Ngài A Đề Sa trong một tác phẩm quan trọng,
“Bồ Đề Đạo Đăng”, đă phân loại người đời ra ba hạng có căn cơ
khác nhau. Hạng hạ sĩ chỉ biết suy nghĩ đến những phúc lợi
tạm thời, những an vui, dục lạc trong cuộc sống luân hồi sinh
tử. Họ bám chặt với đời sống thế gian và không muốn từ bỏ nó.
Đối với hạng người này,ï phần đông chỉ biết đi t́m kiếm những
dục lạc trong cuộc sống thế tục hoặc nếu có theo tôn giáo th́
cũng chỉ hời hợt bên ngoài; thản hoặc có một số khác gồm những
người biết quan tâm đến chuyện tu hành th́ cũng chỉ ở mức độ
thấp nhất tức là chỉ tu phước, tu chỉ để mong cầu được tái
sanh vào một kiếp sống tốt đẹp hơn trong tương lai. Hạng hạ sĩ
v́ thế chưa có khả năng bước chân vào lộ tŕnh giải thoát.
Ngược lại, hạng trung sĩ chỉ t́m kiếm giải thoát cho riêng cá
nhân ḿnh ra khỏi ṿng luân hồi sinh tử, ḷng chăm chăm hướng
đến niết bàn. Tuy nhiên họ đang đi trên con đường Tiểu thừa
bởi v́ chỉ quan tâm đến phúc lợi của riêng ḿnh mà không chia
sẻ gánh nặng cứu vớt chúng sanh. Trong khi đó hạng thượng sĩ
với tâm nguyện vị tha rộng lớn, họ chỉ luôn nghĩ đến việc mang
lại hạnh phúc cho muôn loài. Khi họ nhận ra khả năng có thể
đạt đến giác ngộ, và biết được rằng những năng lực của một vị
Phật có thể giúp đỡ tha nhân một cách hữu hiệu hơn, trong ư
nguyện độ sanh cao cả, họ quyết định lựa chọn con đường tinh
tấn tu tập cho đến bao giờ có thể đạt thành Phật quả. Ḷng
quyết tâm này là một hạnh nguyện Bồ tát và những ai mang những
hạnh nguyện này vào đời, đang bước đi trên con đường của Đại
thừa.
Như vậy sự khác nhau giữa Tiểu thừa / Đại
thừa là sự khác nhau giữa hai lộ tŕnh tu chứng. Đường tu của
Tiểu thừa được thúc đẩy bởi ư nguyện vượt thoát ṿng luân hồi
sinh tử và đạt đến đạo quả an tịnh giải thoát. Con đường của
Đại thừa được thúc đẩy bởi tâm từ bi rộng lớn thương xót toàn
thể chúng sanh nhằm đạt đến quả vị viên măn, cực lạc, nhất
thiết trí của một vị Phật. Tuy nhiên một điểm khác cũng cần
được lưu ư là ngay từ phần đầu của cuốn sách này ta cũng đă
từng đề cập đến sự khác nhau giữa hai thuyết phái Tiểu thừa và
Đại thừa. Thế nên chúng ta không nên lẫn lộn giữa hai sự khác
biệt này. Một cách ngắn gọn, lộ tŕnh tu chứng của Tiểu thừa
và Đại thừa được phân biệt trên căn bản động cơ và ư nguyện tu
tập; trong khi đó hai thuyết phái Tiểu thừa và Đại thừa không
phải khác nhau do động cơ thúc đẩy mà là trên quan điểm về vô
ngă, hay không tánh.
Không giống như những thuyết phái Tiểu thừa
chỉ giảng dạy về vô ngă của con người, thuyết phái Đại thừa
giảng dạy rằng bản tánh rốt ráo của thực tại, thể vi tế và
quan trọng nhất của vô ngă là vô ngă, hay tánh Không, và đó là
bản tánh rốt ráo của mọi hiện tượng giới. Họ khẳng định rằng
Bồ tát do hạnh nguyện vị tha cao cả thúc đẩy, đă thiền quán
sâu xa trên tánh Không của toàn thể pháp giới, và như thế đă
chuẩn bị để bước vào t́nh trạng nhất thiết trí của Phật quả.
Một vài thuyết phái Đại thừa cho rằng những hành giả của phái
Tiểu thừa đă không hề nhận chân được tánh Không của pháp giới
và do đó không thể nào vượt qua khỏi những chướng ngại nhằm
đạt đến nhất thiết trí. Tuy nhiên, thuyết phái cao nhất, Quy
Mậu Biện Chứng phái của Trung Quán Tông, nh́n nhận rằng các
hành giả của Tiểu thừa thực chứng được tánh Không, tuy nhiên
lộ tŕnh tu chứng này không thể đưa họ đến t́nh trạng nhất
thiết trí bởi v́ trí tuệ của họ không được trang bị bởi tấm
ḷng vị tha cao cả cũng như đă không được thúc đẩy bởi những
hạnh nguyện ba la mật như bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, v.v...
NHỊ ĐẾ NHƯ LÀ MỘT NHẤT THỂ
Những thuyết phái Đại thừa đưa ra kết luận
rằng cái tánh Không vi tế và sâu sắc thực chứng được trên con
đường Bồ tát đạo là một Chân đế. Chân đế này là một hiện tượng
giới khiển trừ, và hoàn toàn vô ngă (tức là không xuất hiện
như một loại hữu thể nào đó). Tuy nhiên những trường phái Đại
thừa đă bất đồng quan điểm về loại hữu thể mà tánh Không phủ
định. Cụ thể như trường phái Duy Thức cho rằng tánh Không là
không có sự khác nhau giữa đối thể và chủ thể nhận thức (tâm)
đang nắm bắt nó, của một thực thể; trong khi đó Quy Mậu Biện
Chứng phái của Trung Quán Tông quan niệm rằng tánh Không là
không có hiện hữu tự thân. Tuy nhiên cho dù định nghĩa tánh
Không như thế nào đi nữa, các thuyết phái Đại thừa đều đồng ư
rằng cái tánh Không rất vi tế này trước tiên là một Chân đế,
và là một phẩm tánh hiện hữu trong toàn thể mọi pháp giới.
Điều này có nghĩa là, bất cứ cái ǵ hiện hữu -kể cả tánh
Không- đều trống rỗng về bất cứ loại hữu thể nào mà tánh Không
phủ định.
Những tục đế bao gồm mọi pháp giới ngoại trừ tánh Không, như
cái bàn, cái ghế, v.v... Tất cả những hiện tượng giới này đều
rỗng không. Chúng tự nó không phải là những tánh Không, tuy
nhiên chúng rỗng không bởi v́ chúng thiếu một cách thế hiện
hữu nào đó. Khi Tục đế mang phẩm tính rỗng không
cũng như khi tánh Không là một Chân đế, ta đi đến một kết luận
rằng Chân đế và Tục đế là những hiện tượng giới khác nhau,
nhưng hổ tương khiển trừ, và bao dung lẫn nhau như là một thực
thể đơn thuần bất khả phân. Kinh Giải Thâm Mật (Unravelling
the Thought) đă so sánh mối liên hệ giữa Nhị đế với mối liên
hệ giữa vỏ ṣ trắng và tánh trắng của nó, tiêu và tánh cay của
nó, bông g̣n và tánh xốp của nó và những cặp tương tự. Trong
mối liên hệ giữa vỏ ṣ trắng và tánh trắng của nó, tánh trắng
không phải là vỏ ṣ, cũng như vỏ ṣ không phải là tánh trắng;
thế nhưng cái vỏ ṣ trắng là luôn luôn trắng (1). Tương tự như
thế, Hoàng Mạo phái biện giải rằng không hề có chuyện nghịch
lư khi Nhị Đế có thể hổ tương giao tiếp toàn diện ở trong cùng
một cá thể đơn thuần. Cũng giống như tánh trắng và cái vỏ ṣ
trắng, chúng là đặc tánh và đặc tánh sở đắc. Tánh Không là
phẩm tánh cao nhất, là bản tánh rốt ráo của toàn thể pháp giới.
CHÚ THÍCH
(1) Kinh Giải Thâm Mật - Sutra Unravelling
the Thought (Samdhinirmocana-sutra). P774. Vol. 29. Bản dịch
của John Powers (Wisdom of Buddha). Dharma Publishing, 1995.