Tác phẩm: TÁNH VÀ TƯỚNG,

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
 

APPEARANCE & REALITY,

The Two Truths in the Four Buddhist Tenet Systems

 

Tác giả: Prof. Guy Newland, Ph.D., 2000

Khoa Trưởng Phân Khoa Triết Học và Tôn Giáo, Đại Học Michigan/USA
Dịch giả: Tâm Hà Lê Công Đa, 2002.

 

 

 

CHƯƠNG 9

NHỊ ĐẾ VÀ BỒ TÁT ĐẠO

 

Thấu hiểu một thuyết phái Phật giáo có nghĩa là phải thấu hiểu những điểm cơ bản, đạo lộ, và đạo quả tu chứng của thuyết phái đó.  Trong những lư giải của Trung Quán Tông về Bồ tát đạo, điều này có nghĩa là ta cần phải thấu hiểu :

(1)  Phúc đế và Chân đế;
(2)  Thực hành phương tiện thiện xảo và trí tuệ ; và
(3)  Sắc thân và chân thân của một vị Phật.

Mặc dù trọng tâm nghiên cứu của cuốn sách này là những xác định chung quanh Nhị Đế, chúng ta cũng đă cố gắng ghi nhận những khẳng định của tứ đại thuyết phái Phật giáo về Nhị Đế trên cơ sở của đạo lộ và đạo quả của từng trường phái một.

Nhận thức rơ những phúc đế được thiết định như thế nào -ví dụ như con người hiện hữu một cách công ước, những nghiệp hành, nghiệp quả, v.v...- có thể làm phát khởi ḷng từ bi và tích lũy công đức qua việc thực hành lục độ ba la mật như bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, v.v... mà tất cả đều được thúc đẩy bởi động cơ chính là ḷng từ vô hạn. Nếu một người mất khả năng thiết định phúc đế, rơi vào chủ nghĩa hư vô, đoạn kiến, họ rất dễ dàng bị cuốn hút vào những hành động vô luân mà hậu quả là dẫn đến những tái sanh vào các cảnh giới xấu ác. Mặc dù ta không hoàn toàn hiểu thấu được cái ư nghĩa cho rằng nghiệp hành và nghiệp quả đều là những phúc đế, tức là “những chân lư nhận biết bởi vô minh”, phải đợi đến sau khi ta thực chứng được tánh Không của những hiện hữu tự thân để biết được chúng xuất hiện một cách giả dối, niềm tin vào các hiện tượng giới công ước hiện hữu và hành hoạt các chức năng của chúng là một điều cần thiết ngay từ khởi điểm.

Trong khi một khả năng thiết định phúc đế như con người, nghiệp hành và nghiệp quả, v.v... là điều cần thiết để tích lũy công đức hầu tái sanh vào những cảnh giới tốt đẹp hơn, sự giải phóng con người ra khỏi ṿng luân hồi sinh tử là bất khả thi nếu không có tuệ giác thực chứng được Chân đế, tức là tánh Không, cái bản thể rốt ráo sau cùng của mọi hiện tượng giới. Như vậy sự nhận thức vô phân biệt về Nhị Đế cho phép vị Bồ Tát gieo trồng công đức lẫn hạt giống trí tuệ. Hai tập hợp của công đức và trí tuệ mang đến đạo quả thể hiện qua “sắc thân” (sắc tướng xuất hiện trong thế giới này và những thế giới khác để giáo hóa chúng sanh) và “chân thân” (tuệ giác của một vị Phật và tánh Không của tuệ giác đó) của một vị Phật.

Có người có thể cho rằng quả là điều nghịch lư nếu không nói là phi lư khi một vị Bồ tát triển khai ḷng đại từ bi đối với những chúng sanh đă không hề tự khẳng định sự hiện hữu, những chúng sanh chỉ thuần là những ư niệm giả lập;  tuy nhiên trong thực tế tu tập, từ bi và trí tuệ đă phát huy tác dụng khi được kết hợp một cách viên dung. Thực chứng tánh Không hổ trợ, củng cố, và hoạt động song hành cùng với từ bi và vị tha trong nhiều cách thế khác nhau:

(1)  Khi nhận thấy rằng không có một cái hiện hữu tự thân khác nhau giữa một cái ta và kẻ khác, nhà hành giả Du già xoá nḥa dần ḷng thương yêu vị kỷ “chỉ biết t́m kiếm cái số một”, tức là cho rằng có một cái ngă thực sự hiện hữu “ở đây” cần phải được bảo vệ và nuông ch́u không cần đếm xỉa đến kẻ khác hoặc ngay cả dưới cái giá phải trả của kẻ khác.

(2)  Khi nhận thấy rằng ḿnh chia xẻ cùng tất cả mọi loại chúng sanh một bản thể cơ bản về tánh Không, nhà hành giả Du già củng cố cảm giác sâu xa về mối thân cận và liên hệ với tha nhân, tức là yếu tố chính của ḷng thương yêu và từ bi.

(3)  Trong mối khát khao vươn đến Phật quả v́ hạnh phúc của muôn loài, nhận chân được rằng điều này đ̣i hỏi một nỗ lực cố gắng và hy sinh vô cùng lớn lao, nhà hành giả Du già cần được vơ trang bằng một niềm tin vững chắc rằng họ có thể trở thành một vị Phật. Niềm tin này lớn mạnh qua sự nhận thức rằng những khả năng hữu hạn của ta để giúp đỡ tha nhân trong hiện tại không phải là bản tánh tự thân -bản tánh đó là tánh Không tinh khiết, vốn có khả năng rộng mở không bờ bến về sự tự chuyển hóa.

(4)  Cuối cùng, khi một vị Bồ tát thực hành những hạnh nguyện do ḷng từ bi thúc đẩy, cụ thể như bố thí ba la mật, tất cả những hành động này đều được tịnh hoá để trở thành “viên măn” thông qua tri kiến của vị bồ tát rằng người bố thí, vật bố thí và hành động bố thí tất cả đều trống rỗng hiện hữu tự thân.

Trái lại, tinh thần vị tha nâng cao khả năng phát triển trí tuệ bằng cách hổ trợ một động cơ thúc đẩy rất tinh khiết và mạnh mẽ cho việc thiền quán tánh Không. Theo trường phái Quy Mậu Biện Chứng, những hành giả của Tiểu thừa cũng thực chứng một tánh Không sâu sắc như một bậc Bồ tát thực chứng, đó là tánh Không của hiện hữu tự thân. Tuy nhiên, những hành giả Tiểu thừa, do được thúc đẩy bởi ư nguyện chính là đạt đến sự giải thoát cho riêng cá nhân ḿnh, đă chỉ tiếp cận tánh Không thông qua một vài lư do hạn định, nhằm vươn đến sự giải phóng an b́nh một cách cá nhân như là những A la hán. Bậc Bồ Tát, trái lại trong khi t́m kiếm mọi cách để gia tăng tối đa khả năng  cứu độ chúng sinh, đăphong phú hoá kinh nghiệm của ḿnh trong trăm ngh́n cách tiếp cận việc thực chứng tánh Không. Thúc đẩy bởi ḷng vị tha không bờ bến, họ tự trui rèn ḿnh trong việc vun trồng công đức và trau dồi trí tuệ qua không biết bao nhiêu a tăng tỳ kiếp. Với vô lượng công đức được tích luỹ này, không những cho phép bậc Bồ Tát vượt qua những trở ngại trên hành tŕnh giải thoát, mà c̣n cả những trở ngại nhằm vươn đến t́nh trạng nhất thiết trí, toàn tri toàn giác.

11.14.02

BACK (MUCLUC) 

[HOME]