Thánh giả Long Thọ, người tiên phong của trường phái Trung
Quán, trong “Nhập Trung Quán Luận” và những công tŕnh luận
giải khác đă biện giải rằng ư nghĩa đích thực những lời dạy
của Đức Bổn sư về tánh Không, Chân đế là khi ta phân tích tra
vấn đến tận cùng mọi vật có vẽ như có thật, ta không hề t́m
thấy chúng. Thế nên, không có ǵ được gọi là hiện hữu một cách
chân thật hay tuyệt đối. Jamyang đă đưa ra một định nghĩa tổng
quát về trường phái Trung Quán như sau :
Một người theo Trung Quán là người hoàn toàn
phủ nhận biên kiến chấp thường, tức là chấp mọi hiện tượng
giới hiện hữu một cách rốt ráo, cũng như hoàn toàn phủ nhận
biên kiến chấp đoạn, tức là chấp rằng mọi hiện tượng giới đă
không hiện hữu một các công ước. (1)
Biên kiến chấp thường là thái độ cụ thể hoá
hiện tượng giới, gán cho chúng một cách thế hiện hữu mà chúng
không hề có. Biên kiến chấp đoạn là thái độ phản bác hiện
tượng giới bằng cách phủ nhận một h́nh thái hiện hữu đă có
mặt.
Trong thực tế, mọi thuyết phái Phật giáo đều
tuyên bố là ḿnh đi theo con đường trung đạo, ở giữa hai biên
kiến chấp thường và chấp đoạn, và mỗi trường phái đều xem các
trường phái khác hoặc ngoại đạo là rơi vào biên kiến. Tuy
nhiên nh́n một cách bao quát, nếu như ta bước dần lên những
bậc thang thuyết phái theo quan điểm của Hoàng Mạo phái, chúng
ta sẽ nhận thấy rằng tất cả những ǵ mà các thuyết phái phủ
nhận -chống lại biên kiến chấp thường- ngày càng một nhiều
hơn, trong khi đó tất cả những ǵ mà các thuyết phái khẳng
định -chống lại biên kiến chấp đoạn- ngày càng ít hơn.
Phân Biệt Thuyết đă bác bỏ biên kiến chấp
thường bằng cách khẳng định rằng tất cả các pháp hữu vi đều
tan ră hoại diệt trong từng sát na, đồng thời bác bỏ biên kiến
chấp đoạn bằng cách khẳng định rằng mọi sựï vật là những hiện
thể (substantial established, rdzas grub, dravya-siddha). Phân
Biệt Thuyết là trường phái duy nhất phân biệt giữa hiện thể và
sự hữu (substantial existence, rdzas yod, dravya-sat). Chỉ có
những Chân đế (ví dụ như các hạt bất khả phân hoặc các sát na
bất khả phân của ư thức) mới được coi như là những sự hữu, c̣n
tất cả hiện tượng giới đều là những hiện thể, có nghĩa rằng
chúng sở hữu những thực chất của riêng chúng. Phân Biệt Thuyết
mạnh mẽ khẳng định rằng tất cả mọi vật phải sở hữu “thực chất”
riêng để có thể hiện hữu như là nó được hiện bày.
Phái Luận Lư của Kinh Lượng Bộ đă đi một bước
tách rời khỏi khái niệm về thực tính này (biên kiến chấp
thường) bằng cách cho rằng một vài hữu thể (cụ thể như hiện
tượng giới thường hằng, con người) đều chỉ là những hiện hữu
giả lập (btags yod, prajnapti-sat). Điều này có nghĩa là những
sự vật có thể hiện hữu mà không cần phải có thực chất riêng,
không cần phải là những tự thể hoàn toàn độc lập. Con người
chẳng hạn, chỉ là những gán đặt do những ư niệm nắm bắt các
sắc uẩn về tâm-vật lư. Đồng thời, Kinh Lượng Bộ cũng bác bỏ
quan điểm biên kiến chấp đoạn bằng cách khẳng định rằng mọi
hiện tượng giới được thiết định bởi những phẩm tánh riêng của
chúng như là những giả danh, ngôn thuyết và thuần tuư khái
niệm.
Những người theo Duy Thức bác bỏ biên kiến
chấp thường bằng cách phủ nhận một phần nội dung mà Kinh Lượng
Bộ xác quyết -sự hiện hữu của hiện tượng giới bởi những phẩm
tánh của chúng như là những giảdanh và thuần tuư khái niệm. Họ
cũng bác bỏ biên kiến chấp đoạn vốn cho rằng mọi Chân đế đều
được thiết định một cách rốt ráo, và hiện hữu do tự tánh của
chúng, trong khi đó những Tục đế được gọi là thường hằng cũng
chỉ là “thực hữu” ở một mức độ nào đó bởi v́ chúng thực ra là
sản phẩm cấu thành bởi nhân duyên.
Và cuối cùng, trường phái Trung Quán Tông vốn
xem các thuyết phái thấp hơn là rơi vào con đường biên kiến
chấp thường, đă bác bỏ thái độ biên kiến này bằng cách khẳng
định rằng chẳng có ǵ được gọi là hiện hữu một cách chân thực
hay rốt ráo. Trung Quán Tông cũng bác bỏ biên kiến chấp đoạn
bằng cách khẳng định mọi hiện tượng giới chỉ hiện hữu một cách
công ước. Một khi mà tất cả mọi sự vật hiện hữu chỉ hiện hữu
một cách công ước, không có cái ǵ hiện hữu một cách rốt ráo,
th́ vấn đề quan trọng đặt ra là, (i) ta không nên mơ hồ giữa
hiện hữu rốt ráo và Chân đế, và (ii) ta cũng không nên mơ hồ
giữa hiện hữu thông tục và Tục đế hay phúc đế. Nên nhớ rằng
tất cả tứ đại thuyết phái đều coi Nhị Đế là những đối thể của
tri lượng, nghĩa là chúng hiện hữu. Chỉ khác một điều là đối
với Trung Quán Tông, Nhị Đế chỉ hiện hữu một cách thông tục,
không phải hiện hữu một cách rốt ráo.
Một điểm nữa, bởi v́ tánh Không (Chân đế) là
phẩm tánh vốn không có sự hiện hữu rốt ráo, thế nên một nhận
thức đúng đắn về Chân đế sẽ đưa ta đến nhận thức làm thế nào
để phủ nhận loại hiện hữu được cường điệu (hiện hữu rốt ráo)
mà do vô minh chúng ta đă nh́n thế giới này như thế. Cũng
tương tự như vậy, hiểu biết về phúc đế cũng có nghĩa sẽ đưa
ta đến sự hiểu biết bằng cách nào mà con người, những hành
động và hậu quả của chúng, cũng như các sắc thái muôn màu của
hiện tượng giới thông tục đă hiện hữu một cách công ước như
thế. Thế cho nên, Nhị Đế được vận dụng như là một khung sườn
để qua đó có thể lư giải được cách thế mà sự vật đă hiện hữu
một cách không chân thực và rốt ráo.
CHÚ THÍCH
(1) Great Exposition of Tenets, trích dẫn và
dịch bởi Hopkins trong “Meditation on Emptiness”. London:
Widom, 1983. 451.