Aristotl, và Plato, v.v… th́ biết. Bây giờ th́ cô ấy ở đây làm
việc cho một người rất là phi luận lư. Tôi cứ không ngừng bảo
cô ấy, “Cứ việc trồng tùm lum, giống như cái rừng hoang vậy đó.”
Lúc đầu, vào những lúc tôi không để ư, cô ấy đă đi vào ngôi
vườn và khởi sự cắt xén cây cảnh. Bây giờ th́ cô ấy đă ngưng
lại rồi, tôi không c̣n thấy cô ấy đi vào vườn với cái kéo trên
tay. Bây giờ th́ cô ấy đă bắt đầu làm quen với chuyện sẽ để
cho nó tự nhiên như thế.
Có một loại cây dại mọc lên và phát triển nhanh chóng trong
khắp khu vuờn. Không ai để cho nó tồn tại trong vườn nhà ḿnh
v́ lẽ nó sẽ làm tiêu hủy luôn cả toàn thể khu vườn. Tôi th́
lại rất thích cái loại cây này, c̣n Mukta th́ gọi nó là “đồ
quái quỷ,” thế là bây giờ tên của nó là “đồ quái quỷ.”
Chân lư giống như là một cánh rừng hoang. Không phải là một
cánh rừng đơn thuần bởi v́ người ta có thể trồng cây tạo rừng.
Rừng hoang không do ai trồng cả, nó từ Thượng Đế -không đối
xứng, không kế hoạch, không luận lư, không tam đoạn luận. Nó
chỉ đơn thuần có mặt ở đó, với tất cả mọi bí ẩn của nó, -và
bạn có thể lạc lối trong đó.
Tôi đă được nghe một câu chuyện kể về một vị đại thiền sư, một
người rất yêu thích hoa viên cây cảnh. Ông ta cũng là một
người làm vườn vô cùng xuất sắc. Vị hoàng đế đương triều cũng
là một người học tṛ đă học hỏi từ ông tất cả mọi kỹ thuật để
tạo nên một khu vườn xinh đẹp. Và vị hoàng đế đă chuẩn bị để
xây dựng một hoa viên –sau ba năm học hỏi tất cả mọi thứ với
vị thiền sư, ông ta đă bắt tay vào việc xây dựng một khu vườn
ở trong hoàng cung. Ông ta đă thuê cả một ngàn nhân công làm
vườn đến làm việc và giúp đỡ ḿnh.
Sau ba năm, vị hoàng đế mời vị thầy ḿnh đến thăm khu vườn.
Đây chẳng khác ǵ một cuộc thi -nếu ông thầy gật đầu khen,
“Tốt lắm”, có nghĩa là vị hoàng đế vượt qua được kỳ thi. Nếu
ông thầy lắc đầu nói, “Không được, phải đi học trở lại,” thế
là nhà vua phải đi học trở lại ba năm khác nữa.
Và rồi cái ngày trọng đại đă đến, ông thầy đến để duyệt xem
công tŕnh của người đệ tử. Vị hoàng đế vô cùng lo lắng -
nh́n ông thầy ông ta lại càng lo lắng thêm, v́ khuôn mặt của
ông thầy toát ra một vẻ ǵ đó rất nghiêm trọng. Cuối cùng, tuy
đó là một buổi sáng giá lạnh, nhưng vị hoàng đế cũng toát cả
mồ hôi ra khi thấy ông thầy chẳng hề nở một nụ cười, không hề
nói lên một tiếng.
Vị hoàng đế lo sợ thật sự, và rồi đă thu hết can đảm cất tiếng
hỏi: “Bạch thầy, sao thầy lại im lặng như thế? Sao thầy chẳng
cười, nói ǵ cả? Chắc có những sai lầm căn bản nào đó với khu
vườn này chăng?”
Ông thầy trả lời, “Vâng, có một điểm sai lầm căn bản.” “Cái ǵ
thế, bạch thầy?” Vị hoàng đế thắc mắc. Và rồi ông thầy giải
đáp, “Trong khu vườn này người ta thấy rơ dấu vết của bàn tay
con người quá. Thượng Đế, thiên nhiên vắng mặt ở đây. Con tính
toán thật chi ly –cho nên con đă hủy diệt nó. Con rất mực luận
lư, mọi thứ ở đây thật cân đối, sắp xếp đâu vào đó. Tất cả đều
như phải theo một cái khuôn. Đó là sai lầm căn bản. Nên nhớ
rằng, không có ǵ sai lầm, toàn hảo quá, chính là vấn nạn.
Chỉ có tâm con người mới tính toán rất mực chi ly. Thượng Đế
không phải là một nhà toán học. Không như câu nói của người Hy
Lạp được khắc ngay trên cánh cửa của học viện Plato, “Thượng
Đế là nhà toán học. Trừ phi bạn hiểu biết về toán học, xin vui
ḷng đừng bước chân vào học viện này.”
Thượng Đế không phải là nhà toán học, không có sự đối xứng
trong Thượng Đế.
Thế rồi bạn có biết là ông thầy đă làm ǵ không? Ông ta bước
ra khỏi khu vườn, gọi theo một số những người phu làm vườn,
những người đă quét dọn và quẳng ra ngoài những chiếc lá khô
và bảo họ, “Hăy mang những chiếc lá khô này trở lại.”
Một khu vuờn thiếu vắng những chiếc lá khô là một khu vườn
chết. Chúng phải có mặt ở đó, chúng là một bộ phận không thể
thiếu. Giống như đời sống không thể thiếu vắng cái chết, làm
sao có những chiếc lá xanh mà lại không có những chiếc lá khô?
Và rồi cơn gió tung những chiếc lá khô bay xào xạc trên mặt
đất tạo ra âm thanh như một bản nhạc tuyệt vời đâu có khác ǵ
những chiếc lá xanh trên cành? Rung động, nhảy múa… và đôi khi
những chiếc lá khô tung bay nhảy múa trên mặt đất c̣n mang đầy
thanh âm nhạc điệu hơn cả những chiếc lá xanh. Bởi v́ những
chiếc lá khô đang tự do. Những chiếc lá xanh vẫn c̣n đang bám
chặt vào đời sống thế gian; những chiếc lá khô không khác ǵ
những vị Phật.
Thế là vị thiền sư bước ra ngoài nhặt lại tất cả những loại lá
khô đă bị liệng bỏ trước đây mang vào rải ra trên khắp cả khu
vườn. Một cơn gió đến, những chiếc lá khô kia bắt đầu theo gió
tung bay, và người ta thấy ông ta mĩm cười, “Bây giờ th́ nó có
vẻ hơi sống động một tí.”
Đấy là phong cách của Thiền.
Ngôn ngữ th́ rất mực luận lư –nó phải như thế, như một thiết
yếu. Chân lư th́ rất mực phi luận lư, rất bất cân đối. Nó
không phải là một thứ tam đoạn luận, nó là thi ca. Nó không
phải là bộ môn số học, nó là một ca khúc. Nó gần giống với
t́nh yêu hơn là luận lư –đó là lư do tại sao ngôn ngữ không
thể diễn tả được chân lư.
Bạn có thể diễn tả được t́nh yêu của bạn bằng tam đoạn luận?
Nếu được, chắc là bạn sẽ phải làm theo kiểu cách như sau: Bạn
đến gặp nàng và nói, “Cái mũi của em thật đúng chỗ, màu da của
em thật tuyệt; tóc của em thật toàn hảo, thân thể của em rất
cân đối, cái bụng của em chưa có ph́ ra, -thế nên tôi yêu em.”
Chắc nàng lúc đó sẽ kêu thét lên và gọi cảnh sát –làm sao mà
yêu được cái kiểu này! Bạn không thể yêu đương bằng tam đoạn
luận; bạn không có nhu cầu đi đến một kết luận. T́nh yêu là
một bước nhảy, không phải là một cái kết luận. Khi bạn cấu
trúc một cái tam đoạn luận, bạn nghĩ đến từng bộ phận –cái mũi,
cặp vú, cái bụng, cái eo, đôi tay, cặp gị, móng tay, tóc,
răng, màu da…-bạn nghĩ đến một ngàn lẻ một bộ phận.
Luận lư chỉ dẫn bạn đến bộ phận. Thế th́ cái tổng thể đâu mất
rồi? Đâu là nàng, đâu là người đàn bà cá biệt này? Nàng đâu
phải là cái lỗ mũi, là tóc tai, là đôi tay, cặp gị? Nàng là
một cái ǵ đó tuyệt vời hơn cả những bộ phận này tổng hợp lại.
Bạn yêu nàng là yêu cái “tuyệt vời hơn” này, yêu cái tổng thể.
Nếu bạn có yêu cái mũi của nàng là bởi v́ bạn đă yêu nàng
trước, rồi sau đó mới yêu luôn cái mũi của nàng –cái tiến
tŕnh này không hề đảo ngược. Bạn yêu nàng trước rồi sau đó
mới yêu cái hàm răng của nàng -tiến tŕnh này chẳng bao giờ
thay đổi.
Luận lư kinh qua cái bộ phận, t́nh yêu kinh qua cái tổng thể.
Chân lư th́ rất gần với t́nh yêu –nó là một tuệ giác nh́n sâu
vào tổng thể. Cái tổng thể này được gọi là Thượng Đế, là chân
lư, là Đạo.
Ngôn ngữ là một phương tŕnh đường thẳng, nó di chuyển trên
một tuyến đường thẳng. Thế nhưng không có ǵ đi vào đời bằng
những tuyến đường thẳng cả; sự sống cũng chuyển dịch trong
những ṿng tṛn. Trái đất quay chung quanh mặt trời và cũng tự
quay quanh chính nó trong môt ṿng tṛn. Thời tiết bốn mùa
cũng luân phiên nhau trong một ṿng tṛn, muôn v́ sao cũng
quay quanh một ṿng tṛn và ngay cả sự sống cũng thế -tất cả
vạn pháp đều quay trong một ṿng tṛn. Chỉ có luận lư, ngôn
ngữ là di chuyển theo một đường thẳng.
Ngôn ngữ là một phương tŕnh đường thẳng, c̣n hiện hữu th́
không. Hiện hữu là ṿng tṛn. Bạn không thể vẽ đường biểu diễn
của ṿng tṛn bằng đường thẳng. Đường thẳng đi trực tuyến, c̣n
ṿng tṛn cũng có một đường thẳng nhưng được uốn cong, không
bao giờ đi thẳng. Đường thẳng chỉ là một sản phẩm sáng chế của
bộ môn h́nh học, nó không hề hiện hữu. Euclid th́ cho rằng
đường thẳng hiện hữu, thế nhưng bây giờ một bộ môn h́nh học
mới được gọi là phi-Euclid xuất hiện, cho rằng không hề có cái
gọi là những đường thẳng, nó không hề hiện hữu.
Làm thế nào để bạn vẽ một đường thẳng? Nếu bạn đang ngồi trên
sàn nhà này và vẽ một đường thẳng, nó sẽ không bao giờ thẳng
cả -bởi v́ quả đất tṛn. Thế nên nếu bạn cứ tiếp tục vẽ măi,
kéo dài cái đường thẳng đó ra, cho đến một ngày bạn sẽ thấy
rằng nó biến thành một cái ṿng tṛn. Thế nên lúc ban đầu c̣n
nhỏ, nó trông giống như một đường thẳng, mà thật ra không
phải vậy, nó là một cái ṿng cung, một phần tử của một cái
ṿng tṛn lớn. Bạn đă không hề biết -cứ tiếp làm cho nó trở
nên lớn hơn, lớn hơn măi, cho đến một ngày bạn sẽ thấy nó biến
thành một cái ṿng tṛn. Tất cả mọi đường thẳng cuối cùng đều
trở thành một ṿng tṛn -thế nên tất cả mọi đường thẳng đều là
thành phần của một ṿng tṛn. Thế nhưng cái luận lư ṿng tṛn
hoàn toàn khác biệt với luận lư đường thẳng. Luận lư đường
thẳng cứ tiếp tục tiến triển, tiến triển măi. Một tiến hoá
không ngừng; không hề biết đến con đường xoắn ốc.
Đó là lư do tại sao tại phương Tây, những tôn giáo phương Tây
có ư niệm về sáng tạo nhưng không có bất kỳ ư niệm nào về hủy
diệt. Thượng Đế của họ chỉ biết sáng tạo thôi –và rồi sau đó?
họ bị dính cứng vào. Nó cứ tiếp tục măi không ngừng. Đây là
điều tuyệt đối sai lầm, bởi v́ không có bất cứ cái ǵ cứ tiếp
tục măi muôn đời; đến một ngày nào đó nó sẽ phải ngưng nghỉ.
Tại phương Đông, Thượng Đế sáng tạo và Thượng Đế hủy diệt. Một
ngày nào đó thế gian này xuất hiện; một ngày nào đó nó lại
biến mất đi. Cái quá tŕnh của hàng triệu triệu năm này được
gọi là một ngày của Thượng Đế -“ngày của Đại Phạm Thiên”. Và
ông ta vừa là người sáng tạo, vừa là người hủy diệt. Tuy nhiên,
tâm thức của người phương Tây không bao giờ có thể nghĩ rằng
Thượng Đế lại là người hủy diệt; điều đó cũng phù hợp với luận
lư thôi -người sáng tạo không thể là người hủy diệt.
Thế nhưng tại phương Đông chúng ta có một hiểu biết sâu sắc
hơn, chúng ta có một trực giác bén nhạy đối với cái tổng thể.
Thế nên, đúng như vậy, người sáng tạo đồng thời cũng phải là
người hủy diệt -nếu không sẽ chẳng bao giờ có cái chết mà chỉ
toàn sự sống. Và cũng sẽ chẳng hề có hận thù, chỉ có thương
yêu; sẽ chẳng bao giờ có phiền muộn mà luôn luôn chỉ có hạnh
phúc. Không hề có chuyện như thế. Tất cả cái ǵ có sinh đều có
tử.
Thế nên ngay cả toàn bộ hiện hữu này, nó đă được sanh ra vào
một thời điểm nào đó và rồi một ngày nào đó nó cũng sẽ bị hoại
diệt. Chỉ ở phương Đông chúng ta mới có cái ư niệm –với tiến
hoá, chúng ta c̣n có ư niệm về tiến tŕnh xoáy trôn ốc. Tất cả
không phải là một sự tiếp tục đều đặn mà luôn luôn tiến hoá –cùng
với tiến hoá đồng thời cũng có sự nghịch hành. Bạn có thể quan
sát và nhận ra điều này: một mặt này bạn tiến hoá, ở mặt khác
bạn nghịch hành. Khi một người trở nên rất mực giàu có th́ nội
tâm của y lại rất mực nghèo nàn. Khi một người có trong tay
tất cả, ở bên trong y bắt đầu cảm thấy ḿnh không có ǵ cả.
Tiến hóa và nghịch hành như thế luôn luôn tay trong tay sóng
đôi cùng nhau. Khi một người từ bỏ tất cả, bỗng dưng y cảm
thấy ḿnh trở thành chủ nhân của chính sinh thể ḿnh. Kẻ ăn
mày trở thành hoàng đế, hoàng đế trở thành kẻ ăn mày.
Đời sống rất mực nghịch lư –nó không phải là một đường thẳng,
nó không phải là luận lư học. Và bởi v́ sự hiện hữu của ngôn
ngữ với cấu trúc đường thẳng của nó, thời gian được tạo ra bao
gồm quá khứ, hiện tại, tương lai. Thực ra không hề có quá khứ
và tương lai mà chỉ có hiện tại. Tất cả đều là vĩnh cửu. Hiện
hữu không hề có quá khứ lẫn tương lai. Hiện hữu sống trong
vĩnh cửu, trong thời gian vô tận; luôn luôn ngay bây
giờ.
Như vậy, làm thế nào để diễn tả được cái “ngay bây giờ”
này? Vô phương -bởi v́ ngôn ngữ của chúng ta chỉ chuyển tải
cái ư niệm về quá khứ và tương lai. Cái hệ thống ngôn ngữ này
được tạo ra bởi cái kư ức của chúng ta, nó gắn bó với cái kư
ức này. Bởi v́ gắn bó chặt chẽ như thế, nó nghĩ đến quá khứ -kư
ức chỉ chứa đựng quá khứ. Và khi nghĩ đến quá khứ đồng thời nó
cũng nghĩ đến tương lai –tương lai không là ǵ cả mà chỉ là sự
phóng chiếu lại những ǵ của quá khứ. Và trong cái khoảng cách
giữa quá khứ và tương lai, hiện tại –chính là thực tại duy
nhất- đă bị mất dấu.
Thượng Đế là hiện tại. Không ai nói “Thượng Đế đă là” –v́ sẽ
là một điều ngu xuẩn. Và bạn cũng không thể nói “Thượng Đế sẽ
là” -điều này lại càng ngu xuẩn hơn. Bạn chỉ có thể nói
“Thượng Đế là”. Thượng Đế luôn luôn đang là –không hề có
chuyện “đă” và “sẽ”. Thượng Đế là như thị.
Cái như thị này được Thiền gia gọi là “tathata”
–như như. Cái như như này không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ chỉ làm công việc hủy diệt –nó sẽ phân chia cái như
như này thành quá khứ, hiện tại, và tương lai. Và như thế vạn
hữu sẽ biến mất ngay lập tức –khoảnh khắc mà bạn đem cái tổng
thể của một cái ǵ đó ra phân chia, bạn đă hủy diệt nó.
Tôi có thể chỉ cho bạn thấy một đoá hồng tuyệt đẹp, và bạn có
thể lột từng cánh hoa ra để nh́n vào bên trong –t́m kiếm xem
cái ǵ đă làm cho nó sống động như thế? Thế nhưng như vậy bạn
đă huỷ diệt đoá hoa rồi. Bạn có thể t́m đến một nhà hoá học,
ông ta có thể phân chất cho bạn tất cả các hoá chất đă cấu tạo
nên đoá hoa, bạn có thể biết được tại sao và cách nào mà nó
toả hương, cái ǵ đă làm cho mùi hoa hồng trở nên tuyệt diệu
như thế. Bạn cũng có thể biết được tại sao nó có màu đỏ, màu
vàng, màu nhung đen; bạn có thể t́m ra tất cả những thành phần
cấu tạo của nó. Tuy nhiên bạn không thể t́m ra được một điều
duy nhất và có ư nghĩa nhất: nét đẹp tuyệt vời của nó. Bạn có
thể mang các thành phần hoá chất cấu tạo nên đoá hoa bỏ vào
những chai lọ khác nhau –dán nhăn hiệu, cân đo, phân loại-
nhưng rồi vẫn sẽ có một cái lọ trống, cái lọ mang nhăn hiệu
“nét đẹp tuyệt vời”. Nét đẹp này bạn không thể t́m ra bằng
phân tích, nó toát ra từ tổng thể. Chân lư cũng thế, nó chỉ là
của tổng thể.
Ngôn ngữ là đường thẳng, chân lư là đồng bộ. Nó như thị và
đồng bộ như là bạn đang có mặt ở đây cùng với cỏ cây, chim
chóc, mây trời, tinh tú -cả vạn hữu đều có mặt trong cùng một
khoảnh khắc này. Không hề có chuyện bạn có mặt trước rồi đến
cỏ cây, mây trời, tinh tú… Tất cả đều hiện hữu một cách đồng
bộ. Thế nhưng khi bạn viết một bài văn luận bàn về chúng, sự
có mặt đồng bộ này sẽ không c̣n. Trước tiên bạn sẽ nói đến
những con người tụ họp ở đây, rồi bạn miêu tả đến ngoại cảnh,
cỏ cây, mây trời, tinh tú, những cái xa xôi nhất -từng tí một
bạn miêu tả, tuần tự bạn xếp chúng vào hàng. Và rồi vạn hữu có
mặt theo thứ tự, cái thứ nhất, cái thứ hai, cái thứ ba –chúng
sắp hàng nối đuôi nhau khởi sự đi vào hiện hữu.
Hiện hữu không phải là đứng sắp hàng nối đuôi mà là một toàn
bộ cùng nhau. Đó là lư do tại sao nó không thể được diễn tả
bằng ngôn ngữ.
Cuối cùng, ngôn ngữ chỉ là một tiếng vọng, một sự phản chiếu
trong tấm gương soi, một cái bóng. Làm thế nào mà nó có thể
diễn tả được chân lư? Ngôn ngữ giống như một bản thực đơn -bạn
có thể đọc nó nhưng nó không phải là thực phẩm, bạn không thể
xơi luôn cả cái bản thực đơn này. Bản thực đơn chỉ có thể làm
được một việc, nó làm cho bạn thèm ăn -thế nhưng nó không thể
thoả măn sự thèm ăn của bạn.
Những lời dạy của một vị thầy có thể tạo cho bạn sự khao khát
về Thượng Đế, thế nhưng nó không thể thoả măn cơn đói t́m cầu
Thượng Đế của bạn. Kinh điển có thể kích thích ḷng cầu đạo
trong bạn nhưng nó không thể thoả măn được ḷng tham cầu đó.
Ngôn ngữ có thể thách thức bạn, nhưng nó chỉ có thể làm được
như thế -bởi v́ một từ ngữ chỉ là một cái bóng. Cái từ “lửa”
không phải là lửa, cái từ “đồ ăn” không phải là đồ ăn, và cái
từ “thượng đế” cũng thế -nó không phải là Thượng Đế.
Đó là lư do tại sao các vị Thiền sư chọn phương cách bất lập
văn tự. Có lúc vị Thiền sư hét lên một tiếng. Ông ta sẽ thốt
ra một âm thanh vô nghĩa, chỉ là một tiếng thét, không bao hàm
một ư nghĩa ǵ cả. Có lúc ông ta sẽ cười lớn: Ha, ha, ha! Có
khi ông ta sẽ la khóc, nước mắt sẽ trào ra, chảy dài trên đôi
má. Hoặc giả có lúc ông ta ngồi yên lặng bất động, không làm
ǵ cả. Cũng có khi ông ta đánh đập, xô, liệng người môn sinh
của ḿnh.
Vị Thiền sư đă cố gắng t́m phương cách vô ngôn để kích động
bạn, đưa bạn vào chính cái thực tại đang bao quanh ḿnh. Thế
nhưng cái đầu của bạn bị mê mờ lạc lối. Có không biết bao
nhiêu những đám mây đen của ngôn ngữ, của lời nói, của triết
học chạy ḷng ṿng trong cái đầu của bạn làm cho nó tŕ trệ,
mụ ra. Bạn cần ai đó hét lên một tiếng. Bạn cần ai đó đánh một
cú thật mạnh để ít nhất, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn, bạn
bừng tỉnh ra khỏi cơn mê.
Một vài điều cần được nói thêm. Các vị Thiền sư thường bảo:
“Dùng đến ngôn từ cũng chẳng khác ǵ đánh vào mặt trăng bằng
cái gậy hay là găi ngứa ngoài giày.” Tôi thích cái cách ví von
này. Chứ c̣n ǵ nữa? Chân bạn đang ngứa mà cứ tiếp tục găi
ngứa ngoài giày th́ nó có giúp ích được ǵ cho bạn đâu? Nhưng
đó là điều mà chúng ta đang làm, chỉ găi chiếc giày. Cái ngứa
th́ nằm ở chỗ khác. Chúng ta phải đi thẳng vào thực tại. Ngay
cả một lớp da mỏng nhất của chiếc giày cũng đủ để ngăn cản
việc găi ngứa. Ngôn ngữ lại là một lớp da dày cộm.
Ánh trăng đêm từng đêm
Phản chiếu trên ḍng suối
Dù cố gắng để t́m
Bạn không hề thấy được
Dù chỉ là cái bóng
Nơi suối chạm mặt trăng.
Đây là những lời dạy của một vị Thiền Sư,
Takuan. Ông ta cho rằng ngôn từ
cũng giống y như thế -bạn cứ tiếp tục lắng nghe, và lắng nghe
đến bao nhiêu lần đi nữa nhưng khi bạn cố gắng để t́m ngôn ngữ
chạm vào bạn ở nơi nào, bạn không thể t́m ra dù chỉ là một cái
bóng. Bạn cần đến một cái ǵ khác, một cái ǵ đó làm trung
gian, một cái ǵ đó cụ thể hơn.
Đă có một giai thoại rất tuyệt vời về cuộc đời của vị đại
Thiền sư Lâm Tế (Rinzai), như
sau:
Thiền sư Lâm Tế gặp gỡ một nhóm ba du tăng thuộc một tông phái
Phật giáo khác, và một trong những vị tăng này đă lên tiếng
chất vấn vị Thiền sư, “Ḍng sông Thiền sâu đến cỡ nào?” Ư niệm
liên hệ đến ḍng sông được khởi dậy khi sự đối luận giữa họ
xảy ra trên một chiếc cầu. Thiền sư Lâm Tế nổi tiếng là người
phản ứng trực tiếp nhanh chóng, trả lời ngay, “Ngươi tự t́m
hiểu lấy,” và định quẳng người tham vấn đang đứng ở trên cầu
xuống ḍng sông.
Người tham vấn nêu một câu hỏi tuyệt vời: “Ḍng sông Thiền sâu
đến cỡ nào?” Thế nhưng khi bạn nêu lên một câu hỏi với một vị
Thiền sư, bạn phải sẵn sàng chờ đợi bất cứ chuyện ǵ có thể
xảy đến. Bởi v́ vị Thiền sư không hề trả lời bằng những ǵ lấy
ra từ trí nhớ của ḿnh; câu trả lời của ông ta phóng ra ngay
lập tức tại hiện trường. Họ đang đứng trên một chiếc cầu, đó
là lư do tại sao câu hỏi được khởi dậy. Có thể là do bởi ḍng
sông mà vị khách tăng này đă muốn dùng nó như một ẩn dụ. Thế
nhưng ông ta chắc là không hề biết rằng những vị Thiền sư
thường không thích những chuyện ẩn dụ, họ sống với thực tại.
Cái ẩn dụ sẽ mang chức năng như một chiếc giày –và thực tại là
cái chân của bạn đang bị ngứa.
Thiền sư Lâm Tế trả lời “Ngươi tự t́m hiểu lấy,” và định quẳng
người tham vấn đang đứng ở trên cầu xuống ḍng sông.
Chuyện này th́ ngay cả Tiến sĩ Suzuki, người đă giới thiệu
Thiền đến với phương Tây, người đă có một cống hiến vĩ đại cho
nhân loại –trong suốt bảy mươi năm trời, chưa có ai làm công
việc phục vụ nhân loại lớn lao như là Suzuki- cũng chỉ đưa ra
lời b́nh về câu chuyện này như sau: “May mắn thay, hai ông bạn
du tăng khác đă nhảy vào can thiệp, xin sự khoan hồng của vị
Thiền sư, cứu văn được t́nh huống xảy ra.”
Như vậy, ngay cả Suzuki cũng đă phải hoảng kinh lên; chuyện
này quả là đi quá xa điều mà người ta mong đợi. Tuy nhiên đối
với tôi, hai ông tăng nhảy vào can thiệp không phải là một
chuyện may mắn. Điều tuyệt vời nhất là liệng ông tăng kia
xuống sông -để ông ta nếm thử cái mùi vị của một ḍng sông
thực sự hơn là cứ măi suy nghĩ về những ẩn dụ. Suy nghĩ về
những ẩn dụ sẽ không giúp ích ǵ cho chúng ta cả. Tôi hoàn
toàn không đồng ư với Suzuki, cho dù tôi rất ái mộ ông ta,
nhưng vẫn không thể nào đồng ư với lời b́nh này. Ông ta cho
rằng quả là điều may mắn khi hai ông tăng kia can thiệp kịp
thời và cứu văn được t́nh huống. Thực ra họ đă hủy diệt mất
cái t́nh huống đẹp đẽ đáng lẽ phải xảy ra. Đâu có ai biết được
–khi ông tăng này rơi từ trên cầu xuống gịng sông, ông ta sẽ
hoát nhiên đạt ngộ. Bởi v́ khi một bậc thầy như Lâm Tế định
liệng một người nào đó xuống sông, ông ta không hề làm một
chuyện vô nghĩa. Một người như Thiền sư Lâm Tế biết rơ ḿnh
đang làm cái ǵ; nhận thức một cách hoàn hảo t́nh huống đang
xảy ra.
Có không ít những người chỉ tỉnh thức khi nào họ đối mặt với
cái chết –ngoài ra họ chẳng bao giờ có thể thức tỉnh được. Có
không ít người sẽ chỉ thức tỉnh khi nào tử thần hiện ra đứng
sừng sững trước mặt họ. Đối với tôi, quả là điều bất hạnh khi
hai vị tăng kia nhảy vào can thiệp và xin khoan thứ. Cái ông
học tăng khốn khổ này đă đánh mất đi một cơ hội bằng vàng. Cơ
duyên đại ngộ đă gần kề. Thực ra, một người như Thiền sư Lâm
Tế chẳng bao giờ tính chuyện liệng bất cứ ai hay tất cả mọi
người, ông chỉ tính quẳng ai đó xuống sông khi nào mà ông ta
thấy được cái khả năng, cái tiềm năng có thể giác ngộ y.
Đây là cách thế mà Thiền giải quyết những t́nh huống, vấn nạn,
thách thức.
Một giai thoại Thiền học khác.
Một học tăng vừa mới trở về sau một chuyến du phương xa chỉ để
khám phá ra rằng đứa con trai nhỏ của ḿnh vừa mới qua đời –và
lúc này th́ đám tang đang đi ngang qua làng. Sự kích động và
khổ đau cùng cực trước khám phá này đă làm ông muốn phát điên,
tay vung thanh gươm lên chạy bổ vào làng. Ông ta nhào đến nơi
tang lễ đang tiến hành với vị của thầy ḿnh đang đi dọc theo
chiếc quan tài.
Ông ta đưa thanh gươm lên sẵn sàng bổ xuống vị thầy và la lớn:
“Bây giờ ông có thể nói lên một lời nào không?”
Bây giờ là một phong cách khác của Thiền gia. Họ bảo rằng,
“Bây giờ ông có thể nói lên một lời nào không? Một lời có thể
giải quyết được cái vấn nạn mà tôi đang đối đầu? Đứa con trai
của tôi đă chết, đứa con mà tôi cực kỳ thương yêu. Bây giờ ông
có thể nói lên một lời để giải quyết cái vấn nạn này không?”
Và y đến với một thanh gươm, đang giơ cao thanh gươm lên trước
mặt vị thầy, và hét lên, “Bây giờ ông có thể nói lên một lời
nào không? Một lời nào đó để tôi có thể nh́n suốt vào cái vấn
nạn này, kinh qua cái vấn nạn này, giải quyết được nó?”
Ông thầy lẳng lặng giở nắp chiếc quan tài và bảo, “Nhà ngươi
có thấy không, ta không có ǵ để dấu ngươi cả -ngay cả cái này.”
Thật là một ông thầy vĩ đại. Mở nắp chiếc quan tài và bảo,
“Tới đây! Ngươi có thấy không?” Xác chết của đứa con yêu. Cái
chết -chết trẻ, chết c̣n tươi rói. Cái chết rất mực sống động.
Bởi v́ khi một đứa trẻ chết, cái chết thật là trẻ trung, tươi
tắn. Rất mực sinh động. Bạn có thể nh́n thấy cái chết rơ hơn
trên khuôn mặt của một đứa trẻ hơn là một người già. Khi một
người già qua đời, cái chết của họ cũng rất già nua. Nhưng khi
một người trẻ qua đời, cái chết rất mực trẻ trung và tươi tắn
như một bông hoa
Ông thầy mở chiếc nắp ḥm và bảo, “Nhà ngươi có thấy không, ta
không có ǵ để dấu ngươi cả -ngay cả cái này! Ta đă nói về sự
sống và đă giúp ngươi nh́n rơ sự sống. Bây giờ là cái chết. Mà
không phải ngay cả chuyện này –Ta đă không hề dấu diếm ngươi
bất cứ điều ǵ cả. Không bao giờ, tất cả mọi chuyện đều được
phơi bày. Ngươi đă biết sự sống –bây giờ ngươi biết thêm cái
chết. ”
“Đúng thế, đúng thế,” vị tăng sĩ trả lời, nỗi đau đă phơi trải
ra tất cả những ǵ được dấu kín lâu đời trong y.
Cái ǵ đă bị chôn dấu? Nỗi đau đă phơi bày ra cái ǵ? Vị thầy
đă làm điều ǵ khi mở nắp chiếc quan tài để chỉ cho ông ta
thấy cái xác chết của đứa con yêu? Ông ta đă làm ǵ vậy?
Người học tăng này đang đau đớn đến điên cuồng; y sẵn sàng để
giết người hoặc bị người giết. Y đang thịnh nộ, nổi khùng, khi
vung lên chiếc gươm trần trong tay. Chắc chắn là y đă bị dính
mắc gắn bó chặt chẽ với đứa con; đứa con là nguồn sống của y.
Y không c̣n b́nh tĩnh nữa. Thế nhưng cái khuôn mặt giá băng
của cái chết mang y trở về với thực tại, và y có thể thấy được
cái vướng mắc của ḿnh. Và y cũng có thể nh́n rơ một điều rằng
không phải là y đang buồn lo v́ đứa trẻ và cái chết của nó –y
đang buồn lo về cái dính mắc của chính ḿnh, cái sở hữu của
chính ḿnh. Cơ bản là y đang buồn lo về cái chết của chính
ḿnh. Cái chết của đứa bé cho thấy một điều rằng, mọi người
rồi sẽ chết, rằng bạn có thể ngả lăn ra chết bất cứ lúc nào –ngay
cả một đứa trẻ cũng có thể tan biến vào cơi chết, huống ǵ là
bạn?
Tất cả những điều này đă được bộc lộ ra qua cái chết tươi tắn,
lặng yên, lạnh giá đó. Đời sống th́ ấm áp, cái chết th́ lạnh
giá. Tuy nhiên cái chết cũng sống động như là sự sống.
Và rồi ông thầy bảo, “Nhà ngươi có thấy không, ta không có ǵ
để dấu ngươi cả -ngay cả cái này.” Tiếp theo đó là một thực
chứng lớn lao, một đại ngộ: “Đúng thế, đúng thế,” vị tăng sĩ
trả lời, nỗi đau đă phơi trải ra tất cả những ǵ được dấu kín
lâu đời trong y.
Những vị Thiền sư rất mực thẳng thắn, rất mực bén nhạy. Không
ai có thể tiên đoán được những câu trả lời của họ, bởi v́ họ
không hề phản ứng. Ở đây không phải là một sự phản ứng, không
phải là một câu trả lời được sửa soạn. Cái t́nh huống này rất
mực mới mẻ, có thể là nó chưa hề xảy ra một lần trước đó, và
có thể là nó cũng sẽ không bao giờ xảy ra sau này. Không có
cái ǵ được lặp lại. Nếu bạn đang sống thực sự, sống một cách
đáp ứng, tự phát, th́ sẽ không có ǵ trong đời sống này là một
sự lặp lại. Mỗi một t́nh huống đều có lời giải đáp riêng của
chính nó.
Đây không phải là một câu trả lời được tập dượt trước. Vị thầy
mở nắp chiếc quan tài –đây là một hành động rốt ráo của trách
nhiệm.
Hăy lắng nghe thêm một giai thoại Thiền học khác, rất mực thù
thắng.
Một số khách quan bất ngờ đến viếng thăm tu viện và vị tăng
phụ trách trai soạn được báo cho biết để sửa soạn thêm thức ăn
… Và cái ông đầu bếp này không phải là một người thường; ông
ta đă chứng ngộ…
Thế là ông ta bắt tay vào công việc một cách nhanh chóng, thế
nhưng khi hái nhặt rau cỏ một cách vội vă như thế, ông ta cũng
vơ luôn theo cả một con rắn. Trời đă chập choạng tối, vị tăng
th́ đă già, ông ta không thể nào thấy rơ, nhất là trong lúc
hối hả như thế. Khách khứa đă đến, tất cả mọi thứ đều phải
được sửa soạn ngay lập tức. Thế là trong lúc cắt rau cải,
trong mớ rau cải đó có luôn cả con rắn.
Chop, chop, chop, con dao của ông xắt liên tu bất tận, không
để ư đến chuyện có một sinh vật cũng đă được bỏ vào nồi canh.
Giữa buổi ăn, vị tăng phụ trách trai soạn bỗng được mời lên
gặp vị viện chủ, để chỉ cho ông ta thấy cái đầu rắn đang được
kẹp giữa hai ngón tay.
Một điều ngẫu nhiên mà cái đầu rắn được múc vào cái bát của vị
viện chủ, thế nên ông ta đă kêu vị tăng phụ trách trai soạn
chỉ cho thấy cái đầu rắn đang được kẹp giữa hai ngón tay ḿnh.
Bạn có biết vị thầy viện chủ nói cái ǵ không? Ông ta bảo,
“Bây giờ ông có thể nói lên một lời nào không?”
Nhanh như một ánh chớp, ông đầu bếp chộp lấy cái đầu rắn từ
tay vị viện chủ, bỏ vào miệng, vừa nhai vừa nói, “Ô. Cảm ơn
thầy. Cảm ơn thầy,” xong nhanh chóng rời khỏi trai pḥng.
Đây là phong cách đáp ứng của Thiền. Có ǵ để nói ra ở đó? Ông
đầu bếp này phải là một người rất mực hiếm có. Thật là một trả
lời tuyệt diệu! Đây là một trả lời rốt ráo -thẳng băng, chóng
vánh. Và bất cứ lúc nào mà bạn thẳng băng như thế, câu trả lời
của bạn không phải chỉ là một câu trả lời, mà thể hiện tính
trọn vẹn của bạn –hành động như là một nhất thể, toàn bộ.
Ở đây không hề có một giây phút lưỡng lự; không hề có một
khoảnh khắc nghi ngại, không hề có một tí ti cảm giác phạm
tội. Cũng chẳng có sự xin lỗi xin phải, tuyệt nhiên không. Và
câu trả lời xảy ra chỉ trong một sát na, trong một chớp mắt
-bởi v́ nếu bạn ngưng lại một tí thôi, niệm dấy lên, câu trả
lời sẽ không c̣n là một đáp ứng với t́nh huống nữa. Bởi v́
thông qua niệm, quá khứ sẽ nhảy vào, và rồi trí nhớ, kư ức.
Bạn sẽ khởi sự t́m kiếm –“Làm cái ǵ đây? Phải nên trả lời như
thế nào đây?” Cái khoảnh khắc mà bạn nghĩ rằng, “Phải nên trả
lời như thế nào đây?” bạn đă bị trễ tàu. Không chừng cái ông
tăng đầu bếp này sẽ bị đánh đ̣n vào ngày hôm đó, không những
bị đ̣n đau mà ông ta c̣n có thể bị trục xuất ra khỏi tu viện
nữa.
Thế nhưng ở đây chúng ta có một phản ứng tuyệt vời, một hành
động rốt ráo, trọn vẹn -ông ta lập tức chộp lấy cái đầu rắn từ
tay vị viện chủ, bỏ vào miệng, vừa nhai vừa nói, “Ô. Cảm ơn
thầy. Cảm ơn thầy,” làm như ḿnh đă được ban thưởng cho một
cái ǵ đó. Đây là phong cách trả lời của Thiền.
Bây giờ ta đi vào nội dung của đoạn kinh trong ngày.
Vị thiền sư lên toà giảng pháp
trước đám đông t́m cầu giác ngộ,
Ông chỉ nói một câu ngắn gọn:
“Ha! Ha! Ha! Cái ǵ thế này?
Hăy về pḥng và uống trà đi.”
Xong bước xuống, ông ta bỏ đi.
Rất ngắn, nhưng thật sâu sắc. Nó sắc bén như lưỡi gươm trần
–nó có thể cắt bạn ra đến tận cùng cốt lơi.
Vị thiền sư lên toà giảng pháp … Trong Thiền, “giảng
pháp” có nghĩa là khiêu chiến, là thách đố. “giảng pháp” có
nghĩa là đánh thức bạn ra khỏi giấc ngủ dài.
“Giảng pháp” có ư nghĩa giống hệt như những ǵ mà Chúa Giêsu
đă làm khi Lazarus chết. Lúc đó Chúa đang ở rất xa và những
người chị của Lazarus đă gởi một người đưa tin đến báo cho
biết. Chúa Giêsu liền hối hả đi nhanh vào làng -thế nhưng khi
Chúa đến th́ ba ngày cũng đă trôi qua rồi. Cái xác chết của
Lazarus đă bắt đầu bay mùi. Tuy nhiên họ đă bảo quản thể xác
của Lazarus trong một cái hang động và vẫn c̣n chờ đợi Chúa
Giêsu. Chẳng c̣n mảy may hy vọng nào nữa –làm sao mà một cái
xác chết đă ba ngày có thể sống lại được? Và rối họ bắt đầu
than khóc khi Chúa Giêsu xuất hiện, “Thầy ơi, Thầy đă đến quá
trễ rồi.” Và mọi người đều biết Lazarus là một trong những môn
đồ được Chúa rất mực thương yêu.
Chúa Giêsu phán, “Đừng than khóc nữa. Hăy đi với ta, hăy theo
ta.” Và tất cả đều đi đến cái hang động nơi chứa xác của
Lazarus. Lúc này Chúa Giêsu đứng ở ngoài hang động và gọi lớn,
“Lazarus! Hăy ra đây!” Không ai tin rằng có ai đó sẽ bước ra.
Thế nhưng không có ai tin vào đôi mắt của ḿnh cả, bởi v́ họ
đă thấy Lazarus từ trong hang động bước ra - loạng choạng và
vấp té một tí như người đang ở trong trạng thái hôn mê nặng.
Đây là pháp ngôn: “Lazarus! Hăy ra đây!” Một lời kêu, một sự
kích động, một thách đố.
Vị thiền sư lên toà giảng pháp
trước đám đông t́m cầu giác ngộ …
Và đối với những người đang t́m cầu giác ngộ, vị thiền sư phải
nói với họ ở đó cái ǵ đây? Không có ǵ có thể diễn tả được sự
giác ngộ. Bạn có thể bị kích động để trở thành giác ngộ, bạn
có thể bị đẩy, bị quẳng vào đó -thế nhưng có thể nói cái ǵ về
nó đây? Vô ngôn.
… Ông chỉ nói một câu ngắn gọn … thế nhưng cái cung
cách giản đơn này –cái cung cách:
“Ha! Ha! Ha! Cái ǵ thế này?
Về hậu liêu và uống trà đi.”
Xong bước xuống, ông ta bỏ đi.
Ông ta đang nói cái ǵ vậy? Ông ta đang chỉ ra cho đại chúng
cái ǵ? Ông ta đang nói lên điều ǵ qua vô ngôn?
Ludwig Wittgenstein, một trong những triết gia vĩ đại nhất của
thời đương đại, đă từng nói … ông ta rất mực bị ấn tượng bởi
Thiền, và rất nhiều những câu phát biểu của ông đều mang phong
vị rất Thiền, phẩm chất của Thiền. Một trong những phát biểu
rất mực quan trọng của ông ta và rất có ư nghĩa khi phát xuất
từ cửa miệng của một triết gia phương Tây là ở trong tác phẩm
Tractatus Logico-Philosophicus, khi ông nói, “Cái ǵ không thể
nói được bằng lời th́ cũng đừng nên cố gắng.”
Cái ǵ không thể nói được bằng lời th́ cũng đừng nên nói làm
ǵ cả. Ta nên giữ yên lặng. Đó là những ǵ mà vi Thiền sư này
đang làm –không nói một lời nào cả, ông ta đang làm một cử chỉ
nhỏ. Trước tiên, ông ta nói, “Ha! ha! ha!” Tức là ông ta đang
cười, cười đến bể bụng. Chắc đây là một cú sốc đối với những
người đang đi t́m cầu giác ngộ. Bạn không chờ đợi một chuyện
như thế xảy ra, khi bạn bị ông thầy đối xử không được nghiêm
túc chút nào.
Những người t́m cầu giác ngộ là những người rất mực đứng đắn,
những khuôn mặt chảy dài nghiêm trọng. C̣n ở đây cái ông này,
đang ngồi ngất ngưởng trên pháp toà và cười cợt, “Ha! ha! ha!”
Cái bài pháp ǵ vậy? Nhưng chớ vội ngạc nhiên, đây là một buổi
giảng Thiền. Ông thầy đang cười vàocái chuyện phi lư là bạn
đang nỗ lực đi t́m cầu giác ngộ. Giác ngộ không thể t́m cầu
–đó là thông điệp của ông ta. Ông ta đang chế diễu đại chúng.
Ông ta đang hàm ư rằng, “Mấy người thật khôi hài! Ha! ha! ha!
Mấy người dở hơi quá, ngu xuẩn quá. Giác ngộ không thể t́m
cầu, nó không phải là một cái ǵ đó cụ thể để mấy người chạy
đi kiếm, đi t́m. Nó cũng không phải là một cái ǵ đó để mấy
người vươn tới, đạt đến. Nó đă có sẵn ở đó. Và tất cả những ǵ
cần đến là chỉ việc buông bỏ cái sự nghiêm trọng của mấy người
đi. Mĩm cười lên một tí đi chứ.”
Buông bỏ cái vẻ nghiêm trọng đi, buông bỏ luôn cái u mê đần
độn của bạn. Và cũng đừng quên buôn bỏ luôn cái tâm lăng xăng
kiếm t́m của bạn –cái tâm này phải rất mực nghiêm trọng, bởi
v́ niềm hy vọng của bạn đang nằm ở tương lai: một ngày nào đó
khi bạn đạt đến, bạn sẽ cả cười. Và rồi ông thầy báo cho bạn
biết, “Khỏi phải chờ đợi! Bạn có thể cười ngay bây giờ!”
Giác ngộ không phải là một cái ǵ đó đang nằm chờ sẵn ở tương
lai, nó đă có sẵn ở đó trong bạn, nó đang sủi tăm lên –nó muốn
trồi lên trên bề mặt, muốn đơm hoa kết trái, thế nhưng bởi v́
bạn quá mức quan tâm đến chuyện kiếm t́m, đầu óc bạn tràn ngập
bởi chuyện kiếm t́m, thế nên bạn đă không nh́n vào bên trong.
Nó đă có mặt sẵn ở đó, c̣n bạn th́ đang chạy đi t́m kiếm ở bên
ngoài. Đó là ư nghĩa của tiếng cười “Ha! ha! ha!”
Nếu bạn hiểu được tại sao ông thầy đang chế diễu … người ta
đến đây là để t́m kiếm đời sống tâm linh tín ngưỡng, tại sao
ông thầy lại cười vào mặt họ? Tại sao ông ta đang cố t́nh làm
cho họ cảm thấy ḿnh xuẩn động? Th́ bởi v́ họ xuẩn động thật!
Thượng Đế không thể được kiếm t́m, Thượng Đế ở ngay đây. Bởi
v́ bạn kiếm t́m, đó là lư do tại sao bạn lạc lối. Buông bỏ tất
cả mọi sự kiếm t́m, buông bỏ tất cả mọi tham cầu, buông bỏ tất
cả tương lai, hy vọng -thế rồi bỗng dưng bạn không c̣n có mặt
ở đó mà chính là Thượng Đế.
Bạn hiện hữu trong sự kiếm t́m của bạn; tâm của kẻ thành đạt
chỉ là cái ngă. Bạn muốn có tiền, bạn muốn thiền định, bạn
muốn quyền lực, và rồi một ngày bạn muốn cả thiên đường –luôn
luôn tham muốn một cái ǵ đó. Cái ḷng tham muốn của bạn không
bao giờ ngừng lại. Cái giác ngộ này, cùng sự t́m cầu giác ngộ,
cũng là một đối tượng mới cho sự tham cầu. Thế nên không thể
không bật ra tiếng cười. Vị thiền sư đă cười vào mặt họ, làm
cho họ tĩnh thức: “Đừng có khôi hài như thế nữa.”
Nếu bạn t́m đến một vị Thiền sư và hỏi rằng: “Tôi muốn biết
Thượng Đế”, ông ta có thể sẽ tống cho bạn một đạp và trả lời,
“Hỏi cái kiểu ǵ mà ngu thế? Nhà ngươi đang là thượng đế mà!
Làm sao mà một thượng đế lại cố gắng để trở thành một thượng
đế được?” Cũng chẳng khác ǵ một trái xoài nêu câu hỏi, “Làm
sao để tôi có thể trở thành một trái xoài?” Hay như cây bách
ngoài vườn kia băn khoăn, “Làm sao để tôi trở thành một cây
bách?” Bạn sẽ trả lời với nó như thế nào đây? Dĩ nhiên bạn sẽ
cười lên ha hả, “Ha! ha! ha! Th́ mi đă là một cây bách rồi!
Chứ là cái ǵ đây?” Đó chính là thông điệp của vị thiền sư,
ông ta bảo: Bạn đang t́m kiếm cái ǵ thế? Tất cả những chuyện
vô nghĩa này là cái quái quỷ ǵ vậy? Ngưng t́m kiếm đi, chỉ
việc nhận ra nó. Đừng t́m kiếm ǵ cả, nhận ra nó thôi.
Picasso cũng đă nói một câu tuyệt vời, “Tôi không t́m kiếm ǵ
cả, tôi chỉ nhận ra.”
“Về hậu liêu và uống trà đi ...” Đây là một h́nh ảnh
rất mực biểu trưng. Cái sự t́m cầu này, cái mong muốn để đạt
đến một cái ǵ đó thực ra cũng chỉ là một thứ ngă t́m cầu, một
nỗ lực của tự ngă để được đứng hàng đầu. Bạn muốn ḿnh có một
trương mục kếch xù lớn nhất thế giới; bạn muốn chường mặt ra
phía trước, bạn muốn ḿnh là người số một trên thế gian; bạn
muốn trở thành một ông tổng thống, một ông thủ tướng; bạn muốn
cái này muốn cái kia -tuy nhiên cái kiếm t́m căn bản là: Bạn
muốn tất cả những người khác đều xếp hàng sau lưng bạn, bạn
muốn là kẻ đứng ở đầu hàng. Bạn muốn ḿnh là người số một trên
thế giới -đẹp nhất, quyền lực nhất, giàu có nhất, kiến thức
nhất. Cho đến một ngày bạn nhận thấy rằng đây là điều bất khả.
Thế là bạn khởi lên cái ư niệm, “Bây giờ ta nên trở thành một
ông Phật -một kẻ giác ngộ vào bậc nhất.”
Thế nhưng đây cũng lại chỉ cùng một cái tâm khùng điên, nó tạo
ra những tham cầu mới, những cơn mộng mới.
Và vị Thiền sư bảo đại chúng, “Về hậu liêu và uống trà đi!”
Ông ta đang nói cái ǵ vậy? Ông ta hàm ư rằng: Hăy quên tất cả
mọi nỗ lực để trở thành kẻ đứng hàng đầu. Hăy lui về đứng ở
đằng sau đi.
Đó cũng là những ǵ mà Chúa Giêsu đă dạy: “Bất cứ những ai là
người số một trong thế gian này sẽ là người cuối cùng vào được
vương quốc của Cha ta. Và những ai ở tận cùng sẽ là kẻ bước
vào đầu tiên.”
Vị Thiền sư bảo mọi người, “Về hậu liêu và uống trà đi!”
Trà là một biểu tượng -một ẩn dụ trong Thiền. Trà trở thành
một ẩn dụ lớn trong Thiền bởi v́ trà mang lại sự tĩnh thức.
Nếu bạn uống quá nhiều trà, bạn sẽ bị mất ngủ. Nếu bạn đang
buồn ngủ, bạn chỉ cần một tách trà là tỉnh ngủ ngay. Thế nên
trà đă trở thành một h́nh ảnh tượng trưng, Và vị Thiền sư bảo
mọi người, “Về hậu liêu và uống trà đi!” Có nghĩa là,
hăy đứng ở đằng sau, hăy là người cuối cùng trên thế gian
này, và hăy trở nên tĩnh thức! Như thế rồi các người sẽ tham
dự cùng ta trong cái cười thỏa thuê “Ha! ha! ha!” này. Các
người sẽ cười lớn trước cái toàn bộ xuẩn động phi lư này. Các
người mất nó bởi v́ các người đang kiếm t́m, đang nỗ lực để
nắm bắt nó.
Cái khoảnh khắc mà bạn chấm dứt tham cầu, nó có mặt ở đó.
Nhưng cũng có lúc bạn ngưng tham cầu mà nó không có ở đó.
Chẳng hạn như lúc bạn đang ngủ ngon -bạn không c̣n tham cầu ǵ
cả, nhưng nó không hề có mặt. Thế là bạn cần một tách trà rồi
đó. Trong giấc ngủ say bạn không hề tham cầu, không nghĩ đến
tiền bạc –ngay cả không nằm mơ nữa. Tất cả đều dừng lại, cái
tâm ngưng nghỉ, thế nhưng bạn vẫn không thể đạt đến Phật quả.
Tại sao? Trong giấc ngủ say, bạn trở thành một ông Phật hằng
đêm. Thế nhưng bạn không nhận ra, bởi v́ lúc đó bạn không hề
tĩnh thức.
Thế nên hăy lui lại đàng sau và uống một tách trà. Và nhớ đừng
có hỏi han chuyện giác ngộ là cái ǵ, làm thế nào để đạt đến,
cũng đừng hỏi đến những phương pháp, kỹ thuật, triết lư làm
ǵ.
“Cái ǵ thế này?” Vị Thiền sư cho rằng tất cả đều là vô
nghĩa. Nói điều này xong, bước xuống, ông ta bỏ đi. Bài
giảng của ông ta chấm dứt. Một bài giảng ngắn nhất –nhưng cũng
là một trong những bài sâu sắc nhất.
Và bây giờ th́ cũng đừng nên bắt đầu suy nghĩ về nó nữa! Đừng
khởi sự suy nghĩ về nó, nếu không bạn sẽ làm rơi mất cái thông
điệp. Hăy lui lại đàng sau và uống một tách trà đi. |