LỜI NGƯỜI
DỊCH
Tâm Hà Lê
Công Đa
Là một Phật tử b́nh thường có thể chúng ta
không cần phải bận tâm đến việc thế giới này là có thực hay hư
vọng, cũng không cần phải biết đến Chân đế hay tục đế, hoặc bản
tánh chân thực của con người và vạn pháp là cái ǵ... Đây là những
vấn đề thuộc về triết học, nghĩa là những vấn đề dễ làm cho ta
nhức đầu, chưa kể một khi đi sâu vào lănh vực này, nhận chân được
tánh Không là thực tướng của muôn vật, người Phật tử sẽ không khỏi
hoang mang tự đặt cho ḿnh một câu hỏi: Nếu con người chỉ là một
giả lập của những sắc uẩn và tưởng uẩn th́ những khổ đau của con
người cũng chỉ là những huyễn giả, tại sao chư Phật và chư Bồ Tát
lại phải thị hiện ra giữa cơi đời này, mà mục đích là để giúp đỡ
cứu độ cho muôn loài chúng sanh -vốn dĩ không có thật?
Nhưng thưa bạn,
Đạo Phật là đạo của GIÁC NGỘ, trừ phi bạn chọn cho ḿnh trở thành
một người Phật tử b́nh thường để có thể dễ dàng quay lưng lại với
những vấn nạn nói trên và an vui -cũng như đau khổ- với những dục
lạc của cơi thế gian này th́ không nói làm ǵ; tuy nhiên nếu như
bạn là một người thiết tha t́m cầu giải thoát và đang là một hành
giả cô đơn, nỗ lực tinh tấn trên hành tŕnh vươn đến giác ngộ,
trong niềm tin tưởng vững chắc rằng ḿnh có khả năng để vươn đến,
th́ bất cứ bạn là ai, nếu muốn chạy thoát ra khỏi cái ṿng luẩn
quẩn của luân hồi sinh tử, cũng đều phải vượt qua cửa ải của thực
chứng tánh Không. Không có một con đường nào khác. Chư Phật, chư
Bồ Tát, chư đại thánh Tăng, tổ sư đều cũng phải đi qua con đường
này. Từ đây, trên vách núi cheo leo của Tánh Không, hành giả tha
hồ nhảy múa mà không c̣n phải sợ hăi phải rơi xuống vực thẳm của
chủ nghĩa hư vô, đoạn kiến. Và cũng từ đây, trên đỉnh núi cao của
tỉnh thức và trí tuệ, không c̣n mây mờ của vô minh che phủ, hành
giả có thể phóng tầm mắt nh́n rơ thực tướng của muôn loài, để sẽ
không c̣n như người mê ngủ hoang mang giưă hai bờ Chân đế và Tục
đế, để rồi suốt đời cứ phải loay hoay bỏ vọng t́m chân, làm nhọc
ḷng đến Tuệ Trung Thượng Sĩ , một thiền gia xuất sắc đời Trần
phải lên tiếng cảnh cáo:
Người đời bỏ vọng
để cầu chân
Chân vọng tâm kia
cũng pháp trần
Hăy vượt cao lên bờ
bến ấy
Tham cùng đồng tử
đối tiền nhân
Nếu Phật đạo có đến
tám vạn bốn ngàn pháp môn th́ con đường đi vào thực chứng tánh
Không cũng có rất nhiều cánh cửa, kể cả cánh cửa trực nghiệm bằng
ư thức loại suy, thiền quán phân tích. Tốt hơn hết là ta nên bắt
đầu bằng Nhị Đế. Khi đối đầu với vấn nạn triết lư sắc tướng và
thực tướng của vạn pháp, tức Nhị Đế, những trường phái triết học
lớn của Phật giáo, được biết đến như Tứ đại thuyết phái: Đại Tỳ Bà
Sa, Kinh Lượng Bộ, Duy Thức, và Trung Quán- đă đưa ra những lư
giải khác nhau. Trong những lư giải này, có những điểm người ta
đă đồng ư với nhau, nhưng cũng có những điểm đă gây nên những
tranh căi kịch liệt. Hoàng Mạo phái của Phật Giáo Tây Tạng, một
môn phái sở trường về thiền quán phân tích do Đại sư Tông Kha Ba
sáng lập mà vị tổ sư thừa kế đương đại là Đức Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ mười bốn, đă duyệt qua tất cả những kiến giải của tất cả những
trường phái này và đưa ra những lư giải, phân tích rất xuất sắc và
có hệ thống. Những kiến giải này đă được Tiến sĩ Guy Newland,
đương kim Khoa trưởng Phân khoa Triết học và Tôn giáo Đại học Công
lập Central Michigan, bang Michigan, tóm tắt lại trong tác phẩm
“SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG,Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái
của Phật Giáo” do nhà xuất bản Snow Lion phát hành gần đây và hiện
được dùng như là một tài liệu giảng dạy và tham khảo chính
trong các Đại học Phật giáo, Trung tâm nghiên cứu Phật giáo Tây
Tạng. Là một nhà sư phạm, GS Newland đă tŕnh bày một cách rơ ràng,
khúc chiết về những vấn đề cốt tuỷ của triết học Phật giáo như Nhị
Đế, Vô Ngă, Tánh Không thông qua quan điểm của bốn trường phái
triết học chính của Phật giáo: Phân Biệt Thuyết (Đại Tỳ Bà Sa),
Kinh Lượng Bộ, Duy Thức và Trung Quán, hy vọng sẽ giúp cho người
đọc lănh hội những vấn đề này không mấy khó khăn.
Nhận thấy trong khu
rừng tài liệu Phật học tiếng Việt, các tài liệu nghiên cứu về lănh
vực triết học Phật giáo c̣n rất hạn chế, người dịch -dù khả năng
c̣n hạn hẹp- cũng đă phát tâm chuyển ngữ tác phẩm này sang tiếng
Việt, hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào kho tài liệu tham khảo cho
những người có nhu cầu nghiên cứu. Tuy rằng qua tác phẩm này, Tứ
đại thuyết phái đă được nh́n dưới lăng kính của Hoàng Mạo phái,
nhưng trừ phi bạn là người có trí tuệ siêu việt, đối với những
Phật tử trung b́nh như chúng ta, cái nh́n của Hoàng Mạo phái có
thể được coi như là một khởi điểm tốt để bắt đầu, bởi v́ như GS.
Newland nhận định: “Cách tiếp cận của Hoàng Mạo phái là cố gắng
tránh bớt đi những mâu thuẫn, mập mờ khó hiểu càng nhiều càng tốt,
cũng như nói về tánh Không bằng một ngôn ngữ thông tục, ngôn ngữ
mà chúng ta trao đổi trong cuộc sống đời thường. Do phẩm tánh hoàn
toàn bất nhị của nó, trực nghiệm về tánh không là một kinh nghiệm
nhận thức khác biệt tận căn bản với tất cả những ǵ mà chúng ta đă
từng biết qua. Tuy nhiên để có thể xây dựng nên một hệ thống
thuyết lư mạch lạc phù hợp với kinh nghiệm đời thường, cũng như
nhằm mục đích nhấn mạnh đến tính khả đắc của thực chứng rốt ráo (ngay
cả bằng ư thức loại suy), những nhà Hoàng Mạo phái đă thuyết giảng
về tánh Không như là cái ǵ khả tri, có thể nhận biết được, một
cái ǵ đó có thể đạt đến và hiểu thấu được.”
Trong khi dịch
thuật tác phẩm này, nếu gặp phải những điểm nào không được rơ ràng
cần làm sáng tỏ, chúng tôi đă được may mắn trực tiếp trao đổi với
GS. Newland, và như vậy hy vọng nội dung bản dịch của tác phẩm này
được truyền đạt một cách trung thực đến độc giả. Chúng tôi v́ thế
nhân đây xin được bày tỏ sự biết ơn của ḿnh đối với sự chấp thuận
và khuyến khích của GS. Newland, cũng là một cao đồ của Đức Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ mười bốn, trong việc h́nh thành bản dịch Việt
ngữ này. Đối với một số thuật ngữ Phật giáo trong tác phẩm này,
chúng tôi vừa sử dụng từ Hán Việt -để qúy vị đă từng quen với
thuật ngữ Phật giáo dễ lănh hội- nhưng đồng thời cũng đă diễn giải
ư niệm này ra một cách dễ hiểu hơn và không quên kèm theo các danh
từ Tạng ngữ, Phạn ngữ và Anh ngữ tương đương để tiện cho việc tra
cứu. Tuy nhiên dù có cố gắng đến mức nào đi nữa, chắc chắn là bản
dịch này cũng sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết, hy vọng được
chư Tôn đức, chư thiện hữu trí thức đóng góp ư kiến để sửa chữa v́
phúc lợi chung.
Một điểm cuối cùng
cũng xin được nêu ra ở đây là, như qúy vị biết, tác phẩm này thuộc
bản quyền của nhà xuất bản Snow Lion, bởi vậy nếu như bản dịch này
được dùng để làm tài liệu giảng dạy, nghiên cứu, hoặc bất cứ vị
Phật tử nào phát tâm muốn ấn tống miễn phí th́ không có vấn đề;
tuy nhiên nếu bất cứ qúy vị hay nhà xuất bản nào có nhă ư muốn
xuất bản bản dịch này đưa vào thị trường sách vở, xin vui ḷng
thương thảo với nhà xuất bản nói trên.
Trân trọng.
Tâm Hà Lê Công Đa.
lecongda@aol.com
BACK
TO TOP
LỜI NÓI
ĐẦU
GS.
Guy Newland, Ph.D.
Nếu
có người t́m đến bạn và ngỏ ư muốn t́m hiểu về Phật Giáo, bạn sẽ
nên bắt đầu như thế nào? Ta nên tŕnh bày tỉ mỉ với họ thế nào là
ư nghĩa của quy y Tam Bảo? Hay là thuyết giảng cho họ nghe về Tứ
Diệu Đế, bài pháp đầu tiên của Đức Bổn Sư?
Joshua
Cutler (Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Giáo Tây Tạng tại
Washington, New Jersey) đă nêu lên câu hỏi này với Đức Đạt Lai Lạt
Ma và được Ngài đề nghị rằng, đối với giới Tây phương trong thời
đại này, tốt hơn là ta nên bắt đầu với vấn đề Nhị Đế: Tục Đế (Sự
thực ước lệ) và Chân Đế (Sự thực rốt ráo). Ngài quan niệm rằng để
dẫn dắt con người đến với Giáo Pháp tốt nhất là nên thông qua luận
lư triết học và phân tích bản chất của thực tại. Trên căn bản của
lời khuyên này, Joshua đă tổ chức một cuộc hội luận, mời gọi những
bậc thức giả Tây Tạng và phương Tây đến tham dự và tŕnh bày những
kiến giải liên quan đến vấn đề Nhị Đế theo truyền thống Phật giáo
mà họ nắm vững nhất. Joshua đă gởi đến tôi những cuốn băng này;
Tôi đă chăm chú lắng nghe và đó là nguồn cảm hứng để tôi viết lên
bản sơ thảo đầu tiên của cuốn sách này dùng tại Trung Tâm. Một số
người nhận thấy giá trị của tập bản thảo và đề nghị tôi nên xuất
bản nó.
THẾ NÀO LÀ THỰC TẠI
?
Khi Đức
Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn c̣n đang ch́m
đắm, Ngài đă nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như
chân tướng của chúng. Thế nhưng, thúc đẩy bởi mối quan tâm đến
phúc lợi của toàn thể chúng sanh, Ngài đă hành hoạt trong khuôn
khổ của thế giới sắc tướng, ước lệ, vận dụng mọi khả năng của ngôn
ngữ ước lệ để dẫn dắt chúng ta đi đúng hướng. Triết lư Phật giáo
có ư hướng làm sáng tỏ nội dung triết học và tri thức của một vấn
đề cốt tủy của Phật giáo, và cũng là vấn đề muôn thuở của nhân
loại: tính hai mặt của thế giới hiện tượng. Trong cái thế giới đa
dạng và phong phú này, ta đang sống với những hóa tướng và ước lệ,
những tập tục và truyền thống; tuy nhiên điều này không có nghĩa
là không có sự thôi thúc ta đi t́m sự bí mật về chân tướng của sự
vật, cái thực tại tuyệt đối. Hẵn nhiên là chúng ta không thể t́m
ra cái thực tại này ở bất cứ nơi nào khác mà phải ngay chính từ
những hóa tướng này. Những triết gia Phật giáo gọi tính hai mặt
này là Nhị Đế: Tục đế và Chân đế. Mỗi trường phái triết học Phật
giáo đều đă cố gắng đưa ra những lư giải một cách chân xác nhất
theo đường hướng của ḿnh về thế nào là Nhị Đế và mối liên hệ giữa
chúng như thế nào. Đi vào việc khám phá những trường phái này,
chúng ta đang ghé mắt nh́n vào công việc của các nhà tư tưởng Phật
giáo đang nắm bắt một vấn đề cơ bản: Thực tại là ǵ?
Dĩ nhiên
đây không phải là một câu hỏi vớ vẩn mang tính trí thức mà là một
vấn đề xuyên suốt tận cùng cốt tuỷ của đời sống tu tập chúng ta.
Nếu một sự phân tích thấu đáo về thực tại đưa đến việc không có sự
hiện hữu của thế giới vật chất, của bản ngă cá nhân, thế th́ chúng
ta là ai đây? Và nếu như sự phân tích thực tại đưa đến việc không
có sự hiện hữu của một thiết định tuyệt đối về tiêu chuẩn đạo lư,
th́ cái ǵ sẽ hướng dẫn ta trong cuộc sống chung với đồng loại?
Trong hành tŕnh tu tập, đi xuyên qua giữa cái mớ ḅng bong rối
rắm này, một cái ǵ đó chợt bùng vỡ, thế là ta được giải thoát và
giác ngộ.
Thực tại
là ǵ? Đó là một câu hỏi đ̣i hỏi những phân tích trí tuệ. Tu tập
chuyển hoá con người một cách toàn diện, kể cả mặt tinh thần. Đối
với một vài tông phái Phật Giáo Tây Tạng, kể cả truyền thống Hoàng
Mạo phái của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tu tập bao gồm cả việc trau dồi
sắc bén trí óc, biến nó thành một lưỡi gươm của trí tuệ viên măn.
Những tín đồ của truyền thống Hoàng Mạo phái khẳng định rằng trí
huệ bát nhă không bao giờ là việc rời bỏ vô minh, mê vọng để rơi
vào một t́nh trạng hư không, vô thức. Nếu giác ngộ được quan niệm
một cách đơn giản như là chấm dứt ḍng suy tưởng nhận thức, th́
một nhát búa đánh vào đầu chắc chắn sẽ tạo ra trí tuệ bát nhă ngay
lập tức! (1)
Thế th́
thay v́ chạy trốn khỏi sự rối rắm của tư tưởng nhị nguyên, chúng
ta phải đối đầu và t́m cách nhận ra sự vật y như là chân tướng của
chúng, vận dụng luận lư để phân tích sự mê chấp của chính ḿnh.
Chỉ khi nào chúng ta hiểu rơ được thật tướng của sự vật chúng ta
mới có thể bắt đầu thanh lọc trí tuệ bát nhă này để tiến đến t́nh
trạng thể nhập trực tiếp vào cảnh giới vô vi của niết bàn. Thế nên,
theo Đức Đạt Lai Lạt Ma và những người thuộc truyền thống Hoàng
Mạo phái, vấn đề nghiên cứu một cách nghiêm túc các trường phái
triết học Phật giáo không phải là chuyện sinh hoạt học thuật phụ
thuộc bên cạnh hành tŕ tu tập mà đó chính là sự tu tập, cơ bản và
sống động nhất. Trong Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Phật dạy:
Giáo
thuyết của ta có hai dạng:
Khuyến tấn và những học thuyết
Đối với kẻ sơ cơ ta cho họ những
lời khuyên
Đối với bậc du già sư, ta cho họ
học thuyết. (2)
NHỮNG THUYẾT PHÁI
Cấu trúc
của tứ đại thuyết phái Phật giáo được tŕnh bày ở đây không đặt cơ
sở trên sự phát triển theo tính niên đại của các học thuyết này
tại Ấn Độ, cũng như nếu ta liên hệ chúng với truyền thống Phật
giáo mang tính niên đại của Tây Tạng hay nh́n theo quan điểm của
ngành niên đại học Tây phương đương đại
(3). Thế
nên khi bạn bắt đầu nghiên cứu triết học Phật giáo một cách có hệ
thống, bắt đầu bằng tứ đại thuyết phái này, bạn không dùng phương
thức tiếp cận của khoa sử học. Bởi lư do này, một số học giả đă
lên tiếng chỉ trích việc sử dụng các học thuyết này như là một
ch́a khóa nhận thức để hiểu biết về triết học Phật giáo. Họ lập
luận rằng việc làm này đă xóa nhoà đi những dị biệt giữa các tổ sư
Ấn Độ có thể đă sống xa cách nhau hàng trăm năm. Họ cũng cho rằng
những “thuyết phái” này đă xuất hiện một cách khúc chiết và mạch
lạc qua sự tưởng tượng phong phú của người Tây Tạng hơn là nội
dung thực sự của chúng được tŕnh bày dưới thời của các vị Tổ Ấn
Độ, nay đă bị họ xếp loại một cách có ư đồ. Họ cũng đặc biệt quan
tâm đến việc tránh đừng để cho việc nghiên cứu các nguồn mạch
chính thống cuả chúng ta liên quan đến những kiến thức về triết
học Phật giáo bị che mờ bởi các thuyết phái đă bị sắp xếp.
Dĩ nhiên
là tôi rất thiện cảm với những phê phán này. Nghiên cứu về các
thuyết phái sẽ không là mục tiêu tối hậu của những khám phá về
triết học; đây cũng không phải là cách thế lựa chọn tốt nhất thay
v́ chúng ta có thể đọc thẳng các tác phẩm của các ngài Long Thọ,
hay Thế Thân chẳng hạn. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng các nhà học giả
Tây phương cũng đă đi hơi quá xa khi phủ nhận các tư liệu của Phật
giáo Tây Tạng tŕnh bày về các thuyết phái. Mặc dù nó không dính
chặt với lịch sử của những tư tưởng này, thế nhưng nó đă tŕnh bày,
cống hiến cho ta một khung sườn để suy nghĩ về triết học Phật giáo.
Đánh giá thấp sự uyên bác của một số người Tây Tạng trong những
phân tích của họ về triết học Phật giáo Ấn Độ, như Jamyang Shayba
chẳng hạn, các nhà học giả đă phải bỏ công ra cả hàng năm trời để
đi đến những kết luận mà lẽ ra họ có thể đạt đến chỉ trong khoảng
vài tuần, vài ngày, thậm chí là vài tiếng đồng hồ.
Như vậy,
trừ phi mối quan tâm của chúng ta nghiêng về mặt học thuật, ta
không thể nào đặt nặng đến khía cạnh lịch sử của những tư tưởng
cho đến khi nào ta có thể hiểu được những tư tưởng này là ǵ. Thế
nên tư liệu về các thuyết phái là nơi tốt nhất trang bị cho ta
hiểu biết, nhận thức. Và nếu chúng ta lưu ư rằng sự sắp xếp đặc
biệt này được h́nh thành tại Tây Tạng như là một cách thế để cấu
trúc một cái nh́n toàn diện mạch lạc, có thể dung hợp được tính
cách đa dạng của triết học Phật giáo Ấn Độ, chúng ta sẽ sử dụng nó
một cách đúng đắn đầy lợi ích. Tôi muốn bày tỏ ḷng biết ơn của
ḿnh đối với các nhà học giả Tây Tạng, những người đă làm công
việc này, từ vị trí cái nh́n của họ, không phải là không cống hiến
cho chúng ta nhiều phúc lợi.
Thế cho
nên, một điều cũng rất rơ ràng rằng, cuốn sách này không có mục
đích tŕnh bày một cái nh́n tổng quát về triết học Phật giáo, càng
không phải là một tổng quan về triết học Phật giáo Tây Tạng. Cuốn
sách này được viết cho những độc giả đă có một số hiểu biết về
Phật giáo và đặc biệt là đối với những ai đang thật t́nh quan tâm
đến việc t́m hiểu những khía cạnh triết học của Phật giáo Ấn Độ
hay Tây Tạng nhưng có thể đă bị bối rối trước những dịch phẩm của
những tư liệu mang nặng tính học thuật. Những điều mà tôi muốn
tŕnh bày trong tập sách nhỏ này -những tư tưởng cốt tủy của tứ
đại thuyết phái được lư giải dưới cái nh́n của Hoàng Mạo phái- hy
vọng có thể là một chiếc cầu hay ít ra là một viên gạch lót đường
để đưa đến một nhận thức rộng mở và một nghiên cứu sâu sắc hơn.
ĐÔI HÀNG CẢM TẠ
Trong
tập sách này, xin được chia xẻ những điều mà tôi đă được học từ
những vị tôn sư của Phật giáo Tây Tạng c̣n sống hay đă qua đời,
cũng như từ các đồng nghiệp và các bậc thầy của tôi. Một số vị mà
tôi nghĩ là có những đóng góp rất quan trọng cụ thể như Harvey
Aronson, Anne Klein, Elizabeth Napper, Joe Wilson, Don Lopez, Dan
Cozort, John Buescher, Kensur Yesche Tupden, và Geshe Palden
Dragpa. Đồng thời cũng xin được gởi lời cảm tạ đến Susan Kyser (của
Snow Lion) và Nathan Lamphier về những góp ư đối với bản thảo.
Cuốn sách này sẽ không được h́nh thành nếu không có những nỗ lực
của Jeffrey Hopkins, Joshua Cutler (người thực hiện dự án),
Sidney Piburn (người thúc đẩy tôi hoàn thành và xuất bản tác phẩm
này), cũng như của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
GHI CHÚ
Trong
tập sách này, một số thuật ngữ Tây Tạng và Sanskrit được chuyển
qua dạng Anh ngữ được tŕnh bày trong dấu ngoặc đơn. Những chuyển
ngữ này đặt căn bản trên hệ thống đă được Turrel Wylie giới thiệu
trong bài viết , “A standard System of Tibetan Transcription” (Havard
Journal of Asiatic Studies, 22, 1959, 261-276). Ngoài ra, những
danh từ riêng Tây Tạng đượcviết dưới dạng ngữ âm học nguyên thuỷ,
dĩ nhiên không hẵn là giúp người đọc phát âm một cách đúng đắn mà
chỉ có mục đích duy nhất là tạo một âm hưởng tương đối gần đúng
với tên gọi của Tây Tạng.
GUY
NEWLAND
CHÚ THÍCH:
(1) Thí
dụ này được gợi ư từ lời chú giải của một vị Thiền sư đương đại,
Shengyen: “Không phải khi một người không c̣n những ư nghĩ phân
tán tức là vấn nạn của đương sự đă được giải quyết. Nếu bạn căm
thấy thích thú được ở trong t́nh trạng như thế, th́ cứ việc nhờ ai
đó đánh mạnh vào đầu. Có rất nhiều người không phân biệt được giữa
trí tuệ chân thực và trạng thái tịch tĩnh. Nếu bạn không hiểu được
sự khác biệt này, cho dù là bạn dày công tu tập, cũng chỉ uổng phí
thôi.” -Trích từ Faith in Mind in Deborah Sommer’s Chinese
Religion. New York: Oxford, 1995. 337.
(2) Lankavatarasutra (Descent into
Lanka Sutra) trích dẫn trong Practice and Theory of Tibetan
Buddhism, bản dịch của Sopa & Hopkins. New York: Grove Press,
1976. 53.
(3) Muốn có một thí dụ về những
kiến giải theo truyền thống Tây Tạng, có thể đọc thêm: Meditation
on Emptiness. Jeffrey Hopkins. London: Wisdom, 1983. 353-364. Muốn
có một thí dụ về những kiến giải theo truyền thống kinh viện Tây
phương, có thể đọc thêm: Mahayana Buddhism. Paul Williams. New
York: Routledge, 1989.
|