Bên
Sông
Bán
Nước
Thế giới này còn mang trên mình nỗi đau của cuộc chiến Việt
Nam, Attica, và những vấn nạn tương tự là vì đã đánh mất đi sự
bình an tâm hồn. Cội rễ của vấn đề là do con người không chịu
tĩnh lặng. Thế nên bạo động đã lên tiếng, đủ mọi hình thái bạo
động. Vì Việt Nam, vì Attica, sự bình an tâm hồn càng trở nên
cần thiết hơn bao giờ hết. Đây là những triệu chứng của một
hình thức ung thư trong tâm thức con người. Chúng tự nó không
phải là những tật bệnh mà đơn giản chỉ là những triệu chứng.
Và chúng không thể nào được chữa trị một cách trực tiếp -trừ
phi và cho đến khi nào cái căn nguyên gốc rễ được cắt bỏ hoàn
toàn, hủy diệt toàn diện.
Trải qua bao thời đại, nhân loại luôn sống trong chiến tranh.
Trong suốt ba ngàn năm, chỉ có khoảng bảy trăm năm là tương
đối lắng dịu –nhưng không phải được kéo dài suốt một mạch như
thế. Thỉnh thoảng mặt đất có được một ngày yên tĩnh, đôi khi
vài ba ngày, còn ngoài ra là chiến tranh triền miên.
Chiến tranh là sự kiện trọng đại nhất mà con người mãi luôn dự
phần. Hủy diệt hình như là một cái gì đó cực kỳ hấp dẫn; chém
giết, sát nhân có vẽ như là mục tiêu của ý thức con người.
Trong suốt ba ngàn năm, nhân loại đã dự phần vào ít nhất cũng
năm ngàn trận chiến. Cuộc chiến Việt Nam vì thế chẳng có gì
mới mẻ, nó cũ xưa như con người trên trái đất này. Đó không
phải là những gì chỉ mới xảy ra ngày hôm nay, nó luôn luôn
hiện hữu -bởi vì nhân loại đang bệnh hoạn.
Và rồi bạn hỏi tôi, Thế thì bao nhiêu bình yên nội tâm mới
đủ…? Nhiều đến mức nào mà bạn có thể quản lý được –càng
nhiều càng tốt. Bởi vì chỉ có vô vàn những con người như là
những mặt hồ tĩnh lặng thì mới có thể làm tiêu đi xu hướng xô
đẩy nhân loại vào bạo động. Thế giới này cần rất nhiều những
chiếc hồ tĩnh lặng, rất nhiều những vị Phật, để có thể tạo nên
những rung động mới, những làn sóng mới, những ý thức mới –trong
đó tất cả mọi năng lượng đều chuyển động trong chiều hướng
sáng tạo, tất cả mọi năng lượng đều chuyển động hướng đến yêu
thương, lúc đó chiến tranh mới không còn chỗ đứng.
Thế nên đừng bao giờ nói rằng… Tôi hiểu rõ cái luận lý của vấn
đề. Cái luận lý đó là, nếu con người trở nên rất mực an bình
thì rồi y sẽ không bao giờ phiền muộn về vấn nạn Viêt Nam. Tôi
rất hiểu ý nghĩa của câu hỏi của bạn. Bạn muốn nói lên một
điều, nếu con người trở nên tĩnh lặng, an bình thì rồi họ sẽ
không còn quan tâm gì đến những gì đang xảy ra ở thế giới
chung quanh, mọi việc sẽ không còn gì khác biệt. Như thế, bao
nhiêu yên bình mới đủ? –đó là lý do tại sao bạn nêu lên câu
hỏi.
Tuy nhiên hãy cố gắng để hiểu một điều. Chiến tranh tự nó
không phải là một căn bệnh. Vì tâm không bình -nên chiến tranh
hiện hữu. Chiến tranh chỉ là một hệ quả: an bình tăng thì
chiến tranh giảm. Nếu an bình ngự trị, chiến tranh sẽ biến mất.
Chiến tranh không thể nào biến mất do nỗ lực của những người
tự xưng là những nhà hoạt động hoà bình. Chiến tranh không hề
biến mất vì sự có mặt của một Bertrand Russel. Chiến tranh
không thể tàn lụi vì có những người chống chiến tranh –không
bao giờ. Những người chống chiến tranh sẽ chỉ tạo thêm những
cuộc chiến tranh mới. Bạn có thể thấy rõ điều đó khi quan sát
một cuộc biểu tình của những người hoạt động hoà bình, họ đâu
có khác gì đang tham dự một trận chiến –cũng chống đối, cũng
la lối, hét hò… Bạn có thể thấy trên khuôn mặt họ cũng là
khuôn mặt của những kẻ nguy hiểm. Họ có thể tự gọi mình là
những chiến sĩ hoà bình, nhưng thực ra họ không hề hiểu biết
hoà bình là gì cả. Họ cũng cãi cọ, kiêu căng rất mực và lúc
nào cũng như sẵn sàng để đánh nhau.
Hầu như chuyện thường xảy ra là một cuộc biểu tình đòi hoà
bình luôn biến thành một trận chiến giữa cảnh sát và những
người hoạt động hoà bình. Những nhà hoạt động hoà bình này
thật sự ra chẳng hoà bình chút nào cả. Họ chống chiến tranh.
Họ chống chiến tranh đến mức sẵn sàng gây chiến nếu thấy cần
thiết. Lý tưởng thay đổi, nhưng chiến tranh thì vẫn tiếp tục
lên ngôi.
Một con người của hòa bình không phải là người hoạt động hoà
bình mà đơn giản chỉ là một mặt hồ tĩnh lặng. Nhịp đập của
trái tim y rung lên những nguồn năng lượng mới, hát lên những
bài ca mới chúc tụng cuộc đời. Y sống một đời sống mới hoàn
toàn -của khoan dung, nguyện cầu, của từ bi độ lượng. Bất cứ
ai mà y gần gũi, đều như được chan hoà thêm những
năng-lượng-yêu-thương.
Một con người của hoà bình mang tính sáng tạo. Y không chống
chiến tranh, bởi lẽ khi chống lại bất cứ cái gì thì cũng có
nghĩa là dấn mình vào một cuộc chiến tranh mới. Y không chống
chiến tranh bởi lẽ y hiểu rõ ràng lý do tại sao chiến tranh
hiện hữu. Từ tuệ giác này, y trở nên an bình.
Chỉ khi nào thế giới này có được rất nhiều người như là những
chiếc hồ an bình, tĩnh lặng, hiểu biết thì lúc đó chiến tranh
mới biến mất. Tuy nhiên thoát ly không phải là con đường để
đạt đến an bình. Bạn cho răng, Ta có thể đạt đến sự bình an
tâm hồn bằng thoát ly đời sống… Không bao giờ. Không bao
giờ có chuyện như thế.
Thoát ly đồng nghĩa với chạy trốn. Thoát ly có thể mang cho
bạn một kiểu chết chứ không bao giờ đem lại sự an bình. Sự an
bình thì rất mực sống động. Hoà bình vẫn luôn sinh động hơn
chiến tranh -bởi vì chiến tranh phụng sự cái chết, còn hoà
bình phụng sự đời sống. Hoà bình là sống động, là tươi trẻ, là
nhảy múa reo vui.. Còn thoát ly? –đây là phương thức cũ kỷ
nhất mà những kẻ trốn chạy thường chọn lựa. Rất mực rẻ tiền.
Nó cũng cho bạn một loại an bình nào đó –hãy ghi nhớ điều tôi
nói, ‘một loại an bình nào đó’ - loại an bình mà bạn thường
gặp ở trong nghĩa trang.
Bạn có thể đi vào một tu viện Thiên Chúa Giáo -ở đây bạn cũng
sẽ tìm thấy một loại an bình, tương tự như trong nghĩa trang.
Bạn có thể đến với những tu sĩ Kỳ Na giáo và rồi bạn cũng sẽ
gặp một loại an bình nghĩa trang như thế. Đây chỉ là những xác
chết! Họ đã chối bỏ cuộc đời. Cái ngày mà bạn chối bỏ cuộc đời
cũng có nghĩa là ngày bạn chối bỏ mọi trách nhiệm, chối bỏ tất
cả mọi sự dự phần, mọi trách nhiệm để sống, để thương yêu, gắn
bó tương quan. Họ có thể không còn tranh chiến nữa, nhưng cũng
không còn chất liệu thương yêu.
Thoát ly như thế sẽ mang lại một sự an bình rất mực hoang vu,
không có chiến tranh nhưng cũng thiếu vắng yêu thương.
Thế nhưng đâu là mục tiêu? Bạn đang tạt nước tắm vào trẻ sơ
sinh.
Thương yêu cần phải được nuôi dưỡng. Toàn bộ nguồn năng lượng
của bạo động, tranh chấp, chiến tranh cần phải được chuyển hoá
vào yêu thương. Hoà bình tự nó không thể là mục tiêu. Hoà bình
chỉ có thể là một phương tiện cho cuộc sống, làm cho cuộc sống
giàu có, phong phú hơn. Hoà bình không thể là cứu cánh -chỉ để
được an bình sẽ là hoàn toàn vô nghĩa, sẽ chẳng dẫn ta đi đến
đâu. Để được an bình sẽ không làm thoả mãn bạn –có gì khác
nhau giữa cái chết và an bình đâu?
Thoát ly nhằm tìm kiếm một sự an bình là một hình thức tự sát.
Vâng, thì bạn có thể đi vào rặng Hy Mã Lạp Sơn, ở ẩn trong một
cái hang động nào đó, thế là bạn an bình - bởi vì sẽ không còn
có cơ hội để tranh chấp với ai. Nhưng mà bạn có thay đổi gì
đâu, hoạ chăng là chỉ thay đổi khung cảnh. Bạn cũng vẫn là con
người cũ. Nếu hoàn cảnh khơi động, bạn cũng sẽ nhảy vào cuộc
chiến, cũng đánh nhau thôi. Bạn cũng sẽ rất mực giận dữ nếu có
ai đó đến khiêu khích nhục mạ bạn.
Bạn có thể chui vào sống trong một cái hang động nào đó ở Hy
Mã Lạp Sơn trong suốt ba mươi năm, thế rồi có ai đó tìm đến
nhục mạ và bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy cơn giận bùng cháy trở
lại. Ba mươi năm cũng chẳng giúp ích được gì cho bạn cả, hạt
giống giận dữ vẫn tiềm phục ở đâu đó chờ đợi đúng mùa. Bây giờ
có người đang nhục mạ bạn đây -thế là như mùa xuân đến, cơn
giận đơm bông. Chỉ trong một khoảnh khắc bé nhỏ, tất cả công
lực ba mươi năm thoát ly của bạn tiêu tan!
Đời sống là một thể nghiệm thực sự. Nếu tâm của bạn thực sự an
bình, thì bạn cứ việc thỏng tay vào chợ -đó là nơi thử thách
tốt nhất. Cố gắng an bình ở trong đó. Tôi không chủ trương
thoát ly. Tôi chủ trương chuyển hoá. Tôi không chủ trương chạy
trốn. Tôi chủ trương gắn bó với cuộc đời. Sống một đời sống
đến tận cùng trọn vẹn. Tìm phương cách để sống một cách an
bình, trong thiền quán sâu sắc, trong cách thế thánh thiện.
Nhưng đừng trốn chạy.
Kẻ trốn chạy là một tên hèn nhát; không có môt chút can đảm
nào. Y nhắm đôi mắt lại vì quá đổi kinh sợ cuộc đời. Đây là
kiểu luận lý của loài đà điểu chứ không phải của con người. Nó
ở dưới mức người rất xa, nếu không nói là đần độn. Chỉ nhắm
đôi mắt của bạn lại thì tình thế có thay đổi gì đâu; thế giới
này vẫn y như cũ. Bạn có thể tin rằng mọi chuyện đang thay đổi,
bởi vì bạn không còn trông thấy bất cứ cái gì nữa. Ngôi nhà
của bạn đang cháy, có thể nào bạn lại ngồi yên với đôi mắt
nhắm để tin rằng nó không hề cháy và rằng tất cả đều ok? Bạn
có thể tạo ra một trạng huống tự thôi miên mình –và dĩ nhiên
bạn sẽ không bị quấy rầy, thế nhưng khi mở mắt ra, ngôi nhà
vẫn nằm trong ngọn lửa.
Một con người của hòa bình thực sự sống với thế giới này, sống
trong thế giới này, nhưng không hề thuộc về nó. Y sẽ làm mọi
chuyện có thể làm được -nếu căn nhà bốc cháy y sẽ làm tất cả
những gì có thể làm để dập tắt ngọn lửa- thế nhưng y không hề
bị xáo động, quẫn trí. Y vẫn luôn trầm tĩnh không dao động.
Sự thể nhập vào thực tại đó chính là an bình thực sự. Ta có
thể đạt đến sự bình an tâm hồn bằng thoát ly đời sống…
Không, chẳng bao giờ và sẽ không bao giờ có thể đạt được…
bằng cách làm dịu xuống những cơn lốc xoáy của tâm. Không bao
giờ. Bằng cách làm dịu xuống những cơn lốc xoáy của tâm, bạn
có thể buộc cho tâm an, nhưng đó vẫn là một hình thức trấn áp.
Niềm an bình thực sự không thể đến từ trấn áp. Cái tâm không
thể bị đè nén mà phải được thông hiểu. Tại sao tâm ta lại loạn
động như thế? Tại sao nó cứ mãi lăng xăng? Tại sao? Cái hiện
tượng này của tâm cần phải được soi rọi bằng tuệ giác, bằng
yêu thương, từ bi độ lượng. Nên thân thiện với cái tâm của bạn,
đừng vội vã áp đặt một sự an bình lên nó. Một sự an bình bắt
buộc không phải là một an bình đích thực. Cũng đừng cố gắng để
làm im lắng nó. Sự vắng lặng không hề là một thực thể.
Tĩnh lặng không phải là vắng lặng. Tĩnh lặng xảy đến tình cờ,
vắng lặng do quản lý. Vắng lặng là kết quả của điều khiển. Bạn
ngồi đó kiểm soát cái thân xác của mình bằng một tư thế yoga
chẳng hạn, buộc nó phải tập trung vào một nơi nào đó, Krisna,
Giêsu; đọc đi đọc lại một câu chú –Om, Ram, bất cứ cái gì- cố
gắng chế ngự, kiểm soát để luôn tập trung tâm trí vào một chỗ.
Bạn đang làm công việc tạo ra một tĩnh lặng giả tạo.
Tĩnh lặng thực sự không đến từ ép buộc mà là từ hiểu biết. Bạn
hiểu được tại sao tâm của bạn lại cứ luôn loạn động, nhìn sâu
vào, theo dõi nó: Tâm ơi, tại sao thế? Bạn đi sâu vào những
loạn động của nó -chắc chắn là chúng sẽ có những thông điệp
cho bạn. Bạn đi sâu vào những giấc mơ của nó –ngay cả những
giấc mơ có vẻ rất phi lý nhưng chắc chắn chúng cũng trao gởi
đến bạn những điều gì đó lắng sâu trong tiềm thức. Chặt đứt,
loại bỏ chúng, bạn sẽ không bao giờ lớn dậy -bởi vì bạn đang
chặt đứt phần vô thức của mình. Khi bạn làm vắng lặng cái tâm
của mình, bạn đang làm im lắng cái tiềm thức của bạn, như muốn
nói rằng, “Ta không muốn lắng nghe ngươi.”
Thế nhưng phần vô thức cũng có biết bao điều giá trị để trò
chuyện cùng bạn. Khoa phân tâm học đã chứng minh điều này,
rằng vô thức cũng có những gì đó để trao gởi, truyền đạt. Và
cái phần vô thức này lại ăn ý với Thượng Đế hơn cái được gọi
là ý thức. Thế nhưng cái anh chàng ý thức này thì lại cứ luôn
tìm cách bịt miệng cái anh vô thức phải im tiếng.
Không thể như vậy. Tiếng hát sẽ không còn được cất lên. Bạn có
thể buộc một đứa trẻ ngồi yên do sợ hãi. Bạn có thể cho một
luồng điện giật và bảo nó ngồi im nếu không sẽ bị điện giật
thêm nữa. Vâng, thì rồi nó sẽ ngồi yên. Nhưng bạn gọi cái sự
yên lặng này là an bình chăng? Thực ra trong lòng nó đang giận
sôi lên, trong lòng nó là một trái núi lửa, nó đang nổi cơn
thịnh nộ. Tuy nhiên nó vẫn sẽ phải ngồi yên vì cái luồng điện
quái ác kia.
Đó là những gì mà người ta đang làm -họ làm im lắng cái tâm
bằng sự nhịn ăn. Cũng chẳng khác gì dùng dòng điện giật để trị
cái tâm. Bạn bảo nó rằng, “Làm cái này đi, nếu không ta sẽ
tuyệt thực. Ta sẽ bỏ đói mi. Làm cái này đi -nếu không ta sẽ
ra đứng dưới ánh nắng mặt trời hai mươi bốn giờ cho mi coi.
Làm cái này đi -nếu không ta sẽ trầm mình trong dòng nước đá
suốt đêm cho mi biết”.
Có không biết bao nhiêu giáo phái –Cơ Đốc, Ấn Độ Giáo, Kỳ Na
Giáo, và hàng ngàn giáo phái khác -những giáo phái của bạo dâm.
Những giáo phái khổ hạnh chuyên hành hạ thể xác mình là những
người loạn thần kinh. Nếu bạn tra tấn nó quá mức, cái tâm sẽ
sợ hãi. Cái tâm sợ hãi này sẽ đầu hàng, sẽ trở nên vắng lặng.
Nó sẽ bảo, “OK. Tôi sẽ lặng yên.” Nhưng làm sao những tiếng
hát có thể trổi dậy từ nỗi lặng yên này? Làm thế nào những
khúc luân vũ, hoan ca chúc tụng có thể được khai sinh từ một
yên lắng ép buộc? Không thể nào.
Đó là lý do tại sao những ông thánh của bạn thiếu vắng những
bài ca. Những ông thánh của bạn trông thật buồn rầu, ảm đạm,
cứ như những xác chết. Trong mắt họ không còn nét tinh anh mà
chỉ là những đám bụi mù. Trong trái tim họ những đoá hoa không
còn nở nữa. Không có gì cả. Không bao giờ có những cành sen
trắng mọc lên trong những trái tim của những kẻ được gọi là
ông thánh của bạn. Họ là những sa mạc hoang vu -khô cháy,
giòng mật ngọt đời không còn tuôn chảy nữa.
Tôi không chấp nhận chuyện đó. Đây không phải là tách trà đời
để tôi uống cạn. Và tôi muốn bạn hiểu thật sâu sắc chuyện này,
bởi vì những người đi trên đường tu thường bị rơi vào cạm bẫy
này. Có vẻ như điều đó dễ dàng hơn đối với họ. Không cần phải
hiểu rõ cái tâm, chỉ việc ép buộc nó. Để hiểu biết hình như
phải đi bằng một con đường dài hơn. Nhưng bạn nhớ cho, sẽ
không bao giờ có những con đường tắt.
Sự trưởng thành tâm linh đến bằng một con đường gian khó hơn,
lâu dài hơn. Hành giả phải lên đường với một cái tâm đầy hiểu
biết sâu sắc. Tiếp tục đi từng bậc một -bằng một sự kiên nhẫn
vô bờ, lần hồi sẽ thành tựu kết quả. Lên đường như vào một
cuộc chơi lớn rồi công trình sẽ phải hoàn tất.
Đến một ngày nào đó, khi bạn thấu hiểu được tất cả những thông
điệp của tâm, lúc đó tâm sẽ trở nên tĩnh lặng. Bởi vì sẽ không
còn gì để nói ra. Nó đã được nghe; nó đã gặp được ông chủ. Lúc
đó tâm trở nên tĩnh lặng trong hoà điệu với chính mình. Nó rơi
vào tĩnh lặng mà không cần đến một nỗ lực nào ở bạn., rơi vào
tĩnh lặng rất đỗi nhẹ nhàng. Lúc ấy tĩnh lặng mang một nét
đẹp tuyệt vời, là một ân sủng vô biên.
Một gắn bó tín ngưỡng có cần thiết đòi hỏi
sự tỉnh thức lành mạnh?
Sự tỉnh thức cần phải được đi theo bằng một hành động. Tỉnh
thức cần phải được nở hoa trong hành động. Bằng không, chỉ
tỉnh thức thôi cũng chưa đủ.
Đó là những gì được gọi là gắn bó. Khi bạn tỉnh thức, đời sống
của bạn được chuyển hoá. Sự tỉnh thức này không chỉ tồn tại ở
trong bạn –nó không phải là kho tàng của một tên keo kiệt, chỉ
biết tích trữ mà không bao giờ dùng đến. Một khi bắt đầu tuôn
chảy vào đời bạn, nó trở thành một phần của mỗi hoạt động,
thắp sáng tất cả những hành động của bạn. Bây giờ bất cứ bạn
làm điều gì cũng sẽ hoàn toàn khác biệt với trước đây, phẩm
chất của nó sẽ rất khác xa. Nếu bạn yêu, bạn cũng sẽ yêu trong
một cách thế hoàn toàn mới mẻ, yêu trong tỉnh thức. Tình yêu
của bạn sẽ không còn là một chìm đắm. Người đời chìm đắm trong
tình yêu. Một con người tỉnh thức không hề chìm đắm, mà ngược
lại, vươn dậy trong tình yêu. Y vươn cao lên, chứ không chìm
xuống thấp.
Cái mà bạn gọi là tình yêu hầu như chỉ là một ảo ảnh. Con
người tỉnh thức có một tình yêu khác biệt, không phải là ảo
ảnh, khởi dậy trong tim y. Bạn chỉ muốn lợi dụng người ta và
người khác cũng muốn lợi dụng bạn, thế là có một đổi chác qua
lại -một khế ước cùng nhau. Bạn chẳng hề yêu y mà y cũng
chẳng hề yêu bạn. Y chỉ yêu y và bạn chỉ yêu bạn. Bạn lợi dụng
người ta và người ta lợi dụng bạn, thế thôi.
Đây chỉ là một hình thức dàn xếp, điều chỉnh, và bạn gọi đó là
tình yêu. Nhưng rồi những sự điều chỉnh này sẽ chẳng tồn tại
lâu dài, chúng không thê đi xa hơn. Không sớm thì muộn bạn sẽ
cảm thấy chán ngấy lên với y và y cũng thế. Bạn đã từng nhìn
vào nhau, bạn đã từng tìm hiểu nhau, và bây giờ hình như chẳng
còn điều gì mới mẻ nữa. Những thích thú ban đầu tàn lụi, và
tình yêu cũng biến mất theo. Bây giờ những gì còn lại là chịu
đựng, do bởi những hứa hẹn ban đầu, những buộc ràng quá khứ.
Chẳng đặng đừng, bạn buộc phải tiếp tục thôi.
Đó là điều xảy ra của tất cả những gì được gọi là hôn nhân. Nó
chẳng phải là tình yêu, không bao giờ là tình yêu, mà thực ra
là một sự lừa dối. Và sự lừa dối này được tạo nên bởi những
thay đổi hoá chất trong con người bạn. Đây cũng là một hoá
chất như là bạn đang dùng một thứ dược phẩm. Một vài kích
thích tố, một vài hoá chất được phóng thích từ huyết quản khơi
dậy cho bạn một cái ảo ảnh và bạn bắt đầu trông thấy những
chuyện vốn chẳng hề hiện hữu bao giờ.
Khi bạn bắt đầu yêu một người đàn bà, bạn nhìn thấy ở nàng
những cái vốn chẳng hề thực sự có mặt. Không ai trông thấy
chúng, ngoại trừ bạn. Và người đàn bà cũng bắt đầu nhìn thấy ở
bạn những ảo ảnh như thế, những cái hoá chất này của bạn đang
hỗ trợ cho nhau. Bạn đang đi vào một cơn mơ -một giấc mơ với
đôi mắt rộng mở; đó là một loại mộng du. Không sớm thì muộn nó
sẽ tan vỡ, không sớm thì muộn thực tế sẽ lên tiếng nói.
Một con người của tỉnh thức không hề chìm đắm, mà ngược lại,
vươn dậy trong tình yêu. Chỉ có con người của tỉnh thức mới có
đủ khả năng để yêu, bởi vì y nhìn rõ được mình. Bây giờ tình
yêu không còn cần thiết nữa, y có thể rất mực hạnh phúc trong
cô đơn. Hãy ghi nhớ điều này, đây là một trong những chỉ dấu
của một con người tỉnh thức: y có thể hạnh phúc trong cô đơn.
Niềm hạnh phúc của y là một tuyệt đỉnh cô đơn ngay cả khi y
chung đụng cùng kẻ khác. Niềm hạnh phúc của y không còn phải
dựa vào bất cứ ai, niềm hạnh phúc của y là rất mực tự tại. Bây
giờ thì y sẵn sàng để chia xẽ, sẵn sàng để trao tặng. Nó đầy
ắp trong y, không ngừng tuôn chảy, không hề khô cạn… Và rồi y
sẽ làm gì với nó đây? Y cần phải chia xẻ với mọi người.
Một con người của tỉnh thức luôn chia xẻ tình yêu của mình;
một con người của vô minh không hề có tình yêu để chia xẻ. Y
chỉ giả bộ như đang ban phát tình yêu, bởi vì tận trong đáy
tâm hồn y chỉ muốn nhận chứ không hề muốn cho. Thực sự, một
con người của vô minh chỉ muốn được yêu -thế nên y đã phải giả
bộ “I love you”.
Hai kẻ được gọi là yêu nhau đều làm một chuyện giống hệt nhau
trong tương quan đối xử. Cả hai đều cần tình yêu, nhưng cả hai
cùng đánh mất tình yêu -cả hai đều không có khả năng hiện hữu
và hạnh phúc một mình. Để hạnh phúc họ cần sự có mặt của người
khác, cần nương tựa vào, tìm biết ở người khác. Tình yêu của
họ vì thế cũng chẳng khác gì cái mồi để câu cá. Họ có thích
mang thực phẩm cho cá đâu. Mồi đâu phải là thực phẩm mà chỉ là
cái bẩy.
Một con người của tỉnh thức thương yêu –không phải vì y cần
yêu, mà là vì y có quá nhiều để trao tặng, san sẻ. Tình yêu
chẳng khác gì những đoá hoa -nếu bạn không trao tặng ai, nó sẽ
khô héo tàn úa. Tình yêu cũng giống như những đoá hoa -sớm nở,
tối tàn. Thì hãy cho đi. Bạn không thể tích trữ chúng. Đó là
một trong những điều tuyệt vời nhất của hoa. Đó cũng là một
trong những điều tệ hại nhất của bạc vàng châu báu, chúng có
thể được tích trữ mà hoa thì không. Bạn không thể tích trữ
những cánh hoa. Nếu bỏ chúng vào hộp, cất giữ chúng, chúng sẽ
chết khô.
Có một câu chuyện ngụ ngôn xưa như thế này…
Một ông vua kia có ba vị hoàng tử và ông muốn chọn một người
để kế vị. Khổ một nỗi là cả ba vị hoàng tử đều thông minh, tài
trí và can đảm như nhau. Họ lại là anh em sinh ba, cùng tuổi
tác với nhau, nên lại càng thêm khó chọn lựa. Phải chọn ai bây
giờ đây? Nhà vua tìm đến vấn kế một nhà thông thái, và ông ta
đua ra một giải pháp.
Nhà vua về đến hoàng cung và cho triệu tập cả ba vị hoàng tử
lại. Ông ta trao cho mỗi người con một bọc hạt giống hoa và
bảo họ là ông sẽ thực hiện một cuộc hành hương trong nay mai –teerthayatra.
“Ta sẽ vắng mặt chừng vài năm -một, hai ba, hoặc có thể lâu
hơn. Đây là một cuộc thử thách cho các ngươi. Những bọc hạt
giống này sẽ phải hoàn lại cho ta khi ta trở về. Ai bảo quản
chúng tốt nhất sẽ là người nố nghiệp ta.” Xong, nhà vua lên
đường hành hương.
Vị hoàng tử thứ nhất nghĩ thầm, “Ta sẽ làm gì với bọc hạt
giống này đây?” Y liền đem cất giữ chug trong một hộp sắt an
toàn -với hy vọng là khi người cha trở về, y sẽ hoàn trả lại
cho cha đúng y những gì mà ông ta đã giao trước khi ra đi.
Vị hoàng tử thứ hai có một suy nghĩ khác, “Nếu ta cất giữ
chúng trong hộp như anh ta đã làm, chắc chắn là chúng sẽ chết.
Hạt giống mà chết thì đâu còn gọi là hạt giống nữa. Và rồi cha
ta thế nào cũng sẽ phản đối, ‘Ta trao cho ngươi những hạt
giống còn sống là để có thể gieo trồng được –còn những hạt
giống này thì chết khô rồi còn trồng trọt gì được nữa. Như vậy
ngươi đâu có hoàn trả cho ta những gì mà ta đã giao trước đây
đâu’”.
Thế rồi y mang bọc hạt giống đem ra chợ bán lấy một số tiền và
giữ lại, nghĩ rằng, “Lúc nào phụ vương trở về, ta chỉ việc ra
chợ mua một bọc hạt giống mới, chắc chắn là tuyệt hảo hơn bọc
hạt giống mà ông đã trao trước đây.”
Nhưng vị hoàng tử thứ ba thì không làm như hai người kia. Anh
ta mang bọc hạt giống vào vườn hoa và tung rải khắp nơi.
Ba năm sau, khi nhà vua trở về, vị hoàng tử thứ nhất mở chiếc
hộp sắt đựng hạt giống. Chúng đã mốc meo và bay mùi hôi thối.
Nhà vua bảo, “Cái gì vậy! Đây có phải là những hạt giống mà ta
đã trao cho nhà ngươi lúc trước đâu? Lúc đó chúng có khả năng
nở hoa và mang lại mùi hương cơ mà –còn bây giờ những hạt
giống này thì lại bay mùi sình thối. Chúng đâu còn là những
hạt giống trước kia!” Người con liền phân bua, “Nhưng thưa phụ
vương, đây vẫn là những hạt giống mà cha đã trao cho con lúc
trước mà.” Nhà vua trả lời, “Nhà ngươi thật là một người duy
vật.”
Nhà vua tìm đến người con thứ hai. Vị hoàng tử này liền vội
chạy ra chợ mua một bọc hạt giống mới trở về trao cho cha và
bảo, “Thưa phụ vương, đây là những hạt giống.” Người cha
không đồng ý, “Nhưng đây đâu có giống với những hạt giống
trước kia đâu. Hoàn toàn không giống hệt chút nào. Ngươi khá
hơn anh ngươi một chút nhưng vẫn không đủ khả năng như ta mong
đợi. Ngươi chỉ là một nhà tâm lý học.”
Vâng, cái hồn thì khá hơn cái xác chút đỉnh -một người tin vào
cái tâm thì có phần nào khá hơn một kẻ duy vật.
Nhà vua liền đi gặp vị hoàng tử thứ ba với đầy dẫy hy vọng
nhưng cũng không ngớt lo âu: “Không biết y đã làm gì với những
hạt giống này.” Thế rồi người con thứ ba dẫn nhà vua ra vườn
ngự uyển. Ở đó hàng triệu cánh hoa đang đơm bông, ở đâu cũng
chỉ thấy toàn là hoa với hoa. Vị hoàng tử nới với nhà vua,
“Đây là những hạt giống mà phụ vương đã trao cho con. Con sẽ
thu hoạch ngay và hoàn trả lại cho cha. Bây giờ cũng đã đến
mùa thu hoạch rồi..”
Nhà vua rất hài lòng, “Ngươi mới đúng là người duy tâm, xứng
đáng để nối ngôi ta. Đây là phương cách mà người ta xử sự với
hạt giống.”
Tâm có thể lưu trữ, tâm có thể tính toán –nhưng điều đó sẽ
chẳng làm nên tích sự gì. Kẻ lưu trữ sẽ chẳng bao giờ hiểu
được đời sống, và cái tâm tính toán cũng sẽ làm mất nó. Chỉ có
cái tâm sáng tạo mới có thể hiểu được đời sống. Đó là nét
tuyệt vời của những bông hoa –chúng không thể cất giữ. Chúng
là hình ảnh của Thượng Đế: Thượng Đế không thể được lưu trữ.
Chúng là hình ảnh của tình yêu: Tình yêu không thể được lưu
trữ.
Không phải là chuyện tình cờ mà trải qua bao thời đại, ở bất
cứ xã hội nào, đất nước nào người ta đã xem bông hoa là hình
ảnh tiêu biểu của tình yêu. Chẳng phải là chuyện tình cờ chút
nào. Tình yêu giống như một đoá hoa –khi nó bắt đầu nở rộ
trong tim bạn, bạn phải tung rải ra, phải chia xẻ, trao tặng.
Bạn phải tìm ra người san sẻ nó. Và khi có ai đó đón nhận tình
yêu này, trong lòng bạn sẽ thấy một nỗi biết ơn vô cùng. Bởi
vì nếu không, đoá hoa kia rồi sẽ tàn úa –trong tối tăm, quên
lãng.
Và rồi bạn càng cho bao nhiêu, tình yêu càng lớn dậy chừng ấy.
Bạn càng tiếp tục cho đi, thì sẽ đến một ngày, bạn sẽ trở
thành một nguồn mạch bất tận của tình yêu.
Một con người của tỉnh thức cũng yêu như mọi người, nhưng phẩm
chất tình yêu của y sẽ hoàn toàn khác biệt. Tình yêu đó sẽ là
một thực tại khác biệt, sẽ vươn toả đến một chiều kích khác
biệt. Y sẽ hành động, bởi vì mỗi tỉnh thức phải biến thành một
hành động. Tỉnh thức là một hạt giống mà hành động là hoa trái
kết thành.
Bạn hỏi rằng, Một gắn bó tín ngưỡng có cần thiết đòi hỏi sự
tỉnh thức lành mạnh? Nó cần thiết biến thành hành động, và
từ đó trở thành một gắn bó thiết thân. Một người tín ngưỡng
đích thực là một người rất mực gắn bó. Nhưng y không hề gắn bó
với bất cứ ý thức hệ nào, hãy ghi nhớ điều này. Một người Cơ
Đốc thì gắn bó với Cơ Đốc Giáo. Một người Ấn Độ Giáo gắn bó
với tôn giáo của mình. Một người quốc gia gắn bó với đất nước
của y, một chính trị gia gắn bó với đảng phái của mình. Còn
một người tín ngưỡng thì không, y không có những loại gắn bó
như thế. Y không hề gắn bó với bất cứ một đất nước nào, bởi vì
một người tín ngưỡng biết chắc một điều là không hề có những
biên giới quốc gia. Y không thuộc về một đất nước nào cả.
Một người tín ngưỡng không hề gắn bó với bất cứ đảng phái nào;
y không có đảng phái. Một người tín ngưỡng không gắn bó với
bất cứ ý thức hệ, tín điều, học thuyết nào, không bao giờ. Y
chỉ gắn bó với Thượng Đế, với tâm thức, với hiện hữu tự thân.
Y sống trong Thượng Đế, trong từng bước đi, trong từng hơi thở,
yêu và chết trong Thượng Đế. Gắn bó của y là Thượng Đế, gắn bó
của y là tín ngưỡng.
Vâng. nó cần thiết đòi hỏi gắn bó. Vấn đề đặt ra là vì
trong quá khứ những người được gọi là tín ngưỡng thường là
những kẻ trốn chạy. Một khi trở thành một con người tín ngưỡng,
họ chạy trốn cuộc đời, họ đào thoát, họ không còn có mặt ở đây.
Chủ nghĩa thoát ly này thực sự không phải là một dấu hiệu của
một tín ngưỡng chân thực mà cho ta thấy một điều đơn giản rằng
họ chưa hề tỉnh thức, nếu không hành động đã nở hoa.
Đó là những gì đã xảy ra. Khi Mahavira tìm kiếm chân lý, ông
ta đã đi vào rừng sâu. Thế nhưng khi tìm thấy rồi, ông ta quay
trở lại với xã hội này. Khi Đức Phật đi tìm chân lý, ngài cũng
đã đi vào rừng sâu. Nhưng khi chứng quả, ngài cũng quay trở
lại với đời sống thế gian. Ta phải quay trở lại. Có thể là
trên hành trình tìm kiếm, bạn cần một khung cảnh đặc biệt nào
đó, để trợ giúp cho sự tìm kiếm này. Nhưng một khi đã tìm thấy
rồi, bạn cần quay trở về với cuộc đời. Bạn cần phải chia xẻ.
Bạn có thể tìm kiếm trong đơn độc, thế nhưng làm sao bạn có
thể chia xẻ nếu như không có ai để chia xẻ cùng?
Thưa tôn giả, tôi là một người rất mới ở đây, và tôi
cảm thấy bức xúc khi nghe ngài sử dụng những danh
từ đại loại như “đám con hoang”, v.v… Tôi không thể
tin rằng một vị thánh lại sử dụng những ngôn từ như vậy.
Ngài có thể nói thêm ít nhiều về vấn đề này không?
Tôi không phải là một ông thánh. Xin làm ơn bỏ cái danh xưng
vô nghĩa đó đối với tôi –Tôi không hề là một vị thánh! Và tôi
cảm thấy rất hạnh phúc với điều này. Cũng nên lưu ý rằng: Đừng
bao giờ dại dột trở thành một vị thánh. Cứ làm một con người
rất mực bình thường là đủ lắm rồi.
Tâm lý con người thường là như thế, cứ thích chuyện chiếu dưới
chiếu trên . Điều này không những đã chia rẽ con người thành
thứ bậc cao thấp mà ngay cả trong ý niệm ngôn từ cũng chia
cách như thế -có Bà-la-môn và hạ tiện, có tốt và xấu, có đáng
trọng và đáng khinh. Đây là chuyện rất mực điên rồ. Tất cả
ngôn từ đều giống nhau. Chức năng của ngôn từ là để diễn đạt
một cái gì đó. Những ngôn từ diễn đạt được ý niệm đều là tốt -chỉ
có những ngôn từ không nói lên được điều gì cả, người ta gọi
đó là vô nghĩa. Và rồi thỉnh thoảng lại có chuyện xảy ra,
những ngôn từ có vẻ rất chói tai đối với bạn thì lại diễn đạt
được rất nhiều, bởi vì nó phát xuất từ giới bình dân. Và người
bình dân thì lại rất khéo diễn đạt, thực tế. Họ không hề biết
đến những chuyện trừu tượng.
Bây giờ thì cái từ “đám con hoang”, nó đi thẳng, đụng trực
tiếp vào vấn đề. Còn nếu bạn thích vòng vo tam quốc thì ta nói
chuyện lòng vòng –hãy nghe đây.
Câu chuyện hôm nay nói về một ông cha sở đang đứng một mình
tại điểm phát bóng đầu tiên của sân chơi ‘golf’. Trông thấy
một tay chơi cũng đang đứng một mình gần đó, ông ta đề nghị cả
hai cùng chơi chung với nhau. Đánh xong một vài lỗ, người
khách lạ chỉ cho ông cha những khuyết điểm trong cách đánh
golf của ông. Và cuộc chơi càng tiếp diễn ông cha càng được
nghe thêm những lời hướng dẫn -rất qúy báu. Hiệp này kết thúc,
ông đạt hơn sáu điểm so với bình thường trước đây. Ông cha vô
cùng cảm ơn người bạn cùng chơi và được anh ta trả lời, “Tất
cả bài học đó trị giá hai mươi lăm đô. Tôi là người hướng dẫn
chuyên nghiệp ở đây’. Ông cha cố gắng phản đối nhưng chẳng ăn
thua gì nên cuối cùng đành bảo anh ta buổi chiều tạt qua giáo
xứ để lấy tiền. “Khi bạn tới”, ông cha đề nghị thêm, “Mang
luôn cả cha mẹ bạn tới đây, tôi sẽ làm phép cưới cho họ luôn.”
Bây giờ là một chuyện rất lòng vòng khác -về tín ngưỡng, nhưng
rất lòng vòng. Tôi không thích cái kiểu này. Trực tiếp vẫn hay
hơn.
Chuyện xảy ra như thế này, theo Aldous Huxley kể lại…
“Vào cái thời xảy ra nạn đói kém khoai tây lớn nhất tại Ái Nhĩ
Lan chừng một thế kỷ trước đây, một lời cầu nguyện đặc biệt
được soạn ra để tụng đọc trong tất cả các nhà thờ tại Ái Nhĩ
Lan. Mục đích của lời cầu nguyện này là để cầu khấn với đấng
Thượng Đế toàn năng ngăn chặn bệnh tàn rụi cây cối đang hủy
diệt những nông trại khoai tây của Ái Nhĩ Lan. Thế nhưng ngay
tự khởi đầu, cái chữ “potato”-khoai tây- đã là một vấn
nạn. Hiển nhiên trước mắt Chúa Thánh Thần, cái từ này rất là
thấp kém, sặc mùi bình dân và Tin Lành, không thể nào đem ra
mà phát âm tại một nơi thiêng liêng như thế này, nhất là trước
mặt Thiên Chúa… “Potato”. Lạy Chúa tôi! Cái phần kinh
tởm thô bi của cái từ potato này cần phải được đem dấu đi
trong một cụm từ tao nhã mịt mờ tối nghĩa nào đó, và Chúa đã
được yêu cầu hành xử chức năng của ngài để ban cho một cái từ
trừu tượng hơn, cuối cùng đã gọi bằng một cụm từ nghe rất kêu
là “củ thực phẩm qúy giá” –succulent tuber. “Than ôi
văn chương trác tuyệt đã bay vút lên đến tận chín tầng mây của
lố bịch”.
Người ta đã không thể sử dụng cái từ “potato” ở trong
nhà thờ -vì nó quá thô tục, bình dân, Tin lành, thứ ngôn ngữ
của đám cùng đinh, hạ tiện.
Cũng theo Aldous Huxley, trong những trạng huống tương tự như
thế một nhà Thiền sư có thể tránh dùng tiếng “potato” –không
phải vì nó quá thấp kém, nhưng là vì nó rất thông dụng, đáng
quý. Chắc chắn là ông ta cũng không đụng đến cụm từ “succulent
tuber”-“củ thực phẩm qúy giá”, mà chỉ thay thế bằng một
tiêng đơn độc thôi: Spud! (tiếng lóng gọi khoai tây của
người bình dân).
Tôi rất tin cậy ở Thiền. Phương thức tiếp cận của tôi là Thiền.
Tôi yêu mến tất cả những từ ngữ có khả năng diễn đạt. Tôi
không tạo ra một loại thứ bậc tôn ti nào.
Bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy rằng: loại từ ngữ bị coi là
thấp kém hơn trong cái thứ bậc của bạn, thường là tốt hơn -bởi
vì nó đụng trực tiếp vào vấn đề. Người bình dân không thích
nói loanh quanh; họ không mặn mà những chuyện trừu tượng. Họ
nói những gì mà họ muốn nói, không dài dòng văn tự lý thuyết
viễn vông.
Thật là vô nghĩa! Nếu quả tình có những ông Thượng Đế nào đó,
chắc hẵn là ông ta sẽ cười phá lên. “Succulent tuber”?
Bạn có thể ăn một “củ thực phẩm qúy giá” chăng? Bạn sẽ
làm gì với cái “củ thực phẩm qúy giá” này? Khoai tây
thì nói là khoai tây đi cho rồi. Và một củ khoai tây thì rất
mực ngây thơ vô tội!
Thế nhưng chuyện đời thường là như thế. Đó là lý do tại sao
hằng bao thế kỷ qua người ta đã cầu nguyện bằng những loại
ngôn ngữ mà họ không hiểu gì cả. Tại Ấn Độ người ta cầu nguyện
bằng tiếng Sanskrit, một ngôn ngữ chết, mà ngay cả một người
đang cầu nguyện cũng không biết là mình đang nói cái gì. Tại
phương Tây trong rất nhiều thế kỷ, người ta cầu nguyện bằng
tiếng Hy Lạp, Latin, hoặc Hebrew, Aramaic, cũng là những ngôn
ngữ đã biến mất từ lâu. Chuyện đó bây giờ vẫn còn xảy ra.
Người Kỳ Na giáo tiếp tục cầu nguyện bằng tiếng Prakrit, người
Phật tử thì cầu nguyện bằng tiếng Pali. Những ngôn ngữ đó đã
không còn hiện hữu, đã không còn là những ngôn ngữ sống động.
Khó có người hiểu được chúng –ngay cả những người đang sử dụng
cũng không hiểu nốt.
Lối cầu nguyện gì mà lạ thế? Thế nhưng chắc hẵn phải có mục
đích trong đó: Bởi vì những ngôn ngữ đó đã biến mất, chúng trở
nên rất mực cao xa, siêu nhiên, trừu tượng -bạn có thể xử sự
với chúng dễ dàng. Chúng không có vẻ thông dụng chút nào,
chúng trông rất đặc biệt. Nếu bạn đang đối thoại với Thượng Đế
bằng thứ ngôn ngữ mà bạn có thể hiểu được, như thế thì bình
dân quá, xoàng quá, chẳng có gì là màu sắc tôn giáo cả! Đây
chỉ là loại ngôn ngữ mà bạn đang trao đổi với con người –làm
sao lại đem ra dùng cùng thứ ngôn ngữ này với Thượng Đế được?
Khó khăn lắm. Hoá ra là bạn đang hạ thấp Thượng Đế xuống ngang
tầm với bạn chăng?
Thế nhưng chuyện này thì có gì sai lầm? Thượng Đế phải được
lôi xuống trần gian -chỉ như thế mới có thể có sự hiệp thông.
Một là ông ta phải kéo bạn lên, hay là bạn phải kéo ông ta
xuống -sự hiệp thông chỉ có thể xảy ra khi cả hai ở trên cùng
một mặt bằng.
Chuyện này vẫn cứ tiếp tục xảy ra là vì có cái ngã tế vi dính
vào. Bạn không cần phải bức xúc gì cả. Và nếu như cái ngã mà
bạn nâng niu yêu dấu đó đang bức xức, hãy chờ thêm một chút,
tôi sẽ cho nó bức xúc thêm.
Bạn nói rằng, Tôi là một người rất mới ở đây… hẵn nhiên
… và tôi cảm thấy bức xúc khi nghe ngài sử dụng những danh
từ đại loại như “đám con hoang”, v.v… Tốt. Điều đó chúng
tỏ rằng bạn đang còn sống: bạn còn có thể bị bức xúc. Có một
số người ngay cả bức xúc cũng không hề có, họ chỉ là những xác
chết biết đi. Như vậy may ra một cái gì đó có thể xảy ra; như
vậy may ra một cái gì đó có thể được khơi dậy ở trong bạn. Như
vậy tối thiểu là khi tôi đang nói chuyện bạn vẫn luôn tỉnh táo,
không hề ngủ gục.
… Tôi không thể tin rằng một vị thánh lại sử dụng những
ngôn từ như vậy. Chắc chắn là bạn là đang mang sẵn một ý
niệm như thế nào đó về một vị thánh. Nếu bạn đang có bất cứ
loại ý niệm nào về một vị thánh, ý niệm này sẽ phải được hủy
diệt. Ít nhất ở chỗ này, bạn không được phép mang theo những ý
niệm như thế. Tôi là người chuyên đập vỡ thần tượng. Tất cả
những nỗ lực của tôi ở đây là đập vỡ tất cả mọi mẫu mực lý
tưởng, ý niệm, ý thức hệ.
Và đó là toàn bộ quan điểm của Thiền. Tại sao? Bởi vì những ý
niệm này sẽ là những chướng ngại. Nếu như bạn đang có một ý
niệm nào đó rằng một vị thánh phải như thế này, thế nọ; thế là
bạn không biết được rằng một vị thánh là không thể đoán trước
được và bạn không thể nào gán cho ông ta bất cứ ý niệm nào.
Tất cả những ý niệm sẽ biến thành một nhà tù –và một vị thánh
đúng nghĩa như thế sẽ chẳng bao giờ muốn mình bị giam hảm vào
bất cứ ý niệm nào. Y hoàn toàn tự do. Không ai có thể vẽ một
vòng tròn chung quanh y, và bảo rằng –“Đây là vị trí của ông,
đừng có đi ra ngoài cái vòng này nhé.” Nếu có ai đó chấp nhận
chuyện này -chấp nhận chuyện bạn vẽ một cái vòng với những
định nghĩa này nọ và ở yên ở trong đó- chắc chắn y sẽ chẳng
bao giờ là một vị thánh. Nên cảnh giác với y: y yên vị ở đó
chỉ để làm một công việc duy nhất là lừa gạt bạn. Nếu y thuận
theo những ý tưởng của bạn, cũng có nghĩa là y sắp lừa dối bạn
đó thôi.
Nên đi tìm một vị thánh chẳng hề bận tâm gì đến những ý kiến
của bạn đối với mình. Tìm kiếm ai đó chẳng hề đếm xỉa đến
những định kiến của bạn về một vị thánh như thế nào, và rồi
bạn sẽ thấm nhuần ân sủng. Một vị thánh mà lại chạy theo bạn,
chạy theo những ý niệm của bạn thì quả tình chẳng đáng giá
chút nào. Y chỉ là kẻ theo đuôi bạn. Không có một vị thánh nào
–không có một ông Giêsu, ông Phật, ông Mahavira nào- lại chạy
theo khuôn mẫu của bạn cả. Đó là lý do tại sao họ cứ gặp phải
những rắc rối lôi thôi. Nếu chạy theo bạn, chắc hẵn là Chúa
Giêsu đã không bị đóng đinh lên thập tự giá. Nếu chịu đóng
khung trong ý niệm của bạn về một vị thánh, chắc hẵn là
Mahavira đã không bị ném đá, trục xuất ra khỏi làng, đánh đập.
Không bao giờ, ông ta sẽ chẳng bao giờ chạy theo bạn.
Không có một vị thánh nào lại chạy theo ý niệm của bạn cả.
Giây phút mà ai đó bắt đầu chạy theo những ý niệm của bạn, y
không phải là một vị thánh. Y không hề biết giá trị của tự do
–y không hề rơi tỏm vào cái tâm thức tự do vốn có ở trong y, y
không hề biết mình là ai. Cái bản ngã của y cũng là do bạn ban
cho, cũng nhận được từ những ý niệm của bạn. Đây là cái tiêu
chuẩn để phán đoán: Nếu bạn gặp một người chỉ biết hành xử,
chạy theo một loại ý thức hệ nào đó … Một ông tu sĩ Kỳ Na thì
tuân theo những tư tưởng của Kỳ Na Giáo. Một ông tu sĩ Thiên
Chúa Giáo thì tuân theo những tư tưởng của Cơ Đốc giáo. Họ
hành xử theo đúng bài bản. Đây là những kẻ nô lệ, không phải
là những con người đích thực.
Một con người đích thực không thể bị giam giữ, cầm tù. Tôi
không hề là một vị thánh theo cung cách như vậy, để rồi bạn có
thể có những ý niệm như thế nào đó về tôi. Làm ơn quên những
vị thánh của bạn đi. Cứ nhìn thẳng vào tôi. Cứ có mặt ở đây và
nếm thử cái hương vị của tôi. Đừng mang theo bất cứ ý niệm nào
-chắc chắn là tôi sẽ chẳng bao giờ bận tâm đến những điều như
thế. Nếu bạn có bị bức xúc, đó là vấn nạn của chính bạn.
Tôi không vận dụng phương thức nào và cũng không có một nhu
cầu nào để nhận bất cứ một căn cước nào từ bạn. Thế nên những
điều bạn nói cũng chẳng sao cả. Nếu bạn đến đây để học hỏi một
cái gì đó, cứ việc học hỏi. Và rồi bạn sẽ phải vượt qua rất
nhiều cơn bức xúc. Những cái bức xúc đó chính là những tiến
trình thực sự của hiểu biết; những cú “sốc” đó là những tiến
trình của học hỏi.
Nếu bạn là người can đảm, và chỉ như vậy may ra mới có thể
hiện diện ở đây. Bằng không cứ việc ra đi, tìm kiếm các ông
thánh bù nhìn của bạn ở một nơi nào khác.
Tại sao có một số từ ngữ lại bị lên án? Từ ngữ tự nó chỉ là
những âm thanh –làm thế nào mà một số từ nào đó bị đem lên bàn
mổ? Lý do tại đâu? Lý do là vì bạn mang sẵn định kiến về một
số sự việc nào đó. Chẳng hạn như, bạn là người chống đối tình
dục, thế là tất cả những từ ngữ liên quan đến tình dục đều sẽ
bị lên án. Nếu bạn đang chống lại một cái gì đó thì rồi tất cả
những từ nào liên quan đến cái đó đều bị vạ lây. Thực ra những
từ ngữ này không có tội vạ gì cả -sự kết tội này chỉ cho thấy
một điều là bạn đang lên án một cái khác. Nếu bạn là người
chống đối tình dục, thì ngay cả cái từ “tình dục” cũng làm bạn
bức xúc. Thế rồi bạn không thể sử dụng cái từ đó -bạn phải
dùng đến uyển ngữ, bạn phải nói loanh quanh.
Hàng thế kỷ qua người ta đã không dám nói đến tình dục. Đây là
thế kỷ đầu tiên trong lịch sử nhân loại mà con người có đủ can
đảm để đối mặt với nó –suy nghĩ về nó, nghiên cứ về nó, tìm
hiểu vấn đề. Thế rồi hàng ngàn sự kiện mà con người chưa hề
biết đã được khám phá ra trong khoảng hai, ba mươi năm trở lại
đây -bởi vì trước đây đã không có ai dám nghĩ tới chuyện này.
Người nào muốn đi sâu vào lãnh vực này dù mang tinh thần khoa
học đều bị cho là khùng điên, bị giết, hành hình, thảm sát.
Đó là lý do tại sao một trong những năng lượng tiềm ẩn nhất
trong con người vẫn chưa hề được khám phá. Chúng ta hiểu biết
về mặt trăng còn nhiều hơn là hiểu biết về tình dục. Chúng ta
hiểu biết về một hạt điện tử còn nhiều hơn là hiểu biết về
tình dục. Hình như đây là điều ngu xuẩn -bởi vì tình dục là
một nguồn năng lượng của con người. Chúng ta sinh ra từ đó.
Từ đó mà bạn có mặt trên cõi đời này, và rồi con cái bạn cũng
thế -toàn bộ hiện hữu đều liên quan đến chuyện giới tính, nhục
dục.
Nếu bạn không thấu hiểu được cái năng lượng được gọi là tình
dục này, bạn cũng sẽ không bao giờ hiểu được sự sống. Và rồi
làm sao bạn có thể hiểu được Thượng Đế nếu như bạn không hiểu
được sự sống? Thế nhưng thực tế con người không mấy hiểu biết
về nó. Đừng tưởng rằng bạn có ba đứa con là bạn hiểu biết về
tình dục -chuyện sinh con đẻ cái chẳng liên hệ gì. Có con cái
là một chuyện, hiểu biết về tình dục là chuyện khác. Ngay cả
loài vật cũng sinh con đẻ cái vậy –nhưng chúng có hiểu biết gì
về tình dục đâu.
Tại Phi Châu, từ hàng thế kỷ qua, có bộ lạc vẫn còn tin rằng
chuyện đẻ con chẳng có liên hệ gì đến việc giao cấu mà đây là
tặng phẩm của Thượng Đế. Lý do là vì họ không biết cách tính
toán đo lường, không biết đếm số lượng lớn; họ không có các
phép tính số học. Đếm đến chín tháng là chuyện quá lớn lao
không thể làm nổi. Mà phải sau chín tháng đứa trẻ mới ra đời –cũng
có thể là không luôn luôn như vậy, có khi sinh ra có khi không.
Như vậy làm sao có thể cho rằng sự ra đời của đứa trẻ dính líu
đến chuyện giao cấu được? Mà đâu có chắc gì hễ mỗi lần giao
cấu thì sinh ra một đứa con –như vậy liên hệ như thế nào đây?
Rồi lại có sự cách quảng trong vòng chín tháng, một khoảng
cách khá dài. Đối với các xã hội bán khai không hề biết đến
phép tính số học, việc đếm đến chín tháng là chuyện không thể
thực hiện. Làm sao mà đếm? Và ai là người làm công việc đếm
này? Họ hoàn toàn không có một ý niệm nào. Họ cứ việc sinh con
đẻ cái –nhưng hoàn toàn không có một ý niệm nào về chuyện này.
Sinh một đứa trẻ là chuyện hoàn toàn máy móc. Nó không bao hàm
bất cứ một kiến thức nào về tình dục, nó không cần đến sự hiểu
biết này. Thế nên nguồn năng lượng được gọi là tình dục vẫn
còn là điều bí ẩn –chúng ta hiểu biết về dòng điện còn nhiều
hơn là về giới tính. Đây là điều xuẩn động, bởi vì điện lực
đâu có phải là một hiện tượng quan trọng như tình dục. Chúng
ta gần gũi với tình dục hơn, gắn bó với tình dục hơn. Con
người có thể sống không có điện nhưng con người không thể sống
mà không có tình dục. Thế thì tại sao cái từ này lại bị lên án?
Bởi vì người ta đã tạo ra cái ý niệm tội lỗi.
Như vầy tôi nghe…
Cô dâu tương lai: Khi chúng con đámcưới, con sẽ nấu
ăn cho chàng, may vá cho chàng, đánh giày cho chàng, mạng vớ
cho chàng –còn điều gì mà người đàn ông muốn nữa hở mẹ?
Người mẹ: Không gì cả -trừ phi anh ta có
tâm hồn hắc ám.
Tình dục được xem như là một cái gì đó rất mực hắc ám. Một
hiện tượng tự nhiên, ngây thơ vô tội như thế lại bị xem là
chuyện hắc ám. Thế rồi tất cả mọi từ ngữ liên quan đến chuyện
tình dục trở thành bất nhã –chúng không thể được mang ra nói
trong một thế giới văn minh, trong một xã hội được xem là có
văn hoá. Chúng ta đã loại trừ ý niệm tổng quát về tình dục và
thế rồi tất cã những từ ngữ nào dính líu đến nó cũng biến mất
luôn. Cũng giống như trường hợp đối với cái chết –chúng ta đã
không dám đả động nhiều đến cái chết. Ngay cả việc nói đến cái
chết cứ như là một chuyện ghê tởm, phiền phức -người ta tránh
nói đến nó.
Chỉ mới vài hôm trước đây, một nhà xuất bản Anh Quốc –Sheldon
Press- có đề nghị với tôi để họ xuất bản cuốn “Đến Lúc Bạn
Chết” –Until You Die. Họ đã viết thư cho tôi: “Cuốn sách
thật tuyệt, nhưng chúng tôi không muốn có cái tựa đề như thế,
vì chính ý niệm liên quan đến cái chết, “Đến Lúc Bạn Chết”
–Until You Die -sẽ làm người đọc lánh xa. Chúng tôi buộc
lòng phải thay đổi cái nhan đề,” họ nói như thế.
Chính cái tựa đề! Một cái tựa đề tuyệt vời như thế. Một phần
câu nói của Chúa Giêsu! Ngay trên mảnh đất của Cơ Đốc giáo!
Thế mà họ cho rằng cái nhan đề này không được chỉnh lắm, cần
phải được thay đổi đi –“ngay chính cái ý niệm về nó sẽ làm độc
giả lánh xa.”
Không có ai muốn nghĩ đến cái chết. Không có ai muốn nhìn
thẳng vào cái chết. Thế nên những từ ngữ nào dính líu đến cái
chết đều cần phải được đục bỏ.
Đối với tôi toàn bộ cuộc sống là rất mực thiêng liêng. Tất cả
những gì hiện hữu đều rất mực thiêng liêng –thiêng liêng vô
điều kiện. Tôi không hề lên án bất cứ cái gì. Thế rồi toàn bộ
ngôn ngữ thế gian đều ở trong tầm tay của tôi.
Ngài Bhagwan thân mến: Đến Poona cũng chẳng lâu lắc gì,
được biết Rajneesh, trở thành một hành giả, vắt kiệt hết sinh
lực mình, thực hành chung với vài nhóm, rồi rút vào ẩn dật,
loại bỏ một vài thói quen cũ -cần sa ma túy đại loại như thế -đã
yêu, cảm thấy mình ngày càng được nâng cao thêm…
Thế nhưng công việc điểm hoá đó là gì? Vâng, tôi muốn nói
đến thực chất của nó! Ngài biết chứ? Các vị Thầy đều nói đó là:
Tìm ra con đường của bạn, và rồi thực hành công phu ngay trên
chính mình. Một vài vị Thầy khác thì gọi đó là “sự điểm đạo”.
Cho đến nay, vẫn chưa tìm được một đầu mối để hiểu ý nghĩa
đích thực của nó là gì.
Trước tiên: Không hề có một công việc điểm hoá nào ở đây. Ngay
cái từ này đã không thích hợp với những gì đang xảy ra tại nơi
đây. Đây là một cuộc chơi, không phải là một điểm hoá . Gọi đó
là điểm hoá sẽ làm cho sự việc trở thành nghiêm trọng, gọi đó
là điểm hoá cũng có nghĩa là mang cái bản ngã vào, tạo ra thêm
những xung đột. Điểm hoá có nghĩa là xung đột –đó là lý do tại
sao những người theo Gurdjieff đã dùng từ “điểm hoá ”. Toàn bộ
hệ thống của Gurdjieff được biết đến như là “công phu hành trì”,
bởi vì ông ta tin vào sự ma xát, xung đột: người ta phải chiến
đấu cật lực, phải hạ thủ công phu.
Đối với tôi, chẳng có gì gọi là điểm hoá . Sau khi tôi ra đi,
nếu bạn muốn gọi những công việc của tôi bằng một danh xưng
nào đó, hãy gọi đó là một “cuộc chơi”. Cuộc chơi đang tiếp
diễn. Không phải xung đột, cũng chẳng phải ma xát, chỉ là thư
giãn. Nó không làm công việc gì cả -mà ngược lại, chỉ để cho
Thượng Đế hiển lộ tự nhiên. Đìều này hoàn toàn đối nghịch với
cái được gọi là điểm hoá .
Đây không phải là chuyện mà bạn phải làm một cái gì đó để nó
được sinh khởi ra, nhưng thực sự là, tất cả những công việc
bạn làm là không làm gì cả -vô tác. Tất cả những điều bạn làm
sẽ chỉ tạo ra thêm những cản trở, chướng ngại cho chính bạn -bởi
vì bạn càng làm chừng nào, thì cái bản ngã của bạn càng lớn
thêm chừng nấy. Không thể như vậy, bạn phải chấm dứt mọi tác
hành. Bạn phải bắt đầu thả trôi, như suối nguồn tuôn chảy.
Hoàn toàn thư giãn. “Trôi đi”, đó là câu thần chú của tôi. Và
khi bạn ở trong tình trạng hoàn toàn trôi-đi này, mọi việc rồi
sẽ xảy đến. Không phải bạn làm –mà là tác hành của Thượng Đế,
của cái toàn bộ. Bạn chỉ để cho nó xảy ra, đơn giản như thế.
Cũng chẳng khác gì buổi sáng bạn đang ở trong phòng đóng kín
cửa. Ngoài kia mặt trời vẫn có đó, yên lặng đợi chờ bạn. Nó sẽ
không hề gỏ cửa, rung chuông, chỉ lặng yên chờ đợi. Và rồi khi
bạn mở tung cánh cửa ra, nó sẽ ùa vào tràn ngập căn phòng.
Cũng giống y như thế, Thượng Đế luôn luôn chờ sẵn ở bên ngoài
cánh cửa. Nó sẽ không gọi bạn, không gỏ cửa, không gào lên –và
ngay cả không thì thào với bạn. Nó sẽ chỉ đứng yên ở đó. Và
tôi đang gọi Thượng Đế là “nó” chỉ là để hoà điệu với Thiền
gia –khi họ gọi cái này bằng nó.
Nó sẽ vẫn tiếp tục đứng mãi ở đó: và khi bạn mở cửa, nó bước
vào. Tất cả những gì cần thiết là bạn không nên tạo ra bất cứ
chướng ngại nào, bạn không chặn đường đón ngõ. Đừng cản trở
lối đi, thế thôi. Toàn bộ công việc của tôi là -hướng dẫn bạn
làm thế nào để tiếp cận cuộc chơi, làm thế nào để trải lòng
mình ra với hiện hữu, làm thế nào để bạn bén nhạy hơn, nhạy
cảm hơn, sẵn sàng hơn. Để biết nhìn cây cỏ, biết lắng nghe
tiếng chim chóc hát ca, và để tâm hồn bạn rộng mở đến trăng
sao… như thê với thời gian, Thượng Đế bắt đầu tắm mát đời bạn
với cơn mưa đến từ muôn hướng.
Bạn hỏi rằng, Công việc điểm hoá đó là gì? Thì nó đã
được bắt đầu rồi mà. Thế nhưng tất cả những chuyện lớn lao
thường khởi đầu một cách lặng lẽ; chúng không bắt đầu bằng một
tiếng nổ vang. Chúng bắt đầu một cách âm thầm, rất mực lặng lẽ
-như một đứa trẻ thể nhập vào bào thai của người mẹ … cực kỳ
yên lặng. Cũng chẳng khác gì một hạt giống rơi vào lòng đất,
lặng yên như thế … và rồi hạt giống nẩy mầm. Vâng, cũng giống
y như vậy.
Nó đã được bắt đầu rồi. Đây là câu hỏi của Prashantam: Cái
ngày mà bạn nhìn suốt vào mắt tôi và tôi nhìn suốt vào mắt bạn,
nó được bắt đầu. Đây không phải là một nghi thức -sự điểm đạo
đối với tôi không phải là một nghi thức. Có đôi khi nó bắt đầu
ngay cả trước khi bạn gặp tôi, cách xa tôi cả ngàn vạn dặm.
Chỉ mới đêm kia đây, một phụ nữ xinh xắn đã đến quy y với tôi
–tôi đã đặt pháp hiệu cho cô ta là “Paraveeta”. Suốt trong bao
nhiêu tháng, cô ấy không ngừng viết thư đến, nói rằng: Tôi
muốn đến đây, tôi muốn đến đây. Và cô ấy muốn được đảm bảo một
điều rằng, khi cô ấy đến, tôi vẫn sẽ còn có mặt ở đây, bởi vì
cô có cảm giác rằng, mọi chuyện có vẻ như đã quá trễ, có thể
là tôi đã qua đời và cô rất là lo lắng về chuyện này. Bây giờ
thì cô ấy đã đến. Cô ấy đã được điểm hoá ngay cả trước khi cô
ấy đặt chân đến đây. Trước khi đến, cô ấy đã hoà nhập vào
trong tình thương yêu với tôi. Tâm của cô ấy đã đến đây trước
khi thể xác có mặt –cô ấy đã được liên thông; dù cách xa tôi
cả hàng ngàn dặm.
Chuyện điểm hoá tiếp diễn ở đây –mà tôi không gọi bằng danh từ
này- thật ra chỉ là chuyện thương yêu. Việc điểm đạo xảy ra ở
đây không hề là một nghi thức. Sự điểm đạo xảy ra ở tận trong
sâu thẳm của trái tim, trong chính con người bạn. Bạn
Prashantam ạ, thực sự nó đã xảy ra rồi.
Và bạn bảo, Thế nhưng công việc điểm hoá đó là gì? Vâng,
tôi muốn nói đến thực chất của nó! Thì cái chân thực đã
xảy ra rồi và bây giờ bạn lại đang hỏi đến cái không thực.
Bạn muốn một vài chỉ dấu của nó có thể thấy được tận mắt, bạn
muốn trông thấy một cái gì đó rất mực cụ thể, vật lý. Không,
tôi sẽ không cho bạn đâu. Đó là cái gì thuộc về lãnh vực tinh
thần và bạn phải nhìn sâu vào trong bạn. Nó đã xảy ra rồi. Cái
hạt giống đã vỡ ra, những mầm non đã đâm chồi. Có thể là phải
cần một khoảng thời gian lâu hơn để bạn có thể nhận ra chúng,
bởi vì chúng đang còn ở dưới mặt đất. Nhưng rồi chúng sẽ nhú
ra khỏi mặt đất ngay: hãy sẵn sàng để săn sóc chúng.
Các vị Thầy đều nói đó là: Tìm ra con đường của bạn, và rồi
thực hành công phu ngay trên chính mình. Đối vớí tôi:
Tìm ra con đường của bạn -chỉ chừng ấy là đủ rồi. Rồi thì
ta cứ việc rong chơi trên con đường đó. Không có vấn đề điểm
hoá được đặt ra; tất cả công việc điểm hoá là trước khi bạn
tìm ra đạo lộ. Vâng, nếu có chuyện điểm hoá –thì đó là việc
bạn phải tìm kiếm cho ra con đường. Một khi đạo lộ đã mở ra -điều
mà Phật Tổ gọi là srotaapanna- một khi bạn đã trôi đi
cùng với suối nguồn, hãy để cho suối nguồn làm công việc đó.
Bây giờ thì bạn có quyền thư giản! Bây giờ ngay cả việc lội
theo giòng cũng là chuyện lãng phí. Đừng có phí phạm năng
lượng của bạn như thế. Bây giờ thì giòng sông đã tiếp cận bể
cả rồi … Ta đang thể nhập vào cùng với đại dương mênh mông.
Nếu bạn đã trở thành một hành giả, bạn cũng trở thành một -bạn
đã nhập vào giòng. Bạn đâu có cần lội ở trong tôi nữa, chỉ
việc thư giãn, bởi vì bạn đã hoà nhập với tôi làm một … và rồi
bạn sẽ tiếp cận với bể cả. Hãy thư giãn đi –đó là ý nghĩa của
sự buông bỏ.
Theo Thiền, một cách chính xác,
bệnh hoạn căn bản nhất của nhân loại là gì?
Tham cầu, dục vọng, mong muốn được là. Luôn luôn khát khao
thèm muốn một cái gì đó -tiền bạc, Thượng Đế, niết bàn.
Luôn luôn khát khao thèm muốn một cái gì đó –quyền lực, danh
vọng, thế lực. Luôn luôn khát khao thèm muốn một cái gì đó.
Sống mà không bao giờ hiện hữu ở đây, luôn luôn có mặt ở một
nơi khác: Đó là căn bệnh cơ bản nhất của nhân loại, căn bệnh
được gọi là “mong muốn trở nên”. Bạn là một con người. Bạn đã
là cái mà bạn có thể trở thành -bạn không có nhu cầu để trở
thành một cái gì cả. Bạn đã là cái mà bạn hiện đang cố gắng
để trở thành.
Đó là lý do tại sao nếu bạn đến tìm gặp một vị Thiền sư và
hỏi: “Tôi muốn trở thành một ông Phật”, ông ta chắc chắn sẽ
cho bạn một trận đòn. Và rồi ông ta sẽ la lên, “Nếu ta không
đánh ngươi, cả thế giới này sẽ cười vào mặt ta. Ngươi đang là
một vị Phật -thế mà ngươi lại hỏi ta làm thế nào để trở thành
một vị Phật?”
Bạn là những chư thiên, thiên nữ: Đó là điểm mấu chốt nhất ở
đây. Tất cả những gì cần thiết là nhận thức được chuyện này
–ngoài ra không có điều gì khác. Bạn không là cái sẽ thành.
Làm thế nào bạn có thể trở thành một cái gì đó nếu như bạn
không sẵn sàng? Người ta chỉ trở thành cái mà người ta đang
là. Bạn không thể trở thành một cái gì khác, vô phương! Làm
thế nào mà một cái bông hồng có thể trở thành một cái hoa sen?
Bông sen chỉ trở thành bông sen và bông hồng chỉ là bông hồng.
Nếu có ai đó trở thành một vị Phật, điều này có nghĩa là ông
ta đã là một vị Phật. Nếu ai đó trở thành Chúa thì bởi vì ông
ta đã là Thiên Chúa –dĩ nhiên là cần thời gian để ông ta nhận
ra được điều này. Kẻ đần thì cần một khoảng thời gian lâu dài
hơn, thế thôi. Kẻ trí thì không cần phải lâu lắc như thế. Kẻ
toàn tri, toàn giác thì không cần đến một mảy may. Chỉ trong
một sát na là hoàn toàn nhận biết. Chỉ một thoáng gật đầu là
mọi chuyện hoàn tất.
Cái dục vọng này tạo nên sự mê đắm ở con người. Nó tạo nên vô
minh, nó tiềm ẩn trong vô thức, và bạn trở thành một bợm
ghiền. Bởi lẽ bạn không hiện hữu ở đây –làm thế nào mà bạn có
thể bám rễ được? làm thế nào mà bạn có thể đứng vững đôi chân
trên mặt đất? làm thế nào mà bạn có thể trở thành trung tâm
điểm? Thế là bạn đi lang thang quanh thế gian này, khắp cùng
thế giới -trở thành cái này, trở thành cái nọ, ở nơi kia, ở
nơi khác… Thay vì tìm ra chính mình ngay tại chỗ này, bạn lại
chạy đi ở chỗ khác. Thay vì bạn là chính bạn ngay tại khoảnh
khắc này, bạn lại muốn đi tìm mình ở các khoảnh khắc nào đó.
Bạn cứ nghĩ đến đời sống ở thế giới bên kia -thế nhưng bạn
không bao giờ sống một đời sống thực sự trước khi chết.
Một hôm có một người đến gặp tôi và hỏi, “Ngài nói cho tôi
biết đời sống sau khi chết là gì?” Tôi bảo, “Tôi không đề cập
đến chúng. Tôi chỉ nói về đời sống trước khi chết.” Sau
khi chết? Bạn đã không hề sống đời sống trước khi chết, thế mà
bạn lại đang nói về đời sống sau khi chết là sao? Hãy sống
trọn vẹn cuộc sống này! Còn cái đời sống kia để tự nó lo liệu
lấy.
Tham cầu, dục vọng tạo nên cơn ghiền. Khi đôi mắt của người ta
trở nên đờ đẫn đi, người ta bắt đầu cảm thấy run rẩy, hết còn
tỉnh táo. Dục vọng trở thành một tấm màn chắn ngăn che ý thức
–đó chính là bệnh hoạn căn bản. Một khi bạn đắm chìm trong dục
vọng, bạn sẽ không bao giờ còn nhìn thấy chân lý. Chân lý chỉ
được nhận ra khi nào cái bệnh ghiền mang tên là dục vọng đó
biến mất. Lúc bấy giờ đôi mắt của bạn sẽ trở nên trong suốt,
tinh anh. Lúc bấy giờ bất cứ cái gì là, sẽ xuất hiện đúng y
như thế -bạn trở thành một tấm gương soi.
Một tên say rượu đang đứng cạnh chiếc máy bán thuốc lá đặt
phía trước nhà hàng. Y bỏ một đồng tiền vào và rút ra một gói
thuốc, và tiếp tục bỏ một đồng tiền khác vào rồi lấy ra một
gói thuốc khác…
Một khách hàng khác đến gần. Đứng nhìn cái trò này tiếp diễn
một lúc, không còn kiên nhẫn, anh ta bảo, “Bạn có thể nhường
để cho tôi mua một gói được không?”
“Này, bạn có điên không đấy?!” tên say trả lời, “Bộ không thấy
ta đang trong vận hên thắng bạc liên tiếp hay sao?”
Một câu chuyện khác…
Hai người lính đang ngồi uống rượu trong một quán nhậu tại
tỉnh lẻ. Trên bàn của họ là một đống chai ngổn ngang đủ hiệu,
và cứ từng chặp họ lại ngưng uống, nhìn chăm chăm vào một bà
già ngồi ở bàn kế bên. Rồi người ta nghe khi thì người này
hoặc người kia thì thào, “Chưa. Chưa đâu”.
Không dấu được tò mò, một khách bàng quan cuối cùng đã lên
tiếng hỏi họ về thái độ khác thường này. Một người lính trả
lời, “Ngay khi nào mà tụi này thấy cái bà kia trở thành một cô
gái xinh đẹp, tụi này sẽ lại cụng ly tìếp”.
Đúng vậy, khi bạn say quá mức, lúc đó mọi việc sẽ bắt đầu hiện
ra hoàn toàn khác biệt. Một người xấu như ma cũng có thể thấy
là xinh đẹp tuyệt trần, một bà già cũng có thể biến thành một
cô gái trẻ. Lúc đó mọi thứ không còn hiện ra nguyên trạng nữa.
Khi bạn đang say, bạn đang sống trong một thế giới riêng tư
hoàn toàn.
Và một chuyện khác…
Một gả kia về nhà khuya, say sưa, bò lên giường ngủ trong đêm
tối. Tỉnh giấc vào sáng hôm sau, y thấy có đến ba cặp chân thò
ra khỏi tấm chăn đắp trên giuờng -một đôi chân màu đen. Y lay
vợ dậy và bảo, “Này, Mary, coi kìa -tại sao lại có đến ba cặp
chân?!”
Bà vợ la lên, “Đừng có khùng quá vậy. Uống rượu cho lắm vào
rồi say sưa lú lẩn cả người. Tụt xuống giường đi rồi đếm lại
thử coi!”
Anh chồng leo ra khỏi giường, rờ rẩm đếm đi đếm lại mấy cái
chân một cách kỹ lưỡng rồi bảo vợ: “Ừ nhỉ! Bà nói đúng đó -Chỉ
có hai cặp thôi. Mà cặp chân của tôi sao nó đen đúa dơ dáy
quá!”
Tình huống là như thế. Bạn không thể trông thấy những gĩ đang
xảy ra cho bạn. Bạn không thể nhìn thấy được nguyên trạng, bạn
không thể thấy được những gì ngay bây giờ và ở đây. Bởi vì bạn
không có khả năng nhìn thấy. Bạn không thể trông thấy
được gì cả -bạn đã mất thị giác, bạn đã bị đui mù! Dục vọng đã
che lấp đôi mắt bạn, phủ lên cả một tầng lớp bụi mờ.
Đối với nhà Thiền, dục vọng là căn bệnh trầm kha nhất của nhân
loại. Một khi bạn hiểu rõ điều này, cái dục vọng này sẽ biến
mất. Thiền không hề bảo bạn: Hãy chống lại dục vọng. Thiền
cũng không bảo bạn: Hãy chiến đấu với dục vọng -bởi lẽ khi bạn
chiến đấu, bạn sẽ lại tạo ra những dục vọng khác. Đó là phương
thế của dục vọng -tất cả mọi hình thái đấu tranh đều là phương
thế của dục vọng. Nếu bạn muốn chiến đấu với dục vọng, bạn bắt
buộc sẽ phải tạo ra một dục vọng khác. Thế là bạn sẽ thoát ra
khỏi một chiếc bẩy sập để rồi lập tức lại rơi vào một chiếc
bẩy sập khác.
Đó là những gì đang xảy ra với những người được gọi là có tín
ngưỡng. Họ nhàm chán cái thế giới này và bắt đầu khởi lòng
tham cầu Thượng Đế, Niết Bàn -thế là dục vọng lại khởi dậy.
Nên nhớ rằng tham cầu là thế tục. Bạn không thể tham cầu
Thượng Đế; bất cứ bạn tham cầu điều gì đều là chuyện thế gian.
Tham cầu là thế tục. Vô cầu là đi vào dòng thánh. Vô cầu là
niết bàn.
Thế nên vấn đề không phải là tạo ra một tham cầu khác. Đó là
điều đang xảy ra cho hàng triệu người. Một khi mà người ta đã
chán ngấy cái thế gian này -mọi người không sớm thì muộn cũng
sẽ chán ngấy thế gian- người ta bắt đầu tạo ra một tham cầu
mới, rất mực mới mẻ: Làm thế nào để vào nước thiên đường? Làm
thể nào để đến với Thiên Chúa? Làm thế nào để sống trong cõi
cực lạc? Lòng tham cầu tuy chuyển hướng, nhưng không có gì đổi
khác. Bâygiờ thì người ta tham cầu tam ma địa, tất
địa, thần thông, cái này, cái nọ -nhưng dục vọng cứ tiếp
tục mãi. Nội dung, mục đích thay đổi, nhưng tình huống vẫn y
nguyên.
Thiền nói rằng: Hãy cố để hiểu dục vọng. Cố để hiểu cái lòng
tham cầu này –cái cơ chế của nó. Biết được bằng cách nào nó đã
dẫn bạn vào mê lộ. Cái biết này mang lại sự chuyển hoá. Rồi
đến một ngày, khi nhận biết chúng một cách toàn bộ, hoàn toàn,
đến tận cội nguồn, gốc rễ… đó là thực chứng, là hoát nhiên đạt
ngộ. Bạn đã đi trở về lại ngôi nhà xưa, và bạn bỗng bật tiếng
cười.
Đó là lý do tại sao người tăng sinh đã bảo, “Khi tổ sư đạp cho
tôi một đạp, từ đó tôi không thể nào nhịn cười.” Cú đạp đó đó
biến thành hoát nhiên đạt ngộ; cú đạp đó đã mở tung cánh cửa.
Trong cú đạp đó, lòng tham cầu biến mất và người tăng sinh đã
có thể nhìn suốt chính mình, bản lai diện mục.
Thế nên hãy nhớ kỹ điều này. Bằng không, bạn chỉ thay thế vấn
nạn này bằng một vấn nạn khác, và bạn vẫn luôn đắm chìm trong
cùng một khổ nạn. Cái vấn nạn không hề thay đổi.
Ngày xưa có một cô nàng thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp đang đi dạo
ngang qua một cánh rừng. Bỗng nhiên cô ta trông thấy một con
cóc to lớn xù xì ghê tởm đang ngồi trên một khúc cây. Điều
ngạc nhiên hơn nữa là con cóc này biết nói tiếng người.
“Chào cô nương”, con cóc kêu lên oàm ạp, “Cô có thể ban cho
tôi một ân huệ không? Điều này có thể rất là khó tin đối với
cô, nhưng tôi vốn là một hoàng tử rất duyên dáng, đẹp trai,
thế rồi bỗng dưng có một mụ phù thủy xấu xí và hung dữ đã đọc
một lời nguyền độc địa biến tôi thành con cóc xấu xí này.”
“Ôi, thật là đáng thương cho chàng!” Cô thiếu nữ kêu lên. “Tôi
sẽ làm bất cứ điều gì để giúp chàng bẻ gãy lời nguyền này”
“Cũng dễ thôi, cô nương ạ,” con cóc trả lời, “phương cách duy
nhất để lời nguyền này không còn tác dụng và tôi có thể trở
lại thành một hoàng tử đẹp trai như xưa là có một cô gái xinh
đẹp dễ thương nào đó chịu mang tôi về nhà và để tôi ngủ lại
qua đêm dưới chiếc gối của nàng.”
Cô gái liền mang con cóc xấu xí về nhà và ngay đêm đó đặt nó
xuống dưới chiếc gối của mình trên chiếc giường ngủ. Sáng hôm
sau khi thức giấc, quả đúng như điều con cóc nói, bên cạnh
nàng trên chiếc giường là một chàng thanh niên tuấn tú đẹp
trai, cốt cách rõ ràng của một chàng hoàng tử.
Và rồi họ đã sống một cuộc đời hạnh phúc mãi mãi kể từ hôm đó,
chỉ có một điều đáng nói là, mãi cho đến nay, cha mẹ nàng vẫn
không tin ở câu chuyện của con gái mình.
Cũng như vậy, toàn bộ cuộc đời của bạn chẳng là gì cả ngoại
trừ những câu chuyện đại loại như thế, bởi vì tất cả lòng tham
cầu chỉ đẻ ra toàn những chuyện tưởng tượng. Tất cả lòng tham
cầu đều là hoang đường, tất cả lòng tham cầu đều tạo ra những
ảo tượng. Và bạn thì không ngừng thay đổi –thay đổi ảo tượng
này sang ảo tượng khác, chạy từ ảo tượng này đến ảo tượng
khác. Bạn không ngừng thay đổi những ảo tượng, từ cái này đến
cái khác trong suốt cuộc đời bạn.
Một khi bạn hiểu rõ đến tận gốc nguồn cơ cấu của những ảo
tượng như thế, sẽ xảy ra một sự bùng vỡ, một đột phá. Tâm thức
bạn chiếu dọi một ánh bình minh mới. Trong khoảnh khắc đó,
không những thế giới này trở thành vô nghĩa, mà ngay cả toàn
bộ tam thiên đại thiên thế giới cũng trở thành vô nghĩa nốt.
Trong khoảnh khắc đó, sẽ không còn có gì để tham cầu nữa.
Không tham cầu ngay cả chuyện vô cầu, bởi vì không còn có gì
để tham cầu. Bỗng nhiên lòng tham cầu không còn hiện hữu, làn
khói mù đã tan biến đi, và ánh sáng cháy bùng lên rực rỡ.
Hãy nhớ đừng thay đổi những vấn nạn, chạy từ ảo tượng này sang
ảo tượng khác. Nó chẳng hề giúp ích gì cho bạn cả.
Một cô bé bị bài giảng của vị linh mục về sự cách biệt giữa
một con chiên và bầy dê gây ấn tượng mạnh mẽ. Đêm đó khi nghe
cô bé thút thít ở trong phòng ngủ, người mẹ liền vào tìm hiểu
lý do.
“Đó là câu chuyện về đàn dê!” Cuối cùng cô bé Jenny đã thú
nhận như thế. “Con sợ rằng con là một con dê và như thế con sẽ
không bao giờ vào được nước thiên đàng. Chuá ơi, Con sợ rằng
con là một con dê quá chừng.”
“Con à,” người mẹ vỗ về đứa con gái đang khóc, “Con là một con
chiên bé nhỏ đáng yêu. Ngay cả nếu con chết tối nay, con cũng
sẽ vào thẳng nước thiên đường ngay lập tức.” Lời an ủi này đã
có hiệu quả, cô bé nín khóc và đi ngủ trở lại.
Thế nhưng vào đêm sau, cô bé Jenny lại tiếp tục khóc lóc ở
trong phòng, và khi người mẹ bước vào thì Jenny lại càng nức
nở lớn hơn, “Con rất lo sợ về chuyện những con dê.”
“Nhưng Mẹ đã bảo rằng con là một con chiên nhỏ dễ thương,
không có gì để con phải lo lắng về chuyện trở thành một con dê
cả.”
Lần này thì lời an ủi xem chừng không hiệu quả và cô bé vẫn
tiếp tục nức nở.
“Vâng, Mẹ à, con biết như thế nhưng con vẫn lo sợ -rất mực lo
sợ về chuyện mẹ là một con dê.”
Cứ như thế, người ta chạy từ một vấn nạn này sang một vấn nạn
khác … thế nhưng cái vấn nạn căn bản thì vẫn còn y nguyên. Đây
không phải là phương cách để giải quyết vấn nạn -người ta phải
nhìn sâu vào cội rễ để xem từ đâu mà vấn nạn khởi sinh.
Thế nên Thiền gia không gọi giận dữ, không gọi tình dục, không
gọi tham lam, không gọi gây hấn, bạo lực là một vấn nạn. Thiền
cho rằng cội rễ vấn nạn là lòng tham cầu, và tất cả mọi vấn
nạn đều được sinh khởi từ lòng tham cầu. Cắt đứt gốc rễ này,
toàn bộ cái cây cũng biến mất theo.
Tôn giả Bhagwan, sự thực là ngài đang làm gì ở đây?
Bán nước cạnh bờ sông.
Thiền sư Sogaku Harada viên tịch vào năm 91 tuổi. Hôm tang lễ
của ngài, người ta treo lên một bức thư hoạ do chính tay ngài
viết, có nội dung như sau:
Suốt bốn mươi năm qua ta làm người bán nước
Ngay bên cạnh bờ sông.
Hô, hô!
Chỉ làm chuyện bao đồng.
Điều này chỉ được nói ra bởi một vị Thiền sư. Trước tiên ông
ta bảo “Bán nước ngay bên cạnh bờ sông” -tức là làm một chuyện
thực sự không cần thiết gì cả. Dòng sông đang tuôn chảy kia,
bạn chỉ việc nhảy vào và tha hồ uống nước. Thế nhưng con người
thường xuẩn động như thế, người ta vẫn cần đến những người đi
bán nước, cho dù là ở kế cận ngay bờ sông.
Rồi ông ta bảo, “Hô hô! Chỉ làm chuyện bao đồng.” Đây là một
câu nói vô cùng ý nghĩa. Những vị Thiền sư cho rằng ngay cả
bạn làm điều tốt cũng là chuyện vô ích. Bởi vì ngay từ căn bản
mọi chuyện đều tốt –làm thế nào để bạn có thể làm điều tốt
hơn? Nếu bạn làm cho người ta giác ngộ -thì đâu là mục tiêu?
bởi vì họ đã giác ngộ rồi -bạn có làm thêm được điều gì mới mẻ
đâu? “Hô hô! Chỉ làm chuyện bao đồng.”
Trước hết, chúng ta vẫn cứ tiếp tục làm cái chuyện bán nước
bên cạnh bờ sông? Hừm, phải không? Bởi vì chỉ cấn một chút
thông minh là bạn đã có thể nhảy xuống dòng sông để uống nước
rồi. Để rồi cuối cùng chúng ta biết được rằng tất cả mọi nỗ
lực đều vô nghĩa, vô ích. Bởi vì ngay cả nếu bạn được giác
ngộ, bạn cũng chẳng được thêm cái gì cả. Bạn đã luôn luôn giác
ngộ.
Tuy nhiên điều này chỉ có thể được nói ra bởi một vị Thiền sư
–với cái nhìn thấu suốt vào tận cùng sự vật. Cả hai chuyện đều
vô cùng sâu sắc. Không có ai cần phải được giác ngộ, bởi vì
mỗi người đều đã giác ngộ rồi. Thế nên quả là chuyện khôi hài
khi có người lại đi làm công chuyện giác ngộ bạn.
Cũng quả là chuyện khôi hài khi mỗi ngày tôi lại cứ tiếp tục
công việc giác ngộ bạn. Và bạn thì lại rất mực bướng bỉnh… thế
là bạn sẽ không bao giờ trở nên giác ngộ. Và tôi lại cứ tiếp
tục đi làm cái chuyện bán nước cạnh bờ sông… Còn bạn thì cứ
tìếp tục trả tiền nước! Bạn sẽ chẳng bao giờ chịu nhìn
vào cái giòng sông đang tuôn chảy cạnh đó. Nó vẫn luôn có mặt
ở đó mà –ngay cả trước khi cái khát có mặt, dòng sông đã có
mặt ở đó. Sự thỏa mãn đã có trước cả sự tham cầu.
Thế mà bạn hỏi. Tôn giả Bhagwan, sự thực là ngài đang làm
gì ở đây? Thì đang bán nước cạnh bờ sông, Hô, hô!
|