Nổ Bùng Tuệ
Giác
Một nhóm trẻ con đang chơi đùa cạnh bờ sông. Chúng đắp lên
những lâu đài bằng cát và mỗi đứa đều bảo vệ cái của mình,
“Cái này là của tao.” Chúng giữ cho mỗi lâu đài tách biệt ra
để khỏi bị nhầm lẫn của đứa này với đứa khác. Khi tất cả những
lâu đài hoàn tất, một đứa trẻ đã đá tung vào lâu đài của một
đứa khác và phá hủy toàn bộ. Chủ nhân của chiếc lâu đài này vô
cùng giận dữ, đã túm lấy tóc y, đấm vào mặt y rồi kêu gọi bạn
bè đến trợ lực, “Thằng này đã phá hư lâu đài của tao. Tụi bay
đến đây giúp tao trừng trị nó.” Tất cả những đứa trẻ khác liền
chạy đến. Chúng xúm vào đánh kẻ phá bỉnh bằng gậy, dẫm lên
mình y khi y ngã xuống đất.
Thế rồi chúng trở lại tiếp tục chơi trò chơi xây lâu đài
bằng cát của chúng, mỗi đứa đều xác định, “Cái này là của tao;
không ai có quyền trên cái này. Dang xa ra. Đừng có đụng vào
lâu đài của tao!”
Nhưng hoàng hôn xuống dần. Trời đã chập choạng tối và tất
cả bọn trẻ đều nghĩ đến việc phải về nhà. Bây giờ thì chẳng
còn đứa trẻ nào quan tâm đến những gì sẽ xảy ra cho những ngôi
lâu đài của chúng. Có đứa dẫm chân lên, có đứa lấy tay xoá
chúng đi. Xong, ai nấy đều quay trở về nhà mình.
Đời sống là một nghịch lý. Nó hiện hữu thông qua nghịch lý; đó
là cách thế chính của tồn sinh. Cái bánh xe quay quanh một
trục cố định và ngay chính trung tâm của cơn lốc xoáy là sự
tĩnh lặng. Ngay chính trong cốt lõi của sự sống đã ươm mầm cái
chết. Vạn hữu tồn tại như thế, cuộc tồn sinh là một mâu thuẫn
không ngừng.
Cuộc sống tiếp tục mâu thuẫn với chính nó và từ trong lòng sự
mâu thuẫn này sản sinh ra năng lượng sự sống. Từ trong sức
căng giữa những mâu thuẫn là toàn bộ vở kịch đời, là cuộc chơi.
Đấy là biện chứng –chính đề và phản đề. Và sự xung đột không
ngưng nghỉ giữa chính đề và phản đề đã tạo ra năng lượng,
phóng thích ra năng lượng.
Bạn có thể đưa mắt nhìn ra chung quanh và ở đâu rồi bạn cũng
sẽ thấy sự mâu thuẫn đang vận hành -giữa âm và dương, giữa
ngày và đêm, giữa mùa hè và mùa đông, giữa thành công và thất
bại, giữa khai sinh và mục rửa úa tàn. Ngay chính trên nền
tảng của sự nghịch lý mà cuộc chơi không ngừng diễn ra, ở khắp
mọi nơi. Nếu bạn không thấu hiểu điều này, bạn sẽ mãi đắm chìm
trong bất hạnh. Nếu bạn không thấu hiểu điều này, nếu nó không
thấm sâu vào tâm hồn bạn và trở thành ánh sáng tuệ giác, bạn
sẽ vẫn sống mãi hoài trong thống khổ. Bởi vì bạn sẽ không bao
giờ có thể cảm nhận được rằng sự mâu thuẫn này thực ra không
phải là mâu thuẫn; những đối kháng thực ra đã vận hành như là
những bổ sung.
Một khi vấn đề này được soi sáng thì đời sống biến thành giác
ngộ. Lúc đó bạn sống hoàn toàn trong tỉnh thức. Lúc đó bạn sẽ
thấy cái chết không có gì là trái khoáy –không những thế, bạn
còn hiểu được rằng không có cái chết sự sống sẽ không được ươm
mầm.
Như thế, chính sự sống đã nợ nần cái chết. Cái chết đã không
hề chống đối sự sống, nó là bạn thân chứ không phải kẻ thù.
Khi hiểu rõ điều này, nỗi sợ hãi cái chết tan biến. Khi hiểu
rõ điều này, tất cả những nỗi thống khổ, những bồn chồn lo âu
cũng biến mất theo. Khi hiểu rõ điều này, một mối hân hoan vô
bờ sẽ khởi dậy trong bạn. Còn nếu không, mối xung đột sẽ không
bao giờ ngưng nghỉ. Khổ đau của bạn gây ra bởi ngộ nhận. Ngộ
nhận là nguyên nhân của khổ đau, tri kiến là đầu mối của cực
lạc.
Bây giờ hãy đi xuyên sâu vào trong tận cùng cốt lõi của bạn để
xem thử mọi chuyện ở đó như thế nào và bạn đang làm gì với
chúng. Bằng cái nhìn hướng nội ta sẽ thấy rằng ngay trong cái
cốt lỏi đó chỉ là đơn thuần rỗng không. Đó là lý do tại sao
con người không dám nhìn thẳng vào bên trong.
Socrates đã không ngừng nhắc nhở, “Hãy tự biết mình.” Bộ Áo
Nghĩa Thư cũng tiếp tục kêu lên, “Hãy đi vào nội tâm! Mở ra
một cuộc hành trình hướng nội.” Đức Phật cũng đã từng thuyết
phục bạn như thế, nhưng bạn thì cứ mãi hướng ngoại. Bạn không
hề quan tâm đến lời Phật dạy. Và cho dù có lắng nghe, bạn cũng
chỉ lắng nghe bằng nữa lỗ tai mình –nghe đó rồi quên đó. Bởi
vì tận trong sâu thẳm của vấn đề bạn biết rằng cái nhìn hướng
nội cũng có nghĩa là nhìn thẳng vào hư vô. Sẽ không có gì ở đó.
Và đây quả là điều đáng sợ, kinh khiếp.
Ngay tại cốt lỏi là rỗng không, là hư vô. Cái bánh xe của vạn
pháp chuyển động chung quanh chiếc trục của hư vô. Thế nên,
kinh hãi trước một nội tại rỗng không, chúng ta đã đổ xô tìm
đến cái thế giới ngoại tại này. Mối kinh hoàng trước tình
trạng phi-hữu của chính mình đã dẫn con người hối hả chạy đi
trên muôn ngàn lối rẽ. Đó là cái mà Thiền gia gọi là “thế giới
ta bà”. Bạn cứ không ngừng chạy vào hướng này, chạy qua hướng
khác. Bạn phải chạy tất bật như thế bởi vì nếu không,
bạn sẽ bị rơi tỏm vào hư vô… và đó chính là nỗi sợ. Bạn sợ hãi
chuyện đó -bạn không muốn nhìn thấy một điều là bạn không thực
sự hiện hữu.
Cái hữu thể của bạn là phi-hữu và bạn chưa sẵn sàng để nhìn
thẳng vào đó, để chấp nhận nó. Bạn chỉ là một cái thây ma sống.
Cái chết có mặt ở đó và ngay chính cốt lõi của sinh thể bạn
chỉ là rỗng không –cái mà Đức Phật gọi là anatta, vô
ngã. Không hề có một cái ngã thường hằng, không hề có một hữu
thể, không hề có một cái “Ta”. Và thế rồi bằng cách nào đó,
con người đã hiểu được chuyện này -thế là không còn ai hướng
nội nữa, người ta hướng ngoại. Với hướng ngoại, bạn có thể gạt
gẫm chính mình, lừa dối chính mình. Bạn có thể tạo ra một ngàn
lẻ một cuộc chơi và đắm chìm trong đó –dĩ nhiên là chúng chẳng
giúp ích được gì cho bạn, nhưng ít ra cũng để cho bạn qua thì
giờ. Bạn có thể trở nên mê đắm trong đó bởi vì chỉ trong những
giây phút đắm say đó mà bạn có thể quên đi cái nội tại rỗng
không của mình.
Tuy nhiên cái nội tại rỗng không này không phải là một ngẫu
nhiên. Nó không hề là một tình cờ mà chính là cái bản thể uyên
nguyên của bạn. Thế nên bạn không thể nào chạy trốn khỏi nó,
cho dù bạn muốn làm cách gì đi nữa. Không ai có thể đào thoát
khỏi nó. Bạn có thể tiếp tục trì hoãn, bạn có thể tiếp tục
khất lại, tuy nhiên không sớm thì muộn rồi bạn cũng phải thực
chứng cái kinh nghiệm này.
Và cái ngày đó, ngày mà bạn nhận ra được cái nột tại phi hữu
của mình, sẽ là môt ngày tràn ngập ân sủng. Bởi vì với kinh
nghiệm thực chứng này, tất cả mối lo sợ của bạn từ nay tan
biến. Khi nhận ra được rằng mình không thực sự hiện hữu, làm
sao mà bạn còn sợ hãi được -sợ cái gì? tại sao sợ? mà ai
là người sợ đây? Một khi bạn thấy rằng mình không thực sự hiện
hữu, còn chỗ nào để tham ái nẩy sinh? Với ai? Cho ai? Từ ai?
Vì Tanha -Ái- đã diệt nên Hữu không còn.
(1)
Khi bạn không thực sự hiện hữu, làm thế nào mà bạn còn có ý
niệm về hữu nữa? Nhận ra cái phi hữu của mình cho ta một niềm
an bình lớn lao. Từ đây kẻ kiếm tìm biến mất, kẻ tham ái biến
mất, làm sao còn kiếm ra kẻ sở hữu? Thế là cả cái nền móng đã
sụp đổ -kéo theo toàn bộ cái lâu đài làm bằng những quân bài
cũng sụp đổ theo.
Trừ phi bạn nhận ra cái phi hữu nội tại này –cái vô ngã, cái
phi hữu hay là cái chết đó … Nhà Thiền gọi đó là “đại tử”, bởi
vì đây không phải là cái chết đời thường. Cái chết của đời
thường chẳng có gì đặc biệt -bạn chết ở chỗ này, rồi bạn lại
sanh ra ở chỗ kia ngay lập tức. Bạn rời bỏ một xác thân này –ngay
cả khi bạn chưa hoàn toàn từ bỏ nó, bạn đã chui vào một bào
thai khác rồi. Chẳng có gì là đặc biệt.
Cái chết thực sự là khi bạn mặt đối mặt với cái nội tại phi
hữu của bạn, đối mặt với cái hố thẳm đó. Người ta kinh hoàng,
người ta muốn chạy dang ra khỏi nó. Có người muốn bỏ nó lại ở
đằng sau, có người muốn lấp đầy hố thẳm. Đó là những gì mà con
người cứ tiếp tục làm hoài không thấy chán.
Cõi trầm luân sinh tử này –sansara- chẳng là gì cả
ngoài nỗ lực để lấp đầy cái khoảng trống nội tại. Người ta lấp
đầy nó bằng tiền tài, bằng gái đẹp, bằng trai tơ, bằng quyền
lực, bằng bất cứ thứ gì –nhà cao cửa rộng, danh vọng quyền uy-
phải lấp đầy. Tiếp tục liệng đủ thứ vào đó –cho đến một ngày
đủ để bạn có thể cảm nhận rằng mình là cái gì đó, là một nhân
vật nào đó, mình không phải là thứ vô danh tiểu tốt. Thế nhưng
chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra, sẽ không thể nào xảy ra.
Bởi vì cái hố thẵm đó là không đáy -bạn cứ tiếp tục liệng đủ
thứ vào và chúng cứ tiếp tục biến mất.
Có một câu chuyện khá nổi tiếng của huyền môn phái Sufi. Một
tên hành khất định đến gặp vị đương kim hoàng đế. Thời may, vị
hoàng đế vừa xuất cung để đi tản bộ buổi sáng. Thấy người hành
khất đứng bên đường, nhà vua hỏi, “Nhà ngươi muốn gì?” Người
hành khất cả cười, “Cái cách nói của ngài –nhà ngươi muốn gì?-
làm như nhà vua có thể thoả mãn được mọi ước vọng của tôi!”
Cảm thấy bị thách đố, vị hoàng đế không chịu thua, “Được rồi,
ta có thể làm thoả mãn ước vọng của ngươi. Cho ta biết, ngươi
muốn gì?” Người hành khất cảnh cáo, “Hãy suy nghĩ kỹ trước khi
ngài hứa hẹn bất cứ điều gì.”
Dĩ nhiên tên hành khất này không phải là một tên hành khất tầm
thường, ông ta chính là vị thầy dạy đạo cũ của vị hoàng đế
trong tiền kiếp. Và vị đạo sư này đã nguyện rằng, “Ta sẽ tái
sinh trở lại để cứu độ ngươi một lần nữa trong kiếp tới. Kiếp
này ngươi đã lỡ -nhưng ta sẽ trở lại.”
Tuy nhiên vị hoàng đế đã hoàn toàn quên hết chuyện xưa –có ai
nhớ lại được tiền kiếp của mình đâu? Thế nên ông ta tiếp tục
khẳng định, “Cứ cho ta biết và ta sẽ thoả mãn điều ước muốn
của ngươi. Ta là một đại hoàng đế -cái gì nhà ngươi muốn mà ta
lại không thể thoả mãn được?”
Đến đây người hành khất trả lời, “Ước muốn của tôi rất đơn
giản. Ngài có thấy cái bát xin cơm của tôi không? Xin vui lòng
làm đầy nó cho tôi. Ngài có thể bỏ vào đó bất cứ cái gì. Tôi
không đòi hỏi kim cương hay vàng bạc châu báu -cứ bỏ vào bất
cứ cái gì! Ngài có thể làm đầy nó không?”
Vị Hoàng đế cười, “Được rồi! Ngươi có khùng không? Tại sao ta
lại không thể làm đầy nó được?” Xong ông ta kêu người hầu cận,
“Bỏ tiền vào cái bát của tên hành khất kia.” Vị quan hầu tuân
lệnh. Đây chỉ là một cái bình bát nhỏ, nhưng rồi nhà vua bỗng
cảm thấy kinh hoàng. Bao nhiêu tiền bạc bỏ vào đó, nó cứ tiếp
tục biến mất. Cái bình bát cứ tiếp tục trống rỗng, trống rỗng
và trống rỗng.
Cả hoàng gia đều chạy đến. Và rồi tin đồn lan nhanh khắp cả
kinh thành, dân chúng cũng ùn ùn kéo đến từ khắp mọi nơi. Cả
một đám đông bao quanh, danh dự và uy tín của nhà vua đang bị
đe dọa, lâm nguy. Nhưng ông ta là người nói đâu ra đấy. Thế
nên nhà vua bảo vị quan hầu cận, “Nếu có bị mất hết cái vương
quốc này ta cũng sẵn sàng đánh đổi, nhưng ta không thể nào
thua cuộc tên ăn mày này. Cái bát này quả thật kỳ diệu –nhưng
ta sẽ phải chứng tỏ được là ta sẽ làm đầy nó.”
Thế rồi cái kho tàng tài sản của nhà vua cũng đã được đổ hết
vào đó, và tiếp tục biến mất. Người ta chạy tới chạy lui từ
hoàng cung cố gắng bỏ vào đó bất cứ cái gì –nhưng cái bình bát
này có vẻ như là không đáy, tất cả mọi thứ đều biến mất ở
trong đó. Một khi đã bỏ cái gì vào, bạn không bao giờ còn
trông thấy nó nữa, nó không còn hiện hữu nữa. Nó đã bị giải
chất -hoặc đại khái như thế.
Và rồi kim cương, ngọc ngà châu báu … tuần tự biến mất. Lập
tức vị quan hầu cận bảo nhà vua, “Không ổn rồi. Bệ hạ phải
chấp nhận thua cuộc thôi. Tên ăn mày này không phải là một tên
ăn mày tầm thường, chắc vậy. Y muốn trao cho Bệ hạ một thông
điệp gì đó. Ngài nên đầu hàng đi thôi.”
Trời đã tối, cả hoàng cung đều tụ tập nơi đây và dân chúng bao
quanh trong tuyệt đối im lặng. Người ta chờ đợi trong kích
động một biến cố lớn lao, “Điều gì sẽ xảy ra đây?” Cuối cùng,
vị hoàng đế đã phủ phục xuống chân người ăn mày, “Thưa ngài,
xin lỗi ngài. Tôi đã sai lầm khi cho rằng mình có đủ thứ. Thật
ra tôi chẳng có gì cả để làm đầy cái bát của ngài. Bây giờ chỉ
có một điều –có gì bí ẩn trong cái bình bát này? Làm ơn cho
tôi biết một điều duy nhất. Tôi chấp nhận thua cuộc, ngài là
kẻ chiến thắng –tuy nhiên trước khi ngài rời tôi, xin làm ơn
thoả mãn điều tò mò duy nhất của tôi: Cái bình bát này được
làm bằng cái gì?”
Người hành khất cười lớn, trả lời, “Thế là ông không nhớ tới
tôi một chút nào cả sao? Ông đã hoàn toàn quên mất tôi rồi sao?
Hãy nhìn thẳng vào mắt tôi! Tôi là vị đạo sư cũ của ông đây.
Và đây là điều mà tôi cũng đã từng dạy ông trong tiền kiếp,
nhưng ông chẳng hề lắng nghe. Cái bình bát này không có gì ma
thuật trong đó. Cái bình bát này chi đơn giản làm bởi tâm của
con người. Không có gì bí ẩn trong đó cả. Tâm con người là như
thế đó.”
Cái bình bát bí ẩn! Bạn cứ tiếp tục liệng vào đó đủ thứ -liệng
cả cái thế giới này vào và rồi tất cả đều giải chất, biến mất.
Tâm của con người không bao giờ cảm thấy thoả mãn, không bao
giờ, không bao giờ.
Có bao giờ bạn gặp một người đã thoả mãn chưa? Nếu bạn đã từng
gặp một người như thế, chắc chắn y sẽ là người hoàn toàn chấp
nhận cái tánh không rỗng rang của mình. Đó là ý nghĩa của một
vị Phật. Đó là ý nghĩa của giác ngộ -là người mà cái tánh
không của y đã toả chiếu, sáng ngời rực rỡ. Y biết được rằng,
“Đây là ta, đây là cái sinh thể của ta. Cái phi hữu này mới
chính thực là sinh thể của ta.” Và rồi y chấp nhận nó. Bây giờ
không còn một nỗ lực nào để hủy diệt hoặc lấp đầy nó. Nó đã
trở thành một như thị tuyệt vời.
Cái tri kiến này đã chuyển đổi đời sống. Bằng không bạn sẽ cứ
mãi hoài tất bật. Hãy thử đi vào lòng tham đắm của một người:
đâu là cái động cơ của lòng thăm đắm đó? Khi bạn tham đắm một
cái gì, một sự bức xúc lớn lao tràn ngập con người bạn, một sự
rung động cực kỳ, thúc đẩy phiêu lưu. Bạn cảm thấy như có được
một sức bật mạnh mẽ. Đối tượng như đang ở trong tầm tay, bạn
sắp sửa túm được nó. Bạn sẽ có nhà cao cửa rộng, cái vườn xinh
xắn kia, người đẹp này, chiếc du thuyền, cái xe hơi sang trọng
-bạn sẽ có nó trong tay, và tất cả tạo nên sự bức xúc. Thế rồi
bạn có đủ cả, chiếc xe, cái nhà, chiếc du thuyền, người đẹp …
và bỗng nhiên, tất cả đều trở thành vô nghĩa.
Điều gì đã xảy ra? Chính cái tâm của bạn đã giải chất chúng.
Chiếc xe đang đậu trước cổng, nhưng bỗng dưng bạn không còn
cảm thấy thích thú nữa. Nỗi bức xúc chỉ là làm sao để có được
chiếc xe đó, thế là bạn đã bị lôi cuốn vào trong sự thôi thúc
này. Một khi đã bị cuốn hút vào đó, bạn đã quên đi cái tánh
không của mình. Bạn bị lôi cuốn tới mức mà cái tâm của bạn đã
hoàn toàn bị chế ngự bởi lòng tham muốn. Bạn say sưa với nỗi
tham đắm của bạn tới mức bạn quên luôn cái rỗng rang nội tại
của mình. Bây giờ thì lòng tham muốn đã được thoả mãn, chiếc
xe đang đậu ở ngoài cổng, người đẹp đang ở trong phòng, tiền
bạc đang ở trong nhà băng –và rồi, niềm thích thú biến mất.
Cái trống rỗng lại sừng sững hiện đến, đang ngoác mồm ra ở
trong bạn như sẵn sàng ăn tươi nuốt sống bạn.
Thế là bạn lại phải tạo ra một sự tham muốn khác nhằm trốn
chạy cái miệng hố đó, trốn chạy bóng dáng cái chết đang chờ
đợi bạn ở nơi kia. Nó có thể nuốt chững bạn chỉ trong nháy mắt
-nếu bạn không bám chắc vào cái gì đó, nó sẽ nuốt bạn thôi.
Thế là bạn bắt đầu trở lại. Bạn nghĩ đến những cái nhà khác,
những người đàn bà khác, những nơi chốn khác, những phố thị
khác…
Đó là cách thế mà con người không ngừng chạy từ sự tham đắm
này đến một tham đắm khác. Đó là lý do tại sao con người cứ
mãi như là một tên hành khất. Từ sự tham đắm này qua sự tham
đắm khác, con người đã gõ lên cả một ngàn lẻ một cánh cửa. Thế
nhưng chẳng hề có cái nào được thoả mãn.
Bạn có thấy không, những kẻ trưởng giả giàu có thường là những
kẻ buồn chán nhất trên thế gian này? Tại sao? Tất cả sự tham
muốn của họ đã được thoả mãn –cũng có nghĩa là chẳng có gì
được thoả mãn hết. Họ đã có ngôi nhà đẹp nhất mà họ mong muốn
-rồi sao? Bây giờ thì họ không thể nghĩ về một ngôi nhà nào
đẹp đẽ hơn nữa. Tôi được biết một vài người giàu có, họ có đủ
tất cả những gì có thể có. Rồi sao? Bỗng dưng họ rơi vào ngỏ
cụt.
Có lần một nhà chiêm tinh nói với Đại Đế A Lịch Sơn: “Thưa
Ngài, ngài sẽ có trong tay cả thế giới này. Đó là số mệnh của
ngài, ngài sẽ chiến thắng tất cả. Nhưng tôi muốn nhắc nhở ngài
một điều: Khi ngài đã chiếm được cả thế giới này, rồi ngài sẽ
làm gì? Bởi vì sẽ không còn một thế giới nào khác nữa.”
Và câu chuyện kể lại rằng, đây là lần đầu tiên trong cuộc đời
của Đại Đế A Lịch Sơn, ông cảm thấy rất buồn rầu. Bỗng dưng
cái ý tưởng, cái ý tưởng cơ bản này thật là kinh hoàng –“Ngài
sẽ chiến thắng khắp cả thế giới này, rồi sao nữa?” Bạn có thể
hiểu được, trong giây phút đó bỗng dưng ông ta bị liệng trở
lại với nỗi trống rỗng của đời mình.
Vâng, bạn có thể có trong tay cả cái thế giới này, nhưng với
cái tâm của bạn như thế, tất cả rồi cũng sẽ trở thành vô nghĩa.
Cái giây phút bạn chiếm lĩnh được nó, nó sẽ không còn ý nghĩa
gì nữa. Hãy thấy cái luận lý của vấn đề: Cái khoảnh khắc mà
bạn đạt được một cái gì đó, ngay lập tức nó sẽ trở thành vô
nghĩa. Nếu có đủ trí thông minh bạn sẽ nhận ra ngay chuyện này.
Khi chiếc xe đẹp đã đậu trước cổng nhà, nó trở thành vô nghĩa.
Khi người đẹp ở trong phòng bạn, cái ý nghĩa của nó cũng đã
biến mất rồi.
Tôi đã từng được nghe những giai thoại về Lord Byron
(2), một trong những đại thi hào của Anh quốc, rằng ông
ta yêu không biết bao nhiêu là phụ nữ -khoảng chừng sáu chục
người trong suốt cuộc đời ông. Ông ta yêu hôm nay và kết thúc
ngày hôm sau –ông ta làm tình chỉ một lần với một người đàn bà,
và thế là chấm dứt. Ông ta phải là người cực kỳ thông minh,
nếu sinh ra ở Ấn Độ, không chừng ông ta có thể đạt thành chánh
quả.
Cuối cùng một phụ nữ đã thuyết phục được Byron kết hôn với
mình, bởi vì nàng ta không cho phép ông làm tình với mình trừ
phi họ thành vợ chồng. Bà ta biết rằng Byron đã đi qua đời
không biết bao nhiêu phụ nữ, và một khi ông ta làm tình với ai,
người đó chẳng còn ý nghĩa gì đối với ông ta nữa. Ông ta sẽ
quay mặt đi làm như chẳng hề quen biết gì với họ. Tất cả mọi
năng lực, tất cả tình yêu, tất cả những lãng mạn của ông đều
như tan biến đi.
Khi biết được như vậy, một phụ nữ đã cương quyết không cho ông
ta đụng đến thân mình khi họ chưa kết hôn. Điều này đã làm cho
Byron vô cùng phấn khích –và lẽ tự nhiên là càng bị khước từ
chừng nào càng gợi lòng tham muốn của Byron chừng nấy. Ông ta
hầu như muốn điên lên vì người đàn bà này. Cuối cùng ông ta
đồng ý kết hôn.
Một người quả là rất mực khùng điên mới đi kết hôn –nếu không
khùng thì cũng mát giây. Và phụ nữ thì có trực giác rất nhạy
bén về vấn đề này. Họ không cho phép người đàn ông có quan hệ
quá thân mật với mình trừ phi họ cảm thấy được ổn thỏa với
chuyện hôn nhân, trừ phi họ thấy được bảo vệ bởi luật pháp.
Trừ phi có sự bảo đảm vững chắc bằng luật pháp, tình yêu của
họ sẽ tan biến đi như giọt sương mai trong nắng sớm. Hôn nhân
là một bảo đảm pháp lý vững chắc, bạn có thể tin cậy vào đó.
Đằng sau nó có cả toà án, cảnh sát lẫn quan toà.
Tình yêu chỉ như là một hạt sương mong manh –trong nắng mai nó
có thể tan biến đi trong khoảnh khắc. Vừa mới thấy đây, trong
phút giây thôi đã biến mất rồi; bạn không thể nào tin cậy vào
nó. Phụ nữ rất là thực tế, họ có trực giác để nhận biết rằng
tình yêu không tồn tại lâu dài. Thế cho nên trước khi nó tan
biến đi, bạn cần có pháp lý vững chắc để giúp bạn.
Người phụ nữ này quả tình rất thông minh, bà ta buộc Byron
phải tiến đến hôn nhân. Thế là ông ta không thể nào từ chối.
Trong khi họ đến nhà thờ làm lễ cưới –trong khi chuông thánh
lễ còn đang rung, khách khứa đang chào hỏi, chúc mừng… Tay
trong tay, họ rời khỏi nhà thờ, bước xuống những tầng cấp -bỗng
nhiên tân nương có cảm giác rằng Byron như đã bị hớp hồn. Ông
ta vừa trông thấy bóng dáng một bóng hồng vừa bước ngang qua
đường. Thế là đang bước đi, nhưng hồn của ông ta đã không còn
ở đó nữa. Đôi tay đang ở đây, nhưng chẳng khác gì bàn tay của
xác chết -nỗi rạo rực của tình yêu không còn, trái tim của ông
ta không còn lưu dấu ở trong bàn tay đó nữa. Cảm nhận điều này,
tân nương cất tiếng, “Anh đang suy nghĩ điều gì? Tâm hồn của
anh đang ở đâu rồi?”
Về mặt này thì Byron rất thành thực. Ông ta thú thật, “Xin lỗi
em, thế nhưng cuộc hôn nhân của chúng ta có vẻ như đã kết thúc.
Cái cô gái vừa đi ngang qua đã hớp hồn anh rồi. Anh biết rằng
chỉ mới vài giờ đồng hồ trước đây, anh đã say đắm em, và sẵn
sàng để làm mọi thứ, kể cả chết vì em nếu cần. Thế rồi bỗng
dưng khi biết em đã hoàn toàn thuộc về anh, nó không còn cho
anh cái hứng khởi của một cuộc phiêu lưu. Bây giờ bàn tay em ở
trong tay anh; anh đã chiếm được em, và rồi tất cả những khao
khát để chiếm được em đã tan biến đi mất.”
Tôi rất thích cái ông Byron này, một người rất mực thông minh.
Ông ta đã bị cái xã hội mà ông ta đang sống lên án mạnh mẽ -ông
ta đã bị trục xuất ra khỏi Anh quốc, bởi vì mọi người đều lo
sợ Byron. Người ta kể rằng hễ mỗi lần ông ta xuất hiện tại
khách sạn, nhà hàng, mọi người đàn ông đều dẫn vợ mình bỏ đi
nơi khác. Ông ta là một người rất khả ái! Thế nên tất cả những
đức ông chồng đều họp nhau lại để chống Byron, tất cả mọi đấng
làm cha cũng kết hợp lại để chống Byron, và cuối cùng ông ta
bị buộc phải rời khỏi nước Anh. Chuyện cũng kể lại rằng, ngày
mà Byron giã từ đất nước ra đi, đã có đến hàng ngàn người tụ
tập để chứng kiến việc này. Và trong số hàng ngàn người đó, có
đến hàng trăm phụ nữ giả dạng đàn ông, trong y phục nam nhân -kể
cả những người thuộc gia đình quý tộc, giàu có- đã có mặt để
nhìn Byron lần cuối.
Quả tình ông ta là người đàn ông tuyệt vời -rất mực thông minh,
rất mực đẹp trai. Ông ta thực sự là một nhà thơ; thi ca như
rung lên trong từng hơi thở của ông. Thế nhưng ông ta đã bị
trục xuất -đất nước Anh không thể dung chứa được ông, ông ta
quá đổi nguy hiểm. Thế nhưng những quán chiếu nội tâm của ông
ta lại rất mực có ý nghĩa. Hãy nhìn vào sự sáng suốt này: ông
ta nói với người đàn bà … chắc chắn phải là người rất can đảm
mới có thể nói những lời như thế với một phụ nữ -nhất là khi
hai người vừa mới kết hôn! Trong khi chuông nhà thờ còn đang
đổ, trong khi khách khứa còn đang tham dự lễ, trong khi họ tay
trong tay bước ra khỏi nhà thờ và chàng bỗng nói với nàng,
“Xin lỗi, anh không còn thích thú để sống với em.”
Trung thực như thế, chân thành như thế, đó là phẩm chất của
một con người tín ngưỡng. Quả là điều bất hạnh cho Byron khi
đã sinh ra tại Anh quốc, ông ta nên chọn Ấn Độ thì đúng hơn. Ở
Ấn có thể ông ta đã thành Phật không chừng -sự hiểu biết sâu
sắc này khiến một người có thể trở thành giác ngộ. Một con
người với bộ óc thông minh như thế, nếu y tìm ra một đạo lộ
đúng đắn, y sẽ nhảy ngay vào ngọn lửa này, đó chính là ngọn
lửa của Phật quả.
Bất cứ lúc nào bạn đạt được một cái gì đó, bạn sẽ bắt đầu cảm
thấy chán ngấy nó ngay. Ai cũng đều có kinh nghiệm này, nó đã
xảy ra với tất cả mọi người, cách này hay cách khác. Có thể là
bạn đã không nói ra điều này, ngay cả với chính mình, có thể
là bạn không chịu chấp nhận một sự thật như thế. Bởi vì nó quá
đổi kinh hoàng, hãy xem, bạn làm việc cật lực trong suốt bảy
năm trời mới dành dụm đủ số tiền để mua một ngôi nhà –bây giờ
thì bạn đã có trong tay ngôi nhà mơ ước ở trên ngọn đồi cao,
bỗng dưng, trong khoảnh khắc mà ngôi nhà thuộc về bạn, khi văn
tự nằm ở trong tay, bạn không còn cảm thấy thích thú nữa.
Thế nhưng mọi chuyện đều như thế cả. Người trí sẽ nhận ra điều
này ngay lập tức, còn kẻ ngu thì có thể phải mất đến hàng
tháng trời, hay vài ba năm, tuy nhiên đây không phải là điểm
quan trọng -vấn đề là, một ngày nào đó rồi y cũng sẽ thấy cuối
cùng cũng chẳng có gì. Chỉ là một ảo ảnh. Nó đã xảy ra trong
đời bạn như thế không biết bao nhiêu lần -mỗi một ước vọng đều
buồn chán thất vọng. Tất cả mọi mộng ước ham muốn đều đưa bạn
đến chỗ buồn chán vỡ mộng. Và một phương cách duy nhất để
thoát ra khỏi cơn buồn chán này là bạn tạo ra những ước vọng
lớn hơn và đắm chìm vào đó.
Đây là một sự xuẩn động. Đây là những gì mà Phật đã gọi là
avidya –vô minh. Nhìn thấy được lòng tham muốn tàn lụi,
bạn thì không hề nhìn thấy cái lòng tham đắm như thế lại sẽ
tàn lụi. Ngày mà bạn chứng nghiệm được điều này, sẽ là một
bước ngoặc quan trọng trong đời bạn -bạn sẽ quay 180 độ. Đó là
những gì mà người Cơ Đốc gọi là “conversion” –có nghĩa là
“quay vào hướng nội”.
Đức Phật thì có một danh từ chính xác để chỉ điều này, ngài
gọi là paravritti -đột biến, hồi đầu quy y.
Paravritti –quay một trăm tám mươi độ: nhận thấy rằng tất
cả mỗi ước vọng tham muốn sẽ tàn lụi, không có cái gì thành
tựu –ngay tự bản chất, nó không thể thành tựu. Khát vọng tham
muốn chỉ là một trì hoãn; bất cứ lúc nào bạn đạt được, nó đều
trở thành vô nghĩa. Nó chỉ hiện hữu khi nào bạn trông chờ nó,
nó chỉ hiện hữu khi nào bạn tìm kiếm nó, nó chỉ hiện hữu trên
hành trình mà bạn vươn tới. Khi mục tiêu đã đạt được, mọi
chuyện đều kết thúc -bạn lại sẽ phải cần đến một sự tham muốn
khác.
Tôi đã được nghe một câu truyện ngụ ngôn cổ điển. Ngày xưa có
một thung lủng ở trong rặng Hy Mã Lạp Sơn. Đây là một thung
lủng rất mực trù phú. Dân chúng rất giàu có sung túc, ở đây dư
thừa tất cả những gì mà người ta cần đến –nào là mùa màng, cây
trái, bơ sữa, không thiếu vật gì- tất cả đều thừa mứa dư dả.
Đất đai ở đây phì nhiêu đến độ chỉ cần một người làm việc là
có thể nuôi sống toàn bộ gia đình. Như vậy là đủ rồi, một
người làm việc là đủ cho cả gia đình.
Thế rồi người ta thấy cuộc sống bắt đầu nhàm chán. Ăn rồi
chẳng có việc gì để làm cả -tất cả đều ở trong tầm tay, mọi
người đều có đủ tất cả những gì mà họ cần đến. Họ cảm thấy
chán làm sao, thế là họ bắt đầu suy nghĩ phải làm gì với đời
mình đây, cuộc sống hình như không có một ý nghĩa nào cả. Hãy
để ý rằng, bất cứ lúc nào một xứ sở trở nên giàu có, bạn sẽ
thấy không biết cơ man nào là trường phái triết học xuất hiện
cho rằng đời sống là vô nghĩa.
Đó là những gì đã và đang xảy ra ở thế giới phương Tây; các
nhà triết học hiện sinh đều cho rằng đời sống là phi lý, vô
nghĩa. Sartre, Kafka, Camus -đều đã nói như thế. Điều này chỉ
xảy ra ở những xứ giàu, đây là biểu hiện của các quốc gia giàu
mạnh –ngay lập tức các nhà triết gia mọc ra như nấm cho rằng
đời sống là hoàn toàn vô nghĩa.
Trong các xứ nghèo, không có ai cho rằng đời sống là vô nghĩa
cả; trái lại đời sống hàm chứa vô vàn ý nghĩa. Những chuyện
nhỏ nhoi thôi cũng đã đủ có ý nghĩa rồi -miếng cơm manh áo cho
vợ cho con, nơi trú ẩn để che nắng che mưa, một tấm xà rông
mới cho người yêu của bạn, một món đồ trang sức nhỏ, tất cả
đều hàm chứa ý nghĩa. Biết bao nhiêu thứ mà bạn không có, và
bởi vì bạn không có chúng, thế nên chung quanh bạn có không
biết bao nhiêu là điều ý nghĩa: bạn có thể có cái này, bạn có
thể có cái kia, bạn có thể có hàng ngàn thứ cần dùng, thế
nhưng bạn không có chúng. Thế là bạn đi từ ước muốn này đến
ước muốn khác, và cái ý nghĩa do đó mà tiếp tục hiện hữu.
Một khi bạn đã có tất cả rồi, ý nghĩa của chúng tan biến mất.
Đó là những gì đã xảy ra tại cái thung lủng trù phú kia, đó
cũng là những gì đang xảy ra tại Mỹ quốc; đời sống trở nên tẻ
nhạt, chán ngắt. Có thể nói rằng sự buồn tẻ đang ngự trị Mỹ
quốc.
Tại cái thung lũng kia cuộc sống trở nên tẻ ngắt, và trong số
đó dĩ nhiên ông vua là người buồn chán nhất. Thế là nhà vua
nêu vấn đề với thần dân của mình: “Tìm những phương cách nào,
tìm những cuộc phiêu lưu nào để dân chúng có thể tham gia vào.
Bất cứ cái gì.”
Có không biết bao nhiêu dự án được đề ra. Một người trai trẻ
nảy sanh ra ý kiến, “Hãy nhìn xem cái đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn
kia, nó cao vòi vọi đến chín tầng mây –chúng ta nên thử trèo
lên đó.” Mọi người đều cười, “Chưa từng nghe ai nói đến chuyện
này. Làm sao mà trèo lên đó được? Rất là nguy hiểm. Không
chừng lại làm cho ông thần núi nổi giận.” Vị tu sĩ của vương
quốc rất mực chống đối lại ý tưởng này. Ông ta bảo, “Chúng ta
đang thờ phượng cái ngọn núi đó. Làm sao mà trèo lên đó được.
Như vậy là làm mất tính chất linh thiêng của thánh địa.”
Tuy nhiên nhà vua thì lại rất thích thú cái ý tưởng này và bảo
mọi người, “Ý kiến này rất hạp ý ta.” Dĩ nhiên chuyện này
chẳng hề có một mục đích gì cả -nhưng một khi bạn đang buồn
chán, chuyện gì cũng đều có vẻ hấp dẫn cả. Đó là cách thế mà
con người tìm cách đổ bộ lên mặt trăng -chẳng có mục đích gì
cả, hoàn toàn vô nghĩa, thế nhưng … bất cứ chuyện gì cũng có
thể cho bạn sự kích thích, cho bạn một sức đẩy.
Bạn đã chứng kiến chuyện này chưa? Khi con người đầu tiên đặt
chân lên mặt trăng, cả nhân loại hồi hộp theo dõi. Họ như dán
chặt vào chiếc ghế trước màn hình TV. Thế nhưng bạn biết không?
-chỉ trong vòng nửa giờ thôi là mọi chuyện chấm dứt. Chỉ trong
vòng nửa giờ là người ta thấy chán rồi, kết thúc! Chẳng có gì
hấp dẫn lắm ở trên đó –và bây giờ người ta bắt đầu với sao Hoả,
với những thứ khác.
Nhà vua rất thích thú và bảo người thanh niên, “ Được rồi, nhà
ngươi tổ chức chuyện này. Lập thành một nhóm và ta sẽ tài trợ
tất cả tiền bạc cần thiết. Vâng, cần phải chinh phục cái đỉnh
núi này. Nó đứng sừng sững ở đó, ngay trước mặt chúng ta, như
một thách đố.”
Nhà tu sĩ đã cố gắng thuyết phục nhà vua rằng đó là một việc
làm vô ích –“Ngay cả nếu như chúng ta leo lên đó rồi, thì
chuyện gì sẽ tiếp theo?” Nhà vua bảo, “Đó không phải là trọng
điểm. Đâu ai cần quan tâm đến chuyện xảy ra kế tiếp sẽ là gì?
Cứ việc leo, chuyện leo núi tự nó đã tuyệt vời rồi.” Thế là cả
vương quốc đều xôn xao chuyển động. Mọi người bắt tay vào làm
việc cật lực, tạo đủ dụng cụ cần thiết cho việc leo núi -bởi
vì trước đây chưa có ai thử làm chuyện này, nên không hề có
những vật dụng chuyên môn.
Năm tháng trôi qua, người ta lần hồi thành công từng bước
trong việc chinh phục ngọn núi cao. Một thế hệ qua đi, rồi thế
hệ kế tiếp, cho đến thế hệ thứ ba thì mọi việc đã hoàn chỉnh.
Nhưng khi họ tiến đến gần đỉnh núi, một ông lão, người đã sống
suốt qua ba thế hệ và đã từng giúp đỡ công việc chinh phục
ngọn núi như là một người hướng đạo thành thạo, bỗng dừng lại
và bảo mọi người, “Hãy ngưng lại một chút. Tôi lo quá. Nếu như
chúng ta leo lên đến đỉnh –bây giờ thì đó là điều chắc chắn
rồi, chỉ trong một vài giờ nữa thôi –thì rồi đâu sẽ còn công
chuyện gì để chúng ta làm kế tiếp?”
Tất cả nhóm đều rơi vào nỗi im lặng buồn bã. Nỗi chán chường
đã trở lại với họ. Trong suốt ba thế hệ họ chưa hề biết đến
buồn chán là gì. Trong suốt ba thế hệ họ sống trong sự kích
thích tuyệt vời –tinh thần phiêu lưu mạo hiểm đánh động mọi
người, họ đã bị chiếm lĩnh bởi cái ý tưởng này. Tuy nó không
hề có ý nghĩa gì cả, tuy nó là một việc làm vô ích, nhưng nó
đã xua đuổi được nỗi buồn chán. Bỗng dưng …
Câu chuyện cũng cho biết rằng cái ông lão kia không ai khác
hơn là người thanh niên đã phát khởi ra cái ý tưởng leo núi
trước đây: “Chúng ta hãy đi chinh phục đỉnh Hy Mã Lạp Sơn.”
Bây giờ ông ta bảo mọi người, “Này các cháu, tốt hơn hết là
chúng ta nên tuột xuống tại điểm này và làm lại từ đầu. Bởi vì
còn đỉnh núi nào chung quanh đâu; đây là đỉnh cao nhất. Một
khi chúng ta đã chinh phục được nó, chúng ta sẽ làm gì đây?”
Được biết là cả nhóm đã suy nghĩ rất lâu -và rồi, từng người
một họ lần lượt quay trở lại thung lủng và bắt đầu cố gắng để
trèo lên ngọn núi trở lại.
Đó là những gì đang thực sự diễn ra. Chắc là bạn đã có lần
nghe đến huyền thoại Sisyphus của người Hy Lạp, rằng Thượng Đế
đã trừng phạt y, một lối trừng phạt rất lạ kỳ -y phải khiêng
một tảng đá lên tận đỉnh núi cao. Tảng đá rất nặng nề, và càng
lên cao thì càng trở nên nặng nề hơn. Đây quả là một công
trình gian khổ mới khiêng được tảng đá lên đến tận đỉnh, có
thể phải bỏ ra hàng năm mới thực hiện xong. Nhưng khi mang lên
đỉnh núi rồi, y phải buông cho tảng đá lăn trở lại chân núi.
Đấy là sự trừng phạt –y phải đi xuống thung lủng và bắt đầu
khởi sự khiêng tảng đá lên đỉnh trở lại.
Trong thần thoại Hy Lạp, người ta nói rằng Thượng Đế đã rất
giận dữ và trừng phạt Sisyphus theo cách như thế. Đối với tôi
thì nó không như vậy. Thật ra, sự trừng phạt tốt hơn là đừng
để cho tảng đá lăn xuống núi trở lại. Để rồi Sisyphus sẽ làm
gì đây, bạn biết không? Chắc là ông ta sẽ đập đầu vào hòn đá
mà tự tử mất.
Thượng Đế của người Hy Lạp có vẻ không thông minh chút nào.
Bạn nên học hỏi thêm điều này ở những ông Thượng Đế Ấn Độ. Nếu
đây là một thần thoại của ngưới Ấn Độ, thì sự trừng phạt có
thể như thế này –khi y leo lên đỉnh núi, càng lên cao chừng
nào thì tảng đá sẽ nhẹ đi chừng nấy, mọi chuyện càng trở nên
thoải mái nhẹ nhàng hơn –càng lúc càng trở nên dễ dàng hơn.
Bởi vì khi càng khó khăn gian khổ thì người ta càng bị kích
thích với công việc. Khi mọi chuyện dễ dàng thì cái ngã của
bạn không còn bị thách đố, và dĩ nhiên là sẽ không có gì thích
thú. Và khi y lên đến tận đỉnh, công việc kết thúc. Sisyphus
sẽ làm cái gì bây giờ? Nếu là Thượng Đế Ấn Độ, ông ta sẽ bỏ
mặc Sisyphus với cái tảng đá của y ở trên đỉnh núi kia. Y sẽ
làm gì đây? Y sẽ đập đầu vào tảng đá để chết thôi!
Câu chuyện thần thoại Hy Lạp có vẻ như là một ân thưởng chứ
không giống trừng phạt một chút nào. Sở dĩ nó được xem như là
trừng phạt bởi vì chúng ta đã không hiểu được đời sống. Cái
khoảnh khắc mà Sisyphus lên tới đỉnh, cái khoảnh khắc mà y đạt
tới đich, cái tảng đá lại lăn xuống thung lủng và Sisyphus lại
tuột xuống, chạy đi tìm tảng đá lần nữa –đó là sự trừng phạt.
Và rồi y lại bắt đầu tiếp tục khiêng nó lên núi trở lại.
Đây là cách thế xảy ra trong đời sống. Bất cứ lúc nào khi bạn
hoàn thành xong một điều ước vọng, thì giống như tảng đá kia,
nó lại lăn xuống thung lủng và bạn phải đi trở lại từ đầu. Bạn
lại phải có một ước vọng khác để theo đuổi, một ước vọng mới
mẻ hơn. Đời sống một lần nữa lại có một niềm bức xúc khác, và
bạn một lần nữa có cơ hội để quên đi cái trống rỗng nội tại
của mình. Cái này được gọi là sansara –cõi trầm luân
sinh tử. Lẩn tránh chính mình đó là những gì được gọi là
sansara -chạy trốn chính bạn, bỏ lại đằng sau cái cốt lõi
uyên nguyên. Lạc lối trong cơn lốc xoáy và không bao giờ biết
đến cái trung tâm cơn bảo rất mực lặng yên. Dính mắc vào cái
bánh xe quay và những nan hoa mà không bao giờ bám vào trung
tâm của cái trục cố định.
Thế nhưng cái bánh xe luôn quay chung quanh một bộ phận cố
định, và cơn bảo hiện hữu trên một trung tâm điểm lặng yên.
Cuộc sống cũng y như thế, như một cái bánh xe. Và tận trong
sâu thẳm của cốt lỏi uyên nguyên là phi-hữu –anatta, vô
ngã. Shunyata, tánh không. Cũng cần lưu ý rằng, ‘tánh
không” không có nghĩa là hoàn toàn không có gì cả, mà là nguồn
cội của tất cả. Tất cả đều được phát xuất từ đó, nó là hạt
giống của tất cả vạn hữu. “Tánh không” chỉ đơn thuần có nghĩa
là không sắc tướng –đó là cõi không sắc tướng. Đây là một
khoảng không vô sắc, vô giới hạn.
Một khi bạn bắt đầu hoà điệu với cái rỗng không vô sắc này,
không còn tìm cách chạy trốn nó, cũng là lúc cuộc hành trình
trở về quê nhà đích thực của bạn khởi sự. Và cái ngày mà bạn
trở lại mái nhà xưa, cái khoảng rỗng không mênh mang này … bạn
sẽ chìm ngập trong một niềm hoan lạc -bạn sẽ không còn cảm
thấy mình là một kiều dân, khách lạ. Lúc đó sẽ là một ân sủng
vô biên.
Cái tâm của người phương Tây cảm thấy vô cùng bất ổn với ý
niệm này –“Làm sao cái tánh không lại có thể là một niềm vui?”
Bạn luôn luôn cố gắng để cho thấy rằng mình đang hiện hữu,
trong khi cái tánh không này có vẻ như là cái chết, là hư vô
đoạn diệt. –Làm thế nào không tánh lại có thể là một niềm vui
được? Đó là lý do tại sao các triết gia phương Tây thường cho
rằng Đức Phật là người bi quan yếm thế vào bậc nhất trên thế
gian này. Đâu phải thế; đây là sự lý giải. Tâm của người
phương Tây nghĩ rằng, “Đi vào một sự rỗng không, đâu có niềm
vui gì ở đó?” Thế nhưng bạn đã không hiểu được vấn đề. Một khi
nhận thấy rằng mình là không, là một giả hợp, đâu còn gì để
bạn có thể lo lắng băn khoăn. Bây giờ ngay cả cái chết cũng sẽ
không còn làm bạn sợ hãi. Bạn đã là không, làm sao cái chết có
thể hủy diệt được bạn? Bạn đã được giải phóng khỏi cái chết.
Khi nhận thức được mình là không, bạn sẽ không còn quan tâm
đến thành công hay thất bại, đâu có ai ở đó để thành công, đâu
có ai ở đó để thất bại? Một sự thanh thản khởi dậy, tất cả đều
bình đẳng. Một khi đã nhận ra cái tánh không này, đâu còn gì
có thể làm bạn căng thẳng? Không còn áp lực, không còn căng
thẳng. Không còn nguyên nhân nào để tạo ra bất kỳ sức căng
nào; không còn một gợn sóng nhỏ nào khởi dậy trong tánh không.
Bạn hoàn toàn thư giản, bạn trở nên an lạc.
Tánh không này là một yên nghỉ tột cùng - hoàn toàn yên nghỉ.
Tất cả mọi chuyện đều đã dừng lại, tất cả mọi chuyện đã đến
điểm ngừng. Bây giờ thì bất cứ chuyện gì xảy ra cũng chẳng còn
mang một ý nghĩa nào nữa, bạn sẽ không còn bị khuấy động bởi
chúng. Bạn trở thành giàu có ư, điều này chẳng hề làm bạn xao
động. Bạn trở thành nghèo hèn ư, điều này chẳng hề làm bạn
buồn phiền. Bạn thành công, cũng OK thôi. Bạn thất bại, cũng
tốt. Mọi chuyện vẫn luôn tốt đẹp -một sự bình ổn đã khởi dậy
trong sinh thể bạn. Bây giờ thì bạn đã trở nên quân bình, hoàn
toàn quân bình. Cuộc đời rẻ qua trái, cũng thế. Cuộc đời rẻ
qua phải, cũng vậy thôi. Sẽ chẳng có gì quan trọng; không còn
vấn đề gì quan trọng nữa.
Đây là những gì mà chúng ta gọi là an lạc. An lạc không hề
đồng nghĩa với hạnh phúc, an lạc là một siêu việt; nó không là
bất hạnh cũng không là hạnh phúc. An lạc là trạng thái của một
sinh thể không còn xao động, không còn bị quấy nhiễu dù bất cứ
chuyện gì xảy ra chung quanh. Cơn lốc xoáy cứ tiếp tục sấm
chớp bảo bùng, nhưng ở ngay cốt lõi trung tâm của nó vẫn tĩnh
mịch lặng yên. Sự thanh bình đã khởi dậy.
Đây là những gì mà chúng ta gọi là tam ma địa. Chỉ có
hai cách thế duy nhất trên thế gian này: một là rời xa chính
mình hai là tìm đến chính mình. Rời xa chính mình thì có đến
trăm phương ngàn lối. Có người chạy theo tiền tài, có người
chạy theo quyền lực, có kẻ lại mê đắm tửu sắc, ma túy –hàng
ngàn con đường, lối rẽ. Tuy nhiên tất cả trên cơ bản đều có
chung một hướng –đó là vô hướng, bất định, hướng ngoại. Càng
đi càng rời xa khỏi trung tâm hướng về ngoại biên. Và cái
ngoại biên đó đã không hề hiện hữu.
Thế là bạn cứ tiếp tục đi, đi mãi, đi hoài –để rồi ngày càng
thất vọng thêm, bất mãn thêm, khổ nảo thêm. Và cái kết quả
cuối cùng sẽ là điên loạn. Nếu phương Tây đi đến điểm cùng cực
của luận lý, toàn bộ xã hội phương Tây rồi sẽ nổi khùng lên.
Nếu cái tâm hướng ngoại này được căng ra đến tận cực điểm,
điều duy nhất có thể xảy ra chỉ là điên loạn mà không là gì
khác. Vâng, cái kết quả cuối cùng sẽ là điên loạn.
Một cuộc hành trình khác là hướng nội. Trở về lại mái nhà xưa,
quay về nội tâm. Ngay khi bạn khởi đầu cuộc hành trình hướng
nội, sẽ yên bình hơn, tĩnh lặng hơn, thanh thản hơn, bình ổn
hơn, hướng tâm hơn, trở về côi nguồn hơn -chúng bắt đầu xảy
ra một cách tự phát. Cái ngày mà bạn trở về lại mái nhà xưa,
sự an lạc chợt đến.
Hãy lắng nghe đôi điều Christmas Humphreys
(3) nói với chúng ta:
“Kế đến là bước nhảy … Thế nhưng cái hố thẳm mà chúng ta rơi
vào là khoảng đầy/rỗng không. Bước nhảy vọt khởi đi từ niệm
đến vô niệm -từ cái rốt ráo nhị nguyên của vọng tưởng/thực tại
đến sự bùng vỡ của tiếng cười và một tách trà. Nhưng giờ đây
cái dĩa đựng tách trà được nhìn với đôi mắt tinh khôi làm sao!
Bạn dọn dẹp chiếc bàn với cái tâm thanh thản nhường nào!”
Mọi chuyện vẫn như cũ. Bạn uống trà, và bạn cũng phải dọn dẹp
chiếc bàn của bạn thôi. Thế nhưng nó thanh thản làm sao! Tĩnh
lặng làm sao! Ấm lòng làm sao!
Điệu múa vẫn tiếp nối nhưng bây giờ đã không còn người múa. Và
khi người múa không còn, điệu múa trở nên uyển chuyển duyên
dáng. Khi người múa không còn, tất cả ý thức tự ngã biến mất,
bởi vì cái ngã đã không còn. Khi ý thức tự ngã biến mất, điệu
múa trở thành một toàn bộ, một tổng thể. Lúc đó chỉ còn điệu
múa mà không còn người múa. Càng có ý thức tự ngã chừng nào,
cuộc đời bạn càng ít an lạc chừng nấy, bởi vì nó sẽ bị chia
lìa, phân tán –nó sẽ rơi vào trạng thái tâm thần phân liệt, sẽ
bị phân hoá hơn.
Khi bạn là một nhất thể -là một toàn bộ mà ngay cả một hành
động đã nói lên tất cả, không hề có một đạo diễn đứng ở đằng
sau- từ đó là muôn vàn độ lượng, từ đó một nét đẹp trinh
nguyên, một ân sủng mới mẻ, đi vào đời bạn.
Bạn vẫn tiếp tục sống đời sống cũ –đó là điều mà Thiền vẫn
luôn nhấn mạnh. Bạn vẫn làm công việc nấu ăn, chẻ củi, gánh
nước từ giếng vào –nhưng với thanh thản, với độ lượng biết
bao! Cứ như là phép lạ! Bạn vẫn tiếp tục đi giữa cuộc đời tươi
đẹp này mà không còn cái ngã. Và rồi cây cỏ sẽ giao hoà với
bạn, chim chóc sẽ giao hoà với bạn và sỏi đá cũng thế.
Chính cái bản ngã luôn luôn đứng ở giữa chống lại sự giao cảm
này. Chính cái bản ngã này đã không cho phép bạn tuôn chảy như
suối nguồn, nó giữ bạn lại trong trạng thái tù đọng.
Chúng ta đi vào cuộc đời này với đôi bàn tay trắng rộng mở và
chúng ta ra đi cũng với đôi bàn tay trắng buông xuôi. Thế thì
chúng ta cũng nên sống với đôi bàn tay không rộng mở. Và như
thế đời sống trở nên tín ngưỡng. Tay trắng chúng ta đến, đúng
như vậy. Tay trắng chúng ta ra đi, đúng như thế. Thế thì tại
sao giữa khoảng cách của hai cái đến và đi này chúng ta lại
khởi sự sanh lòng chiếm hữu? Khi ta đến với tay không và ra đi
với tay không, tại sao lại không giữ cho mình tay không ở giữa
hai thời điểm? Nếu sống được như thế, tất cả chỉ là một con số
không –không chiếm hữu, không thu góp, vô cầu, không có cái ta
tham cầu trở thành một cái gì đó -đời sống của bạn là tín
ngưỡng.
Một con người tín ngưỡng không hề tham cầu trở thành một con
người tâm linh, không bao giờ. Bởi vì như vậy bạn vẫn còn mang
cái tâm thế gian –đó chỉ là một tham cầu mới. Một con người
tín ngưỡng là người hiểu rõ bản chất của dục vọng –và với sự
hiểu biết sâu xa này, dục vọng sẽ tiêu tan. Con người tín
ngưỡng là người vô cầu.
Và xin hãy nhớ cho, xin được nhắc nhở lại bạn một lần nữa:
Đừng có khởi sự tham cầu cả cái vô cầu.
Một con người tín ngưỡng là người hiểu biết chắc thật rằng,
“Tôi là không”. Một khi “Tôi đã là không”, thì việc thu góp
mọi cái được gọi là của tôi đâu còn ý nghĩa gì nữa?
Chính vì cái “Ta” này mà con người cứ mãi hoài chạy đi thu góp
về cho mình những cái “của tôi” –“cái nhà của tôi, chồng tôi,
vợ tôi, của cải của tôi, danh tiếng của tôi, uy tín của tôi,
nhà thờ của tôi, quốc gia của tôi, đạo của tôi, Thượng Đế của
tôi, kinh sách của tôi…” Chúng ta cứ mãi chạy theo cái “của
tôi” như thế.
Chính cái “của tôi” và “thuộc về tôi” này được khởi dậy từ cái
ý niệm “Ta”. Mà cái “Ta” này thực ra không hề hiện hữu –đó chỉ
là một giả định, bạn đã nhận vơ vào một cách đơn thuần như
thế. Toàn bộ cuộc chơi chỉ là bào ảnh nhấp nhô, chỉ là hư
vọng; cái cơ bản của nó không hề hiện hữu. Thế nên trước khi
bước vào cái thế giới “của tôi” và “thuộc về tôi”, tối thiểu
bạn cũng nên có một cái nhìn để biết mình là cái gì. Nếu
không, toàn bộ nỗ lực của bạn chỉ hoàn toàn vô ích, chẳng khác
gì bạn đang xây lâu đài trên cát … những lâu đài Tây Ban Nha.
Đó là lý do tại sao Thiền đã từng khẳng định –như lời của Lục
Tổ Huệ Năng, “Tất cả mọi giáo điều học thuyết, tự bản chất đều
tối tăm. Ngay cả tọa thiền cũng có thể là một cái bẩy sập. Tốt
nhất là không nên theo một nghi thức nào cả. Tất cả mọi thói
quen đều dẫn đến bế tắc. Ngay cả kinh điển cũng phải nên được
đốt bỏ.”
Cái ông Huệ Năng này đang nói cái gì vậy? Ông ta bảo rằng:
“Tất cả mọi giáo điều học thuyết, tự bản chất đều tối tăm.”
Nếu bạn đưa ra một học thuyết về vô cầu, như là của người Phật
giáo hay là học thuyết về vô chấp trước như của người Kỳ Na
Giáo, thế là bạn đã bị vướng vào trong một cái bẩy mới. Vô
chấp trước không hề chống lại chấp trước, vô cầu không hề
chống lại tham cầu. Vô cầu không thể được tham cầu và vô chấp
trước hoặc phá chấp không thể được thực hành -bởi vì nếu bạn
thực hành, thì cũng có nghĩa là bạn đã bị vướng mắc vào đó.
Khởi đi từ sự hiểu biết về vướng mắc, chấp trước mà vô chấp
trước hay phá chấp phát sinh. Nhìn ngay vào cái tiến trình của
vướng mắc chấp trước, bạn thấy rõ sự vô nghĩa, vô ích của nó.
Một khi nó vô nghĩa, vô ích, nó buông bỏ. Không phải là bạn
buông bỏ nó, không bao giờ -nếu bạn buông bỏ nó, có nghĩa là
bạn vẫn còn có mặt ở đó. Bạn trở thành một người thoát ly cuộc
đời -bạn khởi sự tuyên bố: “Ta là một đại ẩn sĩ, ta là một bậc
đại thánh, ta đã từ bỏ tất cả thế gian này.”
Nhưng như Đức Phật đã nói, nếu bạn từ bỏ thế gian có nghĩa là
bạn đã không từ bỏ cái gì cả. Bởi vì căn bệnh cơ bản trầm kha
vẫn còn hiện hữu. Trước đây người ta quen lăng xăng với tiền
tài thì bây giờ người ta lăng xăng với chuyện thoát ly. Thế
nhưng cái “Ta”, cái ngã vẫn còn sừng sững ở đó.
Thế nên ngài Huệ Năng đã rất đúng khi nói rằng: “Tất cả mọi
giáo điều học thuyết, tự bản chất đều tối tăm.” Đừng có tạo ra
những giáo điều học thuyết nữa; Thiền chống lại tất cả chúng.
Thiền bảo rằng: Hãy nhìn thẳng vào thực tại, bấy nhiêu thôi là
đủ. Đó là lý do tại sao không cần đến kinh điển. Thiền nói
rằng: Đốt tất cả mọi kinh điển -bởi vì những kinh điển này chỉ
nhồi nhét vào đầu bạn những ý niệm mới, chẳng khác gì tạo ra
những đỉnh cao mới cho bạn trèo lên. Kinh điển sẽ mang đến cho
bạn những tham cầu mới, những đối tượng mới cho cái Hữu, cái
Ái –tanha- của bạn (4).
Bạn vừa mới kết thúc ở chỗ này –cái ngày mà bạn hiểu
rằng chạy theo đồng tiền là một việc làm vô nghĩa -thế rồi bạn
lại khởi sự chạy theo một cái khác, thiền định.
Một hôm nào đó bạn bắt đầu nhận ra cái vô nghĩa của thế gian
này. Thế rồi bạn bắt đầu suy niệm về Thượng Đế. Lòng tham cầu
thay đổi nhưng không hề biến mất. Lòng tham cầu không hề được
buông bỏ mà bây giờ được khoác lên một hình thái mới. Nó chạy
theo một đối tượng mới, chiếm lĩnh một lãnh thổ mới, một hướng
đi mới - nó vẫn luôn có mặt ở đó. Và khi lòng tham cầu vẫn còn
hiện diện, cả cái cõi ta bà thế gian này vẫn còn hiện diện ở
trong bạn.
Những lời nói của ngài Huệ Năng là: “Tuệ giác là tự do.” Đây
là câu nói cực kỳ hàm súc. Tuệ giác là tự do: Bạn không cần
phải làm bất cứ cái gì, bạn chỉ cần đến tuệ giác. Với tuệ giác
người ta đơn thuần nhìn thẳng vào mọi chuyện –bằng cách nào mà
chúng có mặt, chúng vận hành ra sao, và lòng tham cầu vận hành
ra sao -chỉ thế thôi. Hãy để cho ý tưởng này rất mực sáng tỏ,
rằng Tuệ giác là tự do. Bạn không cần phải phấn đấu để đạt đến
tự do, bạn chỉ cần nhìn suốt vào vạn hữu xem chúng vận hành
như thế nào. Bạn đã sống như thế nào cho đến bây giờ, hãy nhìn
vào đó. Bạn hiện đang sống như thế nào trong khoảnh khắc này
đây, hãy nhìn vào đó.
Cụ thể như, bạn đang lắng nghe tôi. Có thể là bạn đang lắng
nghe với lòng tham cầu, và như thế là bạn sẽ đánh mất trọng
điểm. Lắng nghe như thế, tâm của bạn đang cố gắng thu thập
những ý tưởng, đó là làm thế nào để tìm một cái đỉnh cao mới
để trèo lên. Bạn sẽ lắng nghe tôi không ngoài mục đích để tìm
cách áp dụng; và như thế là bạn đánh mất điểm then chốt. Bạn
đang lắng nghe tôi nhưng đồng thời tâm của bạn đang làm công
việc ghi chép: “Điều ông ta nói có vẻ đúng. Vâng, chắc là tôi
phải thực hành theo đó.” Bây giờ thì một lòng tham cầu mới
khởi dậy, bây giờ thì một ý tưởng mới bắt đầu bám chặt vào tâm
trí bạn. Thế là bạn lại đang đi trở lại với thế gian này –cái
thế gian của một ngàn lẻ một chuyện linh tinh.
Không thể như thế, hãy lắng nghe tôi với tuệ giác.
Không có gì để thực hành cả. Hãy để nó được quyết định vĩnh
viễn với tôi: không có gì để phải thực hành, thực hành không
phải là mục tiêu. Chỉ có hiểu và tuệ giác -chỉ nhìn thẳng vào
đó. Trong khi tôi đang nói chuyện với bạn, hãy quên đi tất cả
chuyện thực hành, hãy quên đi tất cả chuyện ghi chép. Quên đi
chuyện sẽ làm cái gì đó với những lời tôi đang giảng dạy. Bạn
sẽ không làm bất cứ chuyện gì cả, bạn chỉ việc lắng sâu vào
những lời nói này, càng sâu càng tốt, ngay bây giờ! Nếu
bạn lắng sâu vào những lời nói này ngay bây giờ, một cái gì đó
sẽ khởi sự thay đổi ở trong bạn. Bạn sẽ nhận ra rằng, “Vâng,
đây là sự thật” –không phải là bạn thực hành điều đó, mà “đây
là sự thật”.
Và một khi chân lý tưới tẩm bạn, nó chuyển hoá bạn. Đó là ý
nghĩa trong câu nói của Chúa Giêsu: Chân lý giải phóng ta mà
không là gì khác –không phải là giáo điều, lý luận, học
thuyết, kinh điển. Chỉ có chân lý giải phóng ta.
Thế nhưng cũng đừng hỏi làm thế nào để đạt đến chân lý. Bởi vì
nếu bạn mang cái “làm thế nào” vào, tức là bạn cũng đã mang
theo vào lòng tham cầu. Cái “làm thế nào” chính là viên quản
lý của cái tâm tham cầu của bạn. Nó luôn luôn phán truyền,
“Bằng cách nào? Phải làm thế nào?” Vấn đề khôg phải là làm.
Vấn đề là chỉ nhìn suốt vào, nhận ra cách thế mà nó hiện hữu.
Nhận ra cái tâm của bạn tiếp tục vận hành như thế nào và cho
đến giây phút này bạn đang hành hoạt ra sao. Đừng để chen vào
một động lực nào, chỉ nhìn suốt vào -không một động cơ nào
thúc đẩy.
“Tuệ giác là tự do. Tỏ ngộ mang đến sự không chọn lựa.” Đây
là câu nói rất mực tuyệt vời của ngài Huệ Năng: Tỏ ngộ mang
đến sự không chọn lựa. Khi chân tâm đã sáng tỏ rồi thì đâu còn
cần thiết để chọn lựa nữa; bạn chỉ chọn lựa khi bạn đang bối
rối mê mờ. Chọn lựa phát sinh từ mê mờ -chọn lựa có nghĩa là,
“Tôi nên đi theo lối này, hay đi theo lối khác?” Bởi vì bạn
đang bối rối, bạn không thể nhìn rõ vấn đề, thế nên bạn cứ
phân vân –“Tôi có nên sống cuộc đời của một hành giả sa môn?
Tôi nên hay không nên thực hành thiền định? Tôi có nên yêu
nàng hay không? Tôi nên làm theo cách này hay là làm theo cách
khác?”
Những vấn nạn như thế hiện hữu là bởi vì bạn chưa được thông
suốt. Thế rồi những người được mệnh danh là pháp sư, là tu sĩ
của bạn không ngừng đưa ra những lời khuyên bảo thế này thế
nọ. Đó không phải là công việc của một vị thầy thực sự; họ chỉ
đóng vai những vị thầy. Bạn mang cái tâm hoang mang bối rối
chạy tìm đến họ, “Tôi đang phân vân giữa hai lựa chọn, a và b.
Tôi nên chọn cái nào đây?” Thế rồi họ bảo bạn: “Chọn cái a đi
–a mới là đúng còn b là sai.” Họ không hề giúp bạn thoát khỏi
sự mê mờ, họ không cho bạn sự tỏ ngộ. Họ chỉ đơn thuần đưa ra
cho bạn một cái gì đó để bạn bám vào, họ chỉ cho bạn cái ý
niệm về đúng và sai.
Mà cuộc đời là một bí nhiệm -một chuyện có thể đúng vào buổi
sáng nhưng đến chiều tối thì đã sai rồi. Thế là một lần nữa
bạn lại chạy đi tìm vị tu sĩ của bạn và lại thực hành theo
những điều khuyên bảo của ông ta.
Một vị thầy thực sự không bao giờ cho bạn bất cứ ý niệm nào về
đúng và sai, ông ta chỉ mang đến cho bạn cái tuệ giác. Bởi vì
bạn chạy đến tìm tôi vào buổi chiều, có thể tôi không còn ở đó
nữa…
Mới hôm kia đây Chinmaya đã đến với tôi. Anh có vẻ rất lo lắng
hoảng sợ về cái chết. Cũng tốt thôi, rất tốt nữa là khác. Các
bác sĩ đã báo cho anh ta biết rằng sinh mạng của ảnh đang lâm
nguy, điều đó khiến anh ta mất bình tĩnh, run sợ và trong suốt
ba hôm qua đã không tài nào nhắm mắt được. Anh ta không biết
rằng đó là một cơ hội hiếm có -bởi vì cái chết đều sẽ đến với
mọi người, nhưng nó không hề đến với một báo hiệu trước như
thế.
Vâng, Chinmaya đã đến gặp tôi vào tối hôm qua, rất mực lo
lắng. Và tôi đã bảo anh ta rằng, “Hãy nhìn thẳng vào vấn đề:
Bạn sẽ mất đi cái gì? Bạn đã gặt hái được gì trong đời sống
này? Khi bạn lo sợ có nghĩa là bạn đã tích lũy được khá nhiều
trong cuộc sống và rồi cái chết rồi sẽ cướp đi tất cả. Nhưng
bạn đã tích lũy được gì? Nếu nhìn sâu xa một tí, bạn sẽ thấy
là mình không hề có gì cả, thế thì có gì để phải sợ hãi? Bạn
không hề mất mát bất cứ cái gì cả.”
Tôi bảo anh ta nên quán niệm vào nỗi sợ chết, càng sâu càng
tốt, đừng nên trốn tránh nó. Mọi người đang an ủi anh ta,
“Đừng có quan tâm đến căn bệnh, không có gì đâu, không có gì
phải lo lắng. Uống thuốc và giải phẫu là hết ngay thôi.” Mọi
người đang trấn an anh ta như thế, và anh ta cũng tự trấn an
mình –tìm phương cách, lý giải vấn đề.
Tôi bảo anh ta là cứ việc đối diện với cái chết. Cái chết hiện
hữu ở ngay cốt lõi của từng sinh thể; nó không hề chống lại
chúng ta. Chúng ta còn gần gũi với cái chết hơn là sự sống.
Cái chết còn gắn bó với chúng ta hơn là cuộc sống này, bởi vì
đời sống là cái bánh xe quay, còn cái chết là cái trục trung
tâm.
Và rồi tôi bảo anh ta, “Bạn thật là may mắn khi cái chết đến
tìm bạn với một thông điệp, như là một cuộc hẹn hò. Và bạn lại
càng may mắn hơn khi có tôi ở đây, tôi có thể giúp bạn nhìn
thẳng vào cái chết.”
Trong khi tôi đang nói những điều này, tôi có thể thấy được là
anh ta đang chờ đợi những lời an ủi. Anh ta thực tình không
muốn nghe những điều này, không muốn đối mặt với cái chết. Anh
ta muốn nghe tôi nói lên một điều gì đó, hứa hẹn một điều gì
đó, chẳng hạn như, “Đừng có lo lắng gì cả. Tôi sẽ bảo vệ anh.”
Anh ta đang chờ đợi tôi nói lên lời an ủi, trong khoé mắt của
anh ta tôi nhận ra điều đó.
Thế nhưng một vị thầy không phải là người để an ủi bạn, mà là
người để đánh thức bạn. Nếu cái chết đang tới, có nghĩa là nó
đang tới. Chấp nhận nó, sóng đôi với nó, nhìn sâu vào nó. Có
thể cái chết chưa chắc đã đến gỏ cửa -lời nói của mấy ông thầy
thuốc cũng chưa đáng tin cậy lắm- thế nhưng tại sao bạn lại để
lỡ mất cơ hội này? Có thể cái chết sẽ không đến -thế nhưng khi
cái vấn đề này khởi dậy, tại sao lại không đi sâu vào một
chuyến? Tại sao lại không nếm thử mùi vị của nó? Nếu nó không
đến, tốt. Nếu nó đến, cũng tốt thôi -bởi vì bạn đã ở trong tư
thế chuẩn bị sẵn sàng. Bạn đã thâm nhập vào nỗi chết với phong
thái hoàn toàn chấp nhận, đón chào. Và trong phong thái này,
một cái gì đó sẽ hiển bày ra: cái tận cùng cốt lõi của bạn.
Một khi bạn hoà điệu với cái tận cùng cốt lõi này, tất cả mọi
nỗi sợ hãi đều biến mất.
Thế rồi tôi bảo anh ta, “Có thể là bạn sẽ không chết trong dịp
này –nhưng một ngày nào đó rồi bạn cũng sẽ chết. Lần tới có
thể là tôi không còn có mặt ở đây để nói chuyện, để an ủi bạn.
Thế nhưng nếu tôi thật sự yêu thương bạn, tôi sẽ không an ủi
bạn -bởi vì lần tới bạn sẽ làm gì nếu bạn chết mà không có mặt
tôi ở đây? Như vậy bạn sẽ không có khả năng để tìm ra một
phương cách đối phó.
An ủi không phải là một phương cách. Đó phải là tuệ quán -tức
là điều mà Đức Phật gọi là vipassana, minh sát tuệ. Một
vị thầy sẽ cho bạn sự sáng suốt để nhìn sâu vào vạn hữu. Với
tuệ quán, những sự vật hiển nhiên bày hiện thật hiển nhiên nên
vấn đề chọn lựa không còn đặt ra. Lúc đó bạn sẽ không phải
chọn lựa gì cả, cái tuệ giác của bạn sẽ soi đường chỉ lối –nó
trở thành một ngọn hải đăng.
Đây là những điều cuối cùng mà chính Đức Phật đã thốt ra với
môn đệ trước khi ngài từ giã cõi đời. Trong khi tăng chúng
đang khóc than, ngài bảo, “Hãy ngưng ngay tất cả những chuyện
vô nghĩa này! Hãy lắng nghe đây: Các ngươi hãy tự mình thắp
đuốc lên mà đi. Hãy nhớ lời ta dặn, đây là những lời giáo huấn
cuối cùng của ta. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi: appo
deepo bhava.”
Ngọn đuốc này là gì? Đó là tuệ giác có khả năng nhìn xuyên
suốt vạn hữu. Nếu đó là cái chết, nhìn xuyên suốt vào cái
chết. Nếu đó là thương yêu, nhìn xuyên suốt vào thương yêu.
Nếu nó là đời sống, nhìn xuyên suốt vào đời sống. Nếu đó là
cơn giận, nhìn xuyên suốt vào cơn giận. Chỉ có một việc thôi:
một cái nhìn tuệ giác. Vào buổi sáng nó là thương yêu, vào
buổi tối có thể là nỗi chết. Vào buổi chiều có thể nó là cái
gì đó, vào buổi đêm có thể nó là cái gì đó khác nữa. Thế nhưng
nếu bạn có khả năng của minh sát tuệ, bạn sẽ có thể nhìn thấy
cái hiển nhiên. Một khi cái hiển nhiên được nhận ra như là một
hiển nhiên thì đâu còn gì để chọn lựa.
Đó là điều mà Krishnamurti đã nói, “Đừng chọn lựa”. Thế nhưng
bạn không thể là không chọn lựa, bạn không thể chọn lựa cái
không chọn lựa. Một hôm nào đó, bạn không thể quả quyết rằng:
“Kể từ bây giờ tôi sẽ không chọn lựa” -bởi vì đây cũng là một
chọn lựa.
Sự không chọn lựa không thể được lựa chọn, vô cầu không thể
được tham cầu, vô trụ không thể được thực hành. Đây chính là
thông điệp của Thiền: Nhìn sâu vào vạn hữu, cái hiển nhiên sẽ
tự hiển lộ. Một khi bạn nhận ra đâu là tường, đâu là cửa, bạn
đâu còn cần chọn lựa sẽ phải đi từ đâu, bạn chỉ việc đi ngang
qua cửa. Bạn không cần phải đặt ra câu hỏi cho mình, “Tôi nên
đi ngang qua tường hay đi ngang qua cửa?” -bạn chỉ đơn giản
bước qua cửa thôi.
Bây giờ chúng ta đi vào câu chuyện. Đây là một câu chuyện
thoạt nhìn rất đơn giản nhưng lại rất tuyệt vời; tất cả những
điều tuyệt vời thường rất đơn giản như thế. Nó rất mực hiển
nhiên, rất mực sáng tỏ. Đây là một câu chuyện ngụ ngôn mà Đức
Phật đã sử dụng đến rất nhiều lần. Thực ra nó đã xảy trong
thực tế chứ không hẵn là chuyện ngụ ngôn. Đức Phật đang đi dọc
theo bờ sông và ngài trông thấy đám trẻ con này đang chơi đùa
với nhau với toàn bộ câu chuyện. Sáng hôm sau ngài kể lại
chuyện này, rút ra từ đó một bài học ngụ ngôn. Một câu chuyện
ngụ ngôn tuyệt vời. Hãy đi sâu vào với tuệ quán từng lời từng
chữ một của ngài.
Một nhóm trẻ con đang chơi đùa cạnh bờ sông.
Nếu bạn còn đang chơi đùa, bạn vẫn còn là một đứa trẻ. Trò
chơi của bạn có thể mang những tên gọi khác nhau, là yêu
đương, là chính trị, là tiền bạc, danh vọng... Bạn có thể đang
đùa chơi ở giữa chợ, ở Tân Đề Li hay ở Hoa Thịnh Đốn –tuy
nhiên nếu bạn còn chơi thì có nghĩa là bạn vẫn còn trẻ con.
Nếu bạn vẫn còn dính vào những cuộc chơi và tham dự vào một
cách nghiêm túc –nghiêm túc đến độ bạn sẽ sẵn sàng để đánh
nhau, để giết hay bị giết –thì như vậy có nghĩa là bạn vẫn còn
rất mực trẻ con, bạn chưa bao giờ trưởng thành.
Một nhóm trẻ con đang chơi đùa cạnh bờ sông.
Và dòng sông chính là một hình ảnh biểu trưng của dòng đời.
Đời sống tuôn chảy giống như một dòng sông –và bên cạnh bờ
sông, đám trẻ con vẫn tiếp tục đùa chơi một ngàn lẻ một trò
chơi. Đời sống vẫn không ngừng tuôn chảy –và chúng ta vẫn luôn
mải mê với cuộc chơi của mình đến độ hoàn toàn quên bẳng đi
cuộc đời. Đời sống đang tuôn chảy trong mỗi con người -thế
nhưng chúng ta đã bị dính vào cuộc chơi, tâm trí đã bị cuốn
hút vào đó với thiên kiến.
Thiên kiến là căn bệnh cơ bản của tâm và đó cũng là phương
cách mà người ta trốn lánh giòng sông đời. Tôi muốn nói gì khi
dùng chữ “thiên kiến”? Thiên kiến có nghĩa là tâm hồn bạn đã
bị tràn ngập với quá khứ hoặc tương lai. Bị chiếm lĩnh có
nghĩa là bạn có thể đang ở bất cứ nơi nào đó ngoại trừ bây
giờ và tại đây. Khi bạn hiện hữu ngay bây giờ và tại đây
tức là tâm của bạn không còn bị chiếm lĩnh. Không thiên kiến
–cái tâm đó sẽ là một trong suốt thuần khiết, một rộng mở dung
dị.
Cái tâm không thiên kiến là một cái tâm tỉnh thức, một cái tâm
thông tuệ, cho nên nó luôn hoà nhịp và tuôn chảy cùng với dòng
sông đời. Một cái tâm bị chiếm lĩnh thì chỉ biết đắm mình vào
cuộc chơi một cách nghiêm túc, tích cực. Bạn có thể đi vào chợ
đời để xem con người đang chơi trò chơi tiền bạc một cách đam
mê. Và rồi người ta sẽ lăn ra chết bỏ lại đây biết bao bạc
tiền đã tích lũy được –thế nhưng trong khi còn sống tại đây họ
đã lăn xả vào cuộc chơi một cách rất mực tận tình.
Bây giờ hãy đi vào các thủ đô để xem người ta đang điên cuồng
chơi trò chơi quyền lực. Cái danh từ “thủ đô” –capital- quả
thật là tuyệt. Nó phát xuất từ tiếng “capita”, tức là “thủ”
–là “cái đầu”. Thế nên “capital” -thủ đô- có nghĩa là thành
phố đầu não, hay nói một cách nôm na là phố cuồng. Đủ tất cả
mọi loại người khùng điên đã và đang tập trung ở đó.
Nếu Thượng Đế muốn cứu vớt thế gian này, ông ta chỉ cần làm
một phép lạ đơn thuần là có thể cứu rỗi được tất cả: đó là làm
cho tất cả các thủ đô đều biến mất. Bỗng dưng sẽ không còn Tân
Đề Li, Hoa Thịnh Đốn, Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, Luân Đôn… Bỗng
dưng tất cả các thủ đô đều mất tiêu, và rồi bạn sẽ ngạc nhiên
khi thấy rằng tất cả các người khùng điên đều biến mất. Họ
đang ngự trị ở đó -nếu không ở đó thì họ cũng đang trên đường
chạy đến đó.
Một cuộc chơi vĩ đại. Hàng triệu người đã bỏ mạng trong cuộc
chơi này -dưới danh nghĩa quốc gia dân tộc, cái này cái nọ,
những cái “ism”- ý thức hệ chủ nghĩa. Chủ nghĩa cộng
sản, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quốc xã, chủ nghĩa xã hội…
Và rồi cái gì nữa? Mỹ-Tàu-Nga, Ấn Độ - Hồi quốc – Bangladesh.
Họ cứ tiếp tục lăn xả vào chơi trò chém giết, và cái sinh mệnh
của họ, thành thật mà nói, cứ như trứng treo đầu đẳng. Rồi tất
cả con cháu chúng ta, trong lứa tuổi thanh xuân, chúng đã mất
đi mọi cơ hội để trưởng thành.
Con người cứ thế tiếp tục đánh mất dòng sông đời mình bởi vì
tâm của họ đã bị thiên kiến. Mọi người hầu như đều đã bị cột
chặt vào cuộc chơi của mình như thế… Bạn có bao giờ xem người
ta đánh cờ tướng hay chưa? Họ như quên hết tất cả mọi chuyện
chung quanh. Trong cuộc cờ, người ta bị cuốn hút vào đó đến độ
ngay cả ngôi nhà đang bốc cháy họ cũng không hay biết. Họ chỉ
biết để tâm chăm chú vào những tượng, những mã, những xe,
những pháo giả hiệu -những biểu tượng!
Tất cả mọi người đang chơi trò chơi bị chiếm lĩnh. Nếu bạn
đang lắng nghe tôi và bạn đến đây như là một người Cơ Đốc, có
nghĩa là bạn đã bị thiên kiến chiếm lĩnh. Nếu bạn là người Hồi
giáo hay Phật giáo cũng thế. Ngay cả nếu bạn tin tưởng vào
Thiền, bạn cũng đã bị thiên kiến chiếm lĩnh. Tất cả mọi niềm
tin đều tạo ra thiên kiến. Nếu bạn đang lắng nghe tôi và ở
trong đầu bạn cứ văng vẳng, “Vâng, đúng rồi, điều này đã từng
được nói trong thánh kinh Koran”, thế là bạn đã không hiểu
thánh kinh chút nào. Hoặc giả, “Đúng rồi, đây là những gì mà
Chúa Giêsu đã dạy trong Tân Ước,” thế là bạn đã không hiểu gì
về Chúa Giêsu cả. Bạn đã ngộ nhận cả Chúa Giêsu và cả tôi nữa.
“Thiên kiến” có nghĩa là tâm của bạn đang trụ ở quá khứ hoặc
tương lai mà không hề là bây giờ và tại đây. Một khi bạn hiện
hữu ngay bây giờ và tại đây thì lúc đó sẽ không còn cuộc chơi
nữa. Cuộc chơi ngừng và rồi bạn sẽ miên man tuôn chảy cùng với
dòng sông đời. Rồi là một sự tự phát, một hiểu biết lớn lao,
một lễ hội vĩ đại. Những cuộc chơi chấm dứt, bạn không còn
nhìn mọi chuyện một cách nghiêm trọng nữa. Nếu bạn thắng, tốt.
Nếu bạn thua, cũng tốt thôi. Không có gì khác biệt nữa. Đó là
những gì mà tôi hàm ý rằng “những cuộc chơi biến mất” –nó
không hề mang ý nghĩa rằng một khi đã tỉnh thức, bạn sẽ không
còn sống một cuộc sống đời thường nữa. Không, bạn vẫn sống một
cuộc sống thường nhật, vẫn tiếp tục chẻ cũi, gánh nước –nhưng
với một cái tâm rất mực thanh thản. Bạn vẫn cười đùa, bạn vẫn
yêu thương –nhưng với một phẩm chất hoàn toàn khác biệt.
Bây giờ thì không có gì quan trọng nữa. Nếu nàng bỏ bạn mà đi,
bạn sẽ chào từ biệt với vô vàn biết ơn. Nếu tiền bạc của bạn
bị đánh cắp, bạn sẽ vô cùng thản nhiên, “OK, có ai đó chắc
đang cần tiền.” Không còn vấn đề gì nghiêm trọng nữa, thế
thôi. Tính nghiêm trọng biến mất. Có thể bạn vẫn đang chơi cờ,
nhưng bây giờ thì bạn biết rằng những mã, những tượng, những
tướng, những sĩ đó chỉ là những biểu tượng, chỉ là một ẩn dụ.
Một nhóm trẻ con đang chơi đùa cạnh bờ sông. Chúng đắp lên
những lâu đài bằng cát và mỗi đứa đều bảo vệ cái của mình,
“Cái này là của tao.”
Cuộc chơi trở nên nghiêm trọng khi bắt đầu có cái “của tôi”
hay “thuộc về tôi” xen vào. Đây là của tôi –tính nghiêm
trọng đến từ ý thức chiếm hữu, chấp trước. Thông qua “của tôi”
chúng ta dựng lên cái “Tôi”. Càng sở hữu nhiều chừng nào, cái
“của tôi”, cái “Tôi” càng lớn theo chừng nấy. Cái lãnh thổ
“của tôi” càng lớn chừng nào, thì cái “Tôi” lại càng mạnh mẽ
hơn.
Thế nên khi bạn là một chủ tịch nước, cái “Tôi” của bạn sẽ cao
ngất như cái tháp đụng trời. Khi bạn không còn là chủ tịch
nước nữa, nó sẽ co rút lại; cái tháp kia biến mất, bạn bây giờ
chẳng khác gì một cái cây bị cắt chỉ còn trơ lại gốc.
Khi bạn có tiền, bạn bước đi một cách oai vệ. Khi bạn hết tiền
bạn bắt đầu lung lay, dao động. Khi tiền bạc đầy túi bạn không
hề cảm thấy lạnh lẽo, tiền bạc cho bạn sự ấm áp rất mực. Khi
bạn chỉ còn cái túi rỗng không, bỗng dưng bạn bắt đầu cảm thấy
giá băng, ớn lạnh. Sự ấm áp không còn nữa, ngọn lửa ấm không
còn nữa, và năng lượng cũng biến mất.
Đám trẻ con đang chơi đùa và mỗi đứa đều bảo vệ ngôi lâu đài
của mình, những ngôi lâu đài được làm bằng cát. Tất cả những
ngôi lâu đài đều được xây bằng cát. Chỉ có những lâu đài cát,
không có một loại lâu đài nào khác. Và một lâu đài cát không
sớm thì muộn đều sụp đổ, không có cách gì để bảo vệ chúng. Tất
cả mọi nỗ lực bảo vệ đều vô nghĩa –ngay tự bản chất của nó là
sụp đổ và biến mất, đó là một ngôi lâu đài bằng cát.
Có bao nhiêu lâu đài đã được bạn xây dựng lên và biến mất? Và
rồi bạn vẫn không ngừng xây dựng lên những cái lớn hơn. Khi
một lâu đài nhỏ bị sụp đổ, bạn nghĩ rằng xây một lâu đài lớn
hơn sẽ bền vững hơn. Đã có biết bao nhiêu người sống trên trái
đất này trước khi bạn sinh ra đời? Có biết bao nhiêu triệu
triệu lâu đài đã biến mất? Những lâu đài do A Lịch Sơn Đại Đế
dựng lên, những lâu đài của Nadirshah, của Akbar -tất cả đều
biến mất. Cũng cùng một thứ cát -họ xây dựng lên chúng bởi
cùng một thứ cát và bạn cũng lại xây dựng chúng bằng thứ cát
này.
Khi nhìn rõ như thế, ta từ bỏ cái ý niệm về “của tôi” và
“thuộc về tôi”.
Chúng giữ cho mỗi lâu đài tách biệt ra…
Hiển nhiên thôi. Một khi bạn muốn bảo vệ cho ngôi lâu đài của
mình, bạn phải giữ cho nó tách biệt ra. Bạn phải làm dấu hiệu
riêng, bạn phải xây hàng rào. Bạn phải dựng lên những bảng
hướng dẫn, “Đừng vào đây. Đi lối này, cửa đóng. Đây là lối đi
tư nhân. Cấm vào, vi phạm sẽ bị truy tố. Đây là tài sản của
tôi.”
Chúng giữ cho mỗi lâu đài tách biệt ra để khỏi bị nhầm lẫn
của đứa này với đứa khác.
Mỗi lâu đài của mỗi người đều có bảng tên riêng và họ bảo vệ
chúng hết mức. Nhưng cũng cái lâu đài này đã từng là sở hữu
của ai đó trước bạn và nó sẽ thuộc về ai đó sau khi bạn ra đi.
Thực ra, cái lâu đài này không thuộc về ai cả; nó chỉ thuộc về
cát. Nó tồn tại ở đó, còn con người cứ đến rồi đi. Những cuộc
chơi bày trò dâu biển, nhưng cát biển vẫn ở lại đó sau bao lớp
sóng phế hưng. Cát là vĩnh viễn, những lâu đài chỉ tạm thời.
Khi tất cả những lâu đài hoàn tất, một đứa trẻ đã đá tung
vào lâu đài của một đứa khác và phá hủy toàn bộ. Chủ nhân của
chiếc lâu đài này vô cùng giận dữ…
Hãy nhìn kỹ đi, lần tới bạn nổi giận –phải chăng đã có ai đó
phá hủy ngôi lâu đài của bạn? Hãy nhớ cho -lần tới khi bạn nổi
giận, cứ nhớ đến câu chuyện ngụ ngôn này và rồi bạn sẽ bật
cười. Đâu có cái trọng điểm nào đâu để bạn phải giận dữ, cũng
đâu có trọng điểm nào đâu để bạn phải sống trong cơn giận.
Không có cái “Tôi” và cái “của tôi”. Nếu cái lâu đài cát có
sụp đổ, tức là nó đã phải sụp đổ. Nó chỉ là một lâu đài bằng
cát thôi.
Khi tất cả những lâu đài hoàn tất, một đứa trẻ đã đá tung
vào lâu đài của một đứa khác và phá hủy toàn bộ. Chủ nhân của
chiếc lâu đài này vô cùng giận dữ…
Đó là những gì được gọi là luật lệ của bạn, là toà án, là cảnh
sát đang tiếp tục phần hành. Có ai đó đã phá hủy ngôi lâu đài
của bạn, bạn tri hô lên, “Đến đây bà con ơi! Đến đây giúp tôi
một tay để trừng trị tên phá hoại này.” Vâng, rồi thì mọi
người sẽ chạy đến để giúp bạn, bởi vì họ cũng cần phải bảo vệ
những ngôi lâu đài của họ.
Và như vậy, đây chính là một thoả hiệp; đây là cách thế mà bạn
trừng trị tội phạm. Đây là cách thế mà hàng ngàn người đã bị
quý vị trừng phạt bằng cách tống vào tù, bởi vì họ đã gây
phiền hà đến những ngôi lâu đài của ai đó. Người này trộm tiền
của người kia, người kia đánh cắp bò của người nọ, hay ai đó
vi phạm một chuyện lặt vặt –ăn trộm một vài trái cây trong
vườn nhà bạn. Tất cả cây cối đều là cây cối của Thượng Đế. Thế
nhưng nếu như có ai đó đánh cắp vài trái táo từ cây táo nhà
bạn, thế là bạn giận điên lên, bởi vì bạn cho rằng mình là chủ
nhân.
Cơn giận phát xuất từ ý niệm về sở hữu chủ. Thế nên nếu bạn
thực sự muốn loại bỏ cơn giận, bạn phải buông bỏ ý niệm về sở
hữu chủ. Rất nhiều người đã tìm đến tôi và bảo rằng, “Chúng
tôi rất đau khổ khi cứ phải giận dữ tối ngày. Làm sao để buông
bỏ nó?” Họ cứ nghĩ rằng giận dữ có thể được loại bỏ một cách
trực tiếp -họ không hề biết rằng đó là một vấn đề phức tạp.
Trừ phi bạn buông bỏ ý niệm về sở hữu chủ bạn không thể nào
buông bỏ được cơn giận.
Sự giận dữ chỉ là một ngọn lá trên cái cây sở hữu chủ. Nếu bạn
còn ý niệm về sở hữu, bạn không thể buông bỏ được cơn giận.
Bạn làm chủ vợ bạn, thế rồi có ai đó đi ngang qua nháy mắt với
nàng, thế là bạn nổi cơn thịnh nộ. Làm sao bạn lại không nổi
giận cho được? Bởi vì bạn sở hữu người vợ, nàng là vợ của
bạn làm sao ai đó lại có thể mĩm cười với nàng? Hôn gió với
nàng? Nàng là vợ của bạn -bạn làm chủ nàng, nàng chỉ là
một vật sở hữu. Cũng vậy, người vợ sẽ điên tiết lên khi trông
thấy những phụ nữ khác đang cố gắng ve vản ông chồng của
mình.
Thế là chúng ta sở hữu con người, sở hữu mọi vật, chúng ta làm
chủ. Cơn giận, thịnh nộ được bắt nguồn từ ý thức chủ quyền.
Nếu bạn thực sự muốn vượt khỏi cơn giận, cơn lôi đình thịnh nộ
-mà có ai lại không muốn, trừ phi bạn quá đổi say đắm với căn
bệnh loạn thần kinh chức năng của mình?- Nếu bạn thực sự muốn
loại trừ căn bệnh này, ý niệm về sở hữu chủ cũng phải được
buông bỏ. Ngay từ cái ý niệm “Tôi làm chủ cái gì đó” đã là một
sự xuẩn động rồi.
Thế rồi những người khác cũng sẽ có mặt ở đó để hỗ trợ bạn,
bởi vì chính họ cũng quan ngại đến những tài sản của mình. Nếu
có ai đó xâm phạm vào tài sản của bạn mà không bị trừng phạt
thì rồi người ta sẽ khởi sự hủy diệt tài sản của kẻ khác một
cách dễ dàng. Như thế đó, tất cả mọi người đều sống trong cơn
giận -nếu bạn bắt gặp một tên trộm, tất cả các bạn đều sẽ nhào
đến hắn ta. Mặc dù y trộm tiền của ai đó, không phải của bạn
-thế nhưng tất cả mọi người có mặt tại hiện trường đều nhào
vào y, đánh y, quật y xuống đất và dẫm lên y. Họ sẽ la lên,
“Hắn là một tên trộm. Chúng ta phải trừng trị hắn.” Thế nhưng
tại sao bạn lại trừng trị y? Y có ăn cắp tiền của bạn đâu.
Đúng vậy, y không hề ăn cắp tiền của bạn, thế nhưng y là một
mối hiểm họa -nếu bạn để cho y đánh cắp tiền của ai đó, một
ngày kia y cũng sẽ lắt túi bạn thôi. Thế nên…
Thế nên tốt hơn hết là phải cẩn thận, tốt hơn hết là phải
phòng ngừa ngay từ lúc đầu. Từ đó mà luật pháp có mặt. Luật
pháp thì luôn luôn có khuynh hướng bảo vệ những ông chủ, luôn
luôn đứng về phía những kẻ có tài sản, luôn luôn mang màu sắc
tư bản. Ở đâu cũng thế -ngay cả tại Liên Bang Sô Viết, nơi mà
chủ nghĩa tư bản đã bị xoá tên, luật pháp đứng về phía nhà
nước, bởi vì trong chế độ này, nhà nước là chủ nhân ông tất
cả. Không cần biết ai làm chủ, luật pháp là tên đầy tớ phục vụ
cho ông chủ đó. Nếu nhà nước làm chủ thì luật pháp phục vụ nhà
nước. Quan toà, luật pháp, cảnh sát, toà án, tất cả đều chỉ để
phục vụ cho những kẻ có của -chống lại những kẻ trắng tay.
Luật pháp phục vụ cho những ai “hữu sản” chống lại kẻ “vô
sản”.
Thế giới này như thế, không thể nào hoàn toàn tốt đẹp khi pháp
luật tự nó chỉ phục vụ những ai “hữu sản”. Pháp luật xét xử
thế nào đây? –vô phương. Nó về hùa với những người có tất cả
để chống lại những người không có gì cả. Nó luôn luôn đứng về
phía những kẻ có của –được lập ra bởi những kẻ hữu sản như là
một âm mưu nhằm chống lại những ai mình trần thân trụi, không
tài sản. Đây là một thực tế trong tất cả các xã hội, luật pháp
luôn bất công. Cái mà bạn gọi là công lý thực ra chỉ là một
màu mè giả bộ. Trong một thế giới vẫn còn sự hiện hữu của
quyền làm chủ thì không thể là một thế giới công bình.
Thiền quả thực rất mực vô chính phủ. Tôi cũng là một người vô
chính phủ: Tôi tin tưởng vào một thế giới không còn luật pháp,
tôi hy vọng vươn tới một thế giới như thế. Luật pháp
chỉ có thể biến mất khi nào ý niệm về quyền làm chủ biến mất,
nó không thể biến mất nếu chỉ thay ngôi đổi chủ -bây giờ kẻ
vô-sản biến thành hữu-sản và người hữu-sản biến thành vô-sản.
Thế nhưng có gì thay đổi đâu. Bất cứ ai làm chủ sẽ làm chủ
luật pháp và luật pháp đứng về phía y. Luật pháp chỉ biết phục
vụ. Nó phục vụ những ai có quyền lực, nó không bao giờ phục vụ
kẻ yếu.
“Thằng này đã phá hư lâu đài của tao. Tụi bay đến đây giúp
tao trừng trị nó.” Tất cả những đứa trẻ khác liền chạy đến.
Chúng xúm vào đánh kẻ phá bỉnh bằng gậy, dẫm lên mình y khi y
ngã xuống đất.
Thế rồi chúng trở lại tiếp tục chơi trò chơi xây lâu đài
bằng cát của chúng, mỗi đứa đều xác định, “Cái này là của tao;
không ai có quyền trên cái này. Dang xa ra. Đừng có đụng vào
lâu đài của tao.”
Bạn có thấy điều đó không? –cũng là một trò chơi bổn cũ soạn
lại được diễn ra dưới một ngàn lẻ một phương cách khác nhau từ
xưa đến nay, trên khắp thế gian. Đây là toàn bộ cuộc chơi được
gọi là thế gian.
Nhưng hoàng hôn xuống dần…
Hoàng hôn luôn luôn đến, bạn không thể nào tránh khỏi được.
Nhưng hoàng hôn xuống dần. Trời đã chập choạng tối và tất
cả bọn trẻ đều nghĩ đến việc phải về nhà. Bây giờ thì chẳng
còn đứa trẻ nào quan tâm đến những gì sẽ xảy ra cho những ngôi
lâu đài của chúng. Có đứa dẫm chân lên, có đứa lấy tay xoá
chúng đi. Xong, ai nấy đều quay trở về nhà mình.
Nhưng bất hạnh thay, điều này không xảy đến cho đời sống của
tất cả mọi người. Hoàng hôn đã đến rồi nhưng bạn cứ mãi bám
víu vào buổi bình minh. Buổi hoàng hôn của đời người đã đến và
ngay cả cái chết đã gần kề -thế nhưng bạn cứ mãi bám chặt vào
cuộc đời và sự sống.
Hoàng hôn đến với tất cả mọi người, thế nhưng có rất ít những
ai may mắn biết sử dụng cái buổi chiều của đời người này để
bắt đầu nhận ra rằng không có gì thuộc về chúng ta cả, tất cả
những lâu đài đều chỉ là lâu đài bằng cát.
Bây giờ thì họ không thèm quan tâm đến những gì xảy ra cho
những ngôi lâu đài đó nữa. Không những không lo lắng đến việc
ai đó sẽ làm hư hại chúng, ngay cả chính họ cũng đã dẫm lên và
phá hư chúng. Mọi chuyện đã kết thúc; hoàng hôn đã xuống rồi.
Cánh cửa đời đã khép. Bây giờ là thời điểm quay về với mái nhà
xưa.
Với Thiền gia, “trở lại nhà” có nghĩa là tìm về với bản thể
uyên nguyên của chính mình, là bản lai diện mục. Nên tận dụng
buổi hoàng hôn bất cứ lúc nào nó đến với bạn. Có thể nó đến
rất nhiều lần trong đời –có lúc nó đến như là một thất bại, có
lúc như một thất vọng chán chường, có lúc như là nỗi buồn
phiền, có lúc như là một suy sụp tinh thần. Hãy tận dụng nó.
Có lúc nó là nỗi sợ hãi, thống khổ, có lúc nó là cái chết,
bệnh hoạn -thế nhưng hãy tận dụng nó. Bất cứ lúc nào hoàng hôn
đến, hãy cố gắng để nhận ra rằng không có gì là thuộc về ta,
rằng ta cũng không thuộc về bất cứ cái gì, rằng toàn bộ cái ý
niệm thuộc về là cả một phi lý. Hãy nhận rõ điều đó. Và
bất cứ lúc nào bạn bắt đầu nhận ra cái thế giới ngoại tại là
hoàn toàn vô nghĩa, đừng có tạo ra thêm những ý nghĩa mới cho
cái thế giới này, hãy khởi sự cuộc hành trình hướng nội, trở
về lại mái nhà xưa.
Nhưng hoàng hôn xuống dần. Trời đã chập choạng tối…
Bất cứ lúc nào bạn cảm thấy đi vào bóng tối, đi vào buồn
phiền, đi vào tệ hại, bất cứ lúc nào bạn cảm thấy mình rơi vào
một chuyện bất hạnh, hãy nhớ rằng –đó là lúc có tiếng gọi vẵng
lên từ nơi cố quận: “Trở về nhà đi thôi. Cuộc chơi nay đã
mãn.”
… và tất cả bọn trẻ đều nghĩ đến việc phải về nhà. Bây giờ
thì chẳng còn đứa trẻ nào quan tâm đến những gì sẽ xảy ra cho
những ngôi lâu đài của chúng. Có đứa dẫm chân lên, có đứa lấy
tay xoá chúng đi. Xong, ai nấy đều quay trở về nhà mình.
Trở về mái nhà xưa. Tìm kiếm lại, tìm kiếm tận bên trong ngôi
nhà đó. Và đó là ngôi nhà của vô ngã, anatta –là hư vô,
là tuyệt đối rỗng không. Đó là vô sắc và vô tướng, đó là cái
mà ta gọi là niết bàn.
Một khi đã quay trở về nhà, bạn sẽ có một thị kiến hoàn toàn
khác biệt về vạn pháp. Lúc đó là an lạc, là niềm vui. Sẽ không
còn nữa hoàng hôn, bóng tối. Đất trời luôn là những bình minh,
bởi vì lúc đó tất cả đều chỉ là một mùa xuân, là khúc ca bất
tận, là vũ điệu không ngừng, là tưng bừng lễ hội.
Thế nên lần tới nếu bạn cảm nhận hoàng hôn đến gần và mọi vật
trở nên nhập nhoà đen tối, hãy tận dụng cơ hội này như là một
bàn nhún. Nhảy ngay vào hiện sinh của chính bạn. Tan biến ở
trong đó.
Bạn đi vào vạn hữu như thế đã quá đủ; bây giờ khởi sự đi vào
rỗng không, đi vào phi-hữu. Đã quá đủ để nhìn vào kẻ khác, bây
giờ là lúc khởi sự nhìn vào chính mình. Chúng ta xuẩn động đến
độ ngay cả khi nhìn lại chính mình, chúng ta cũng chỉ nhìn
ngang mà không chịu nhìn thẳng vào. Vâng, đúng như vậy, có lúc
bạn đang đứng trước tấm gương soi và nhìn ngắm chính mình,
nhưng chẳng khác gì bạn đang nhìn ngắm ai đó -bạn chỉ nhìn từ
phía bên ngoài, xem cái mặt, cái màu da, cái vỏ bọc.
Đã quá đủ để bạn nhìn vào kẻ khác, cũng quá đủ để bạn nhìn
ngắm chính mình như người khách lạ. Thời gian đã đến rồi
–hoàng hôn đã xuống, bóng tối đang phủ vây. Hãy bắt đầu nhìn
vào bên trong. Hãy để cho tuệ giác bùng vỡ. Sự nổ bùng
tuệ giác đó sẽ chuyển hoá bạn … từ một con sâu hoá thành con
bướm.
CHÚ THÍCH của DỊCH GIẢ:
1. Xem thêm về Thập Nhị Nhân Duyên (Twleve Links):
1. Ignorance: Vô Minh
2. Volitional formations: Hành
3. Consciuosness: Thức
4. Craving: Ái
5. Grasping: Thủ
6. Becoming: Hữu
7. Rebirth: Sanh
8. Name & Form: Danh sắc
9. Six sense organs: Lục nhập
10. Contact: Xúc
11. Feeling: Thọ
12. Aging & death: Lão & Tử.
2- Lord Byron (George Gordon Byron, 6th
Baron Byron): Sinh ngày 22 tháng Giêng, năm 1788 . Thi hào
người Anh, được coi như là nhân vật hàng đầu của chủ nghĩa
lãng mạn và là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của Âu Châu
mà thơ ông hiện nay vẫn còn rất được ái mộ khắp nơi, đặc biệt
là các tác phẩm Childe Harold's Pilgrimage và Don
Juan.
Không những là một nhà thơ tài danh, ông còn
nổi tiếng cả trên lãnh vực đời tư với cuộc sống ngông nghênh,
nợ nần, tình ái lăng nhăng, và bị cáo buộc là kẻ loạn luân,
đồng tính, thú dâm, một người “khùng điên, xấu xa, rất nguy
hiểm để giao du”. Lord Byron sau này đã tham gia và trở thành
một lãnh tụ trong cuộc cách mạng của Ý chống lại người Áo. Rồi
sau đó ông đến Thổ Nhĩ Kỳ tham dự vào cuộc chiến tranh dành
độc lập của người Hy Lạp chống lại Thổ, và được người Hy Lạp
tôn vinh như là một vị anh hùng quốc gia của họ. Ông mất tại
Missolonghi, Hy Lạp, vào ngày 19 tháng Tư, năm 1824 vì bệnh
sốt.
3- Travers Christmas Humphreys:
Sinh ngày 15 tháng 2, năm 1901, mất ngày 13 tháng tư, năm
1983. Ông là một luật sư danh tiếng của Anh, người đã khởi tố
nhiều vụ kiện gây nhiều tranh cãi trong những thập niên 1940
và 1950 và sau này trở thành một Chánh án của Toà Thượng Thẩm
Anh (1968). Ông là một trong số những nhân vật nổi danh của
Anh quốc đã quy y theo Phật giáo và là người đầu tiên sáng lập
ra Hội Phật giáo Anh quốc - Buddhist Society, London (1924).
Ông là tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu về Phật Giáo Đại
Thừa và đồng thời cũng được đánh giá như là một học giả tiếng
tăm về Shakespear. Cuốn tự truyện của ông, Both Sides of
the Circle được xuất bản vào năm 1978.
4- Xem (1) - Thập Nhị Nhân Duyên ở trên.
|