Lời
Nói Ðầu của Dịch Giả
Gieo Duyên Lành Cùng Bồ Tát Quán Thế Âm
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ là một nhân vật huyền thoại tôn giáo hay
là vị Bồ Tát với lòng từ vô hạn luôn có mặt trong thế giới khổ
đau này, sẵn sàng cứu vớt con người qua cơn khổ nạn theo niềm
tin tưởng chung của quần chúng Phật tử Á Ðông? Ðối với một số
người mang tinh thần duy lý, cho rằng Ðạo Phật không hề đặt cơ
sở trên những niềm tin mù quáng và do đó, tin vào sự cứu độ của
một tha lực bên ngoài –ví dụ như Quán Thế Âm Bồ Tát- là một hình
thức dị đoan mê tín, khó chấp nhận. Ðứng về mặt lý thuyết mà nói,
quan điểm này không có gì sai lầm, tuy nhiên nếu là Phật tử, khi
đặt vấn đề này họ đã quên mất một điều rằng, những năng lực phi
thường của chư Phật và Bồ Tát có thể thực hiện những chuyện rất
khó tin mà người đời quen gọi là « phép lạ », đã được đề cập đến
rất nhiều trong các kinh sách Phật giáo thuộc cả hai truyền
thống Nam Tông lẫn Bắc Tông. Những « phép lạ » này thực ra cũng
chỉ là một trong muôn ngàn phương tiện thiện xão mà chư Phật và
Bồ Tát đã
ban phát cho những kẻ hữu duyên để làm tăng trưởng thêm niềm tin
ở nơi họ. Ngay cả Ðức Phật Thích Ca, tuy không khuyến khích việc
sử dụng thần thông, nhưng chính bản thân Ngài trong một vài dịp
cũng đã phải thi triển thần thông để nhiếp phục người. Chuyện kể
rằng, trong chuyến về thăm hoàng thành Ca Tỳ La Vệ lần đầu tiên
sau khi thành đạo, vua cha Tịnh Phạn và các bậc trưởng lão trong
hoàng tộc, vẫn mang cái ấn tượng vai vế trong gia tộc, coi Ngài
là người trẻ tuổi thuộc vào hàng con cháu nên đã không bày tỏ
sự tôn trọng đúng mức đối với một vị Phật. Ðể cảnh tỉnh họ, Phật
đã dùng thần thông làm hiện ra một cây cầu pha lê ở trên không
nối dài từ Ðông sang Tây thành Ca Tỳ La Vệ. Ngài bay lên đứng ở
trên đó, chung quanh vây bọc bởi hằng hà sa số những vị Phật của
thời quá khứ, và từ trên tòa giảng này Phật đã đưa cánh tay vươn
dài ra chạm vào mặt trời, mặt trăng rồi nói với họ: « Ðây là nơi
không nhiễm một hạt bụi trần ».
Chứng kiến phép lạ này cùng với những thần thông khác của Phật,
Ðức vua Tịnh Phạn quá đổi hân hoan và kính phục, bèn chắp tay
lên trán cung kính: « Hỡi vị Phật nhân từ và cao cả, xin vui
lòng tha lỗi cho người cha già này và tất cả những người dân
thành Ca Tỳ La Vệ tụ họp nơi đây ! Tôi xin quy y cùng Ngài là vị
Phật, cùng Pháp và Tăng !». Tất cả hoàng tộc của giòng họ Thích
Ca đã cúi đầu đãnh lễ Phật sau lời xưng tán của Ðức vua Tịnh
Phạn. (1)
Phật giáo không phải chỉ cung cấp cho con người một mớ giáo điều
hay lý thuyết suông nhưng đồng thời cũng chỉ rõ ra những con
đường tu tập để hướng đến giác ngộ, giải thoát. Thông qua tu tập,
tức là trải qua một hành trình thể nghiệm tâm linh, hành giả
đồng thời cũng khám phá ra, hiểu và cảm nghiệm được những năng
lực vô bờ bến của chư Phật, Bồ Tát và từ đó trưởng dưỡng lòng
tin. Thế nên đôi khi chỉ với một câu chú, một câu niệm Phật mà
người ta cho là rất đơn giản nhưng trong đó lại ẩn chứa những
năng lực mầu nhiệm, phi thường chỉ có người trong cuộc có tu
chứng mới thấy, mới biết được sự cảm ứng, linh nghiệm.
Nhớ lại thuở còn bé, là một đoàn sinh oanh vũ của Gia Ðình Phật
Tử, vào những ngày rằm, mồng một phải tham dự khoá lễ tối và
sinh hoạt tại chùa làng, đi xuyên qua một cánh rừng thưa dài hơn
hai cây số, tôi không khỏi cảm thấy lo sợ. Sợ ma! Chuyện dĩ
nhiên thôi. Một cậu bé 7, 8 tuổi, một thân một mình trong đêm
vắng, nhất là vào những đêm trăng, nội chỉ nhìn thấy những bóng
cây lung linh nhảy múa trên con đường mòn cát trắng là cũng đủ
chết khiếp rồi, huống gì con đường này nổi tiếng là lắm ma. Tôi
đã nghe người trong làng đồn đãi rằng trên con đường này -nhất
là đoạn băng ngang qua một ngôi mộ cổ gọi là “Lăng Mụ Hạp”, ma
đã hiện ra cả giữa ban ngày, rượt đuổi những người đàn bà đi chợ
trưa về. Cũng chính trên con đường này, một câu chuyện “ma dấu”
nổi tiếng mà tất cả những người trong làng không ai là không
biết. Nạn nhân của vụ “ma dấu” này là anh ruột của một người bạn
cùng học lớp thời Tiểu học với tôi. Anh này rất giỏi võ vì đã là
võ sư chưởng môn nhân của môn phái Thiếu Lâm ở trong vùng trước
khi bị động viên phục vụ tại Sư Ðoàn I BB với cấp bậc Thượng sĩ.
Anh cũng là người đã từng đoạt giải nhất toàn Quân Khu về môn đi
bộ băng rừng. Gan góc và võ nghệ đầy mình như thế mà anh lại bị
“ma dấu!”
Số là một hôm được nghỉ phép về thăm gia đình, anh lội bộ về
làng, khi đi ngang quảng đường này thì trời cũng đã chạng vạng
tối. Ðang hối hả bước nhanh anh suýt đâm sầm vào một người đang
đi ngược chiều. Nhìn lên thì hoá ra là một người bạn thân cũ
cùng xóm. Hai bên mừng rỡ chào hỏi nhau và rồi người bạn bảo anh:
-
Tao có chút việc phải đi ra chợ, nhưng gặp mày về phép
mừng quá, thôi tao trở lại để ở chơi với mày.
Thế là hai người nắm tay nhau cùng đi trở về làng. Người bạn móc
túi lấy ra một gói bánh in (2) mời anh ăn và anh đã ăn một cách
ngon lành. Ðó là điều anh kể lại sau này với mọi người, bởi vì
ngay từ thời điểm đó thì có lẽ anh đã bị mê đi rồi, không còn
biết gì nữa, và anh đã bị con ma dẫn đi loanh quanh đâu đó trong
rừng suốt cả đêm. Ðến gần sáng thì con ma dẫn anh xuống con sông
đầu làng, có lẽ là định dìm anh xuống sông cho chết đuối. May
cho anh là lúc này những trẻ chăn bò trong làng đã thức dậy dẫn
bò đi ăn sớm. Ðàn chó nghe có tiếng động lội bì bỏm dưới sông
thì sủa ran lên. Ðám trẻ chăn bò nghĩ rằng đâu có ai lại đi tắm
sông sớm như thế, chắc có lẽ một bợm nhậu nào quá chén trên
đường về nhà đã trợt chân lọt té xuống sông rồi. Thế là bọn
chúng nhảy xuống sông kéo anh lên. Lúc này anh vẫn chưa tỉnh.
Miệng thì dính đầy phân bò còn tay thì khư khư giữ chặt một
miếng phân bò khô mà anh vẫn còn gọi là bánh in! Phải một lúc
sau anh mới tỉnh lại khi người làng kéo đến khá đông và anh bắt
đầu kể lại đầu đuôi câu chuyện.
Sau khi vụ này xảy ra thì bà nội tôi dứt khoát không để cho tôi
đi đêm một mình. Tôi tuy mắc cỡ với bạn bè là đã lớn rồi mà đi
đâu cũng có một bà “vú em” kè kè theo một bên, nhưng trước sự
cương quyết của bà tôi đành phải nhượng bộ. Thế là từ đó, Gia
Ðình Phật Tử của chúng tôi lại có thêm một đoàn sinh “bất đắc dĩ”.
Kể lại câu chuyện này để mọi người thấy rằng, cái gì đã làm cho
một đứa bé 7, 8 tuổi vượt qua nỗi sợ hãi, một mình đêm hôm trên
con đường vắng vượt qua một khu rừng lắm ma như thế? Cái gì đã
làm cho một đứa bé trông thấy một bóng trắng đứng hỏng chân trên
một gò mả bên đường mà lại không ù té chạy? Thưa, đó là niềm
tin! Tin tưởng vào Phật pháp. Tin tưởng vào năng lực cứu khổ cứu
nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Tin rằng nếu vừa đi tay vừa bắt ấn
vừa niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì không một thế lực ma
quỷ nào dám xâm phạm đến ta. Tôi đã lớn lên trong một niềm tin
tưởng sâu xa về Bồ Tát Quán Thế Âm như thế. Niềm tin này càng
ngày càng được củng cố vững chắc, không hề suy suyển.
Sau này khi lớn lên, muốn tìm hiểu thêm một vùng đất mới của đất
nước mang rất nhiều huyền thoại tôn giáo cũng như một bản sắc
văn hoá đặc biệt, khi ra trường tôi đã chọn nhiệm sở về hành
nghề “gõ đầu trẻ” tại một tỉnh ở miền Nam. Trong những dịp rãnh
rỗi có cơ hội đi đó đi đây, có lẽ do bản tính yêu văn chương
nghệ thuật của một thầy giáo dạy văn đã đưa tôi đến chỗ quen
biết với một nghệ sĩ nghiệp dư cổ nhạc, đồng thời cũng là một
giáo viên đang dạy học tại trường Tiểu học Bình Thạnh Ðông, quận
Lấp Vò, Sa Ðéc mà người ta quen gọi theo lối xưng hô Nam Bộ là
thầy Bảy. Từ chỗ quen biết đó, hễ sau này nếu có dịp đi tạt
ngang qua vùng này, tôi lại thường tìm đến thăm anh để nghe anh
biểu diễn trình tấu cổ nhạc.
Quận Lấp Vò nằm kế Bắc Vàm Cống trên đường liên tỉnh Sa Ðéc –
Long Xuyên là một vùng thuộc ảnh hưởng Phật Giáo Hoà Hảo, thế
nên điều ngạc nhiên đầu tiên của tôi khi đặt chân đến nhà anh là
không thấy anh thờ tấm Trần Ðiều như những gia đình PGHH khác mà
ngay chính giữa nhà, là một bàn thờ Phật với đèn nến khói hương
và bức hình của Quán Thế Âm Bồ Tát khá lớn. Ðiều thắc mắc này
tuy tôi không nói ra nhưng anh đã cho tôi lời giải đáp sau này.
Anh lúc này đã trên bốn mươi và vẫn còn độc thân, sống một mình
trong một ngôi biệt thự lớn nhất và cũng “nổi tiếng” nhất tại
địa phương này. Nổi tiếng vì đây là ngôi nhà ma: ngôi biệt thự
của ông Hội Ðồng Tự, một dinh cơ đồ sộ tọa lạc ngay tại chợ Lấp
Vò, không ai là không biết. Ngôi biệt thự này trong thời chiến
tranh Việt Pháp đã bị Pháp trưng dụng làm tổng hành dinh cho cơ
quan an ninh điều tra cuả Phòng Nhì. Trong khoảng thời gian này,
hàng ngàn người tình nghi hoạt động chống Pháp đã bị bắt đưa về
đây điều tra, lấy khẩu cung. Rất nhiều nạn nhân đã bị tra tấn
đến chết và xác của họ người Pháp không cần phải mất công chôn
cất, chỉ việc liệng bỏ xuống con sông ngay sau nhà là xong
chuyện. Những vết máu của nạn nhân sau hàng mấy chục năm vẫn còn
đọng lại dấu vết trên nền gạch bông không cách gì chùi rửa được
là một chứng tích của sự khủng bố này.
Sau năm 1954, ngôi biệt thự này được hoàn trả lại cho cố chủ,
nhưng cả gia đình, thân quyến của ông Hội Ðồng không ai dám dọn
đến ở vì bị ma hoành hành. Ma lộng hành đến độ có người thân
trong gia đình vì tiếc của nên bạo gan đến ở thử một đêm, đã bị
ma nắm đầu liệng ra khỏi cửa sổ! Từ đó không ai còn dám thử nữa.
Một dinh cơ đồ sộ như thế mà đành phải bỏ hoang trong một thời
gian khá dài đến cả 10 năm! Cho đến đầu thập niên 60 thì thầy
Bảy được đổi về đây. Mang dòng máu nghệ sĩ đảng tử, Thầy tuy đã
nghe danh về ngôi nhà này, nhưng với bản tính bướng bỉnh không
tin chuyện ma qủy lại không có chỗ trọ, thấy ngôi biệt thự này
quá “ngon lành” nên cũng đánh liều muốn thử thời vận một phen.
Thế là Thầy tìm đến ông Hội Ðồng Tự và ngõ ý muốn thuê mướn ngôi
nhà.
Ông Hội Ðồng cười sốt sắng:
-
Nếu Thầy ở được, tôi cho Thầy ở không chứ chẳng phải thuê
mướn gì cả!
Vì đã nghe danh ngôi nhà này rồi nên Thầy Bảy nghĩ đến kế hoạch
đối phó. Thầy kể lại chuyện này với tôi như sau:
“Thầy biết không, vì ngôi nhà này bỏ hoang đã lâu nên không vô
điện. Ðể chuẩn bị cho đêm đầu tiên, tôi đã phải chạy đi mua hàng
chục cây đèn Hoa Kỳ cỡ bự, dầu mỡ đàng hoàng, đốt đèn thử trước
cho chắc ăn là không cây nào bị trở ngại. Trước đó tôi cũng đã
vào lớp kêu gọi khoảng chục đứa học trò lớn, bặm trợn, tối nay
mang giàng thun, gậy gộc đến trợ lực tôi. Tất cả bọn chúng đều y
hẹn đến tiếp tay thầy vào buổi tối đầu tiên. Thế là tôi yên bụng,
thầy trò chúng tôi ngồi chờ đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra xem có
đúng như lời đồn đãi hay không.
Mọi sự đều có vẽ yên lành cho đến khoảng 10 giờ tối. Ðột nhiên
những cây đèn mà tôi đặt ở mỗi góc nhà từ từ tàn lụi dần và tắt
hẵn như có ai đó đã lấy tay đè lên tim đèn. Mà không phải tất cả
chúng đều tắt một lượt đâu nghe. Từ từ từng cây một, cây nọ đến
cây kia như có ai đó đang cố tình đùa nghịch với tôi. Khi cây
đèn cuối cùng tắt hẵn thì đồng thời ở ngoài cữa, cửa lớn lẫn cửa
sổ, hàng đàn con chim ụt, con nào con nấy to như con gà mái bay
vào tấn công chúng tôi. Tôi hô đám trẻ vung gậy và bắn giàn thun
chống trả. Thế là chúng biến đi. Rồi một lát, cả một đàn mèo mun,
con nào con nấy to bằng con heo con, mắt xanh lè phóng vào như
muốn cắn xé chúng tôi. Tôi lại hô đám trẻ chống trả. Thế là
chúng lại biến đi. Tình hình trở nên yên tĩnh trong một lúc và
tôi nghĩ rằng trò quấy phá này có lẽ đến đây là chấm dứt. Nhưng
không, khoảng chừng 11 giờ tối, trên rầm thượng bỗng nhiên có
những tiếng xiềng xích khua rổn rảng, rồi tiếng dao vằm thớt và
tiếng những người đàn bà nói chuyện ì xèo với nhau như người ta
đang tụ lại nấu nướng để làm đám giổ. Chúng tôi yên lặng chờ xem
“họ” sẽ giở trò gì nữa đây để tìm cách đối phó. Một lát, những
tiếng động kia chợt im bặt. Ðang từ ồn ào, không khí rơi vào một
sự tĩnh mịch đến rợn người. Ðột nhiên trong sự im vắng đó bỗng
nỗi lên những tiếng kêu than rên xiết của những người đang bị
hành hạ tra tấn. Tiếng kêu than ai oán và thê lương xoáy mạnh
vào đầu, vào tim tôi, đến độ bây giờ cả 10 năm sau, tôi vẫn nghe
như chúng vẫn còn văng vẳng bên tai. Tiếng kêu than thê thảm
này quả là quá sức chịu đựng đối với một con người. Tôi hết còn
chịu nỗi và kêu đám học trò “rút binh”!
Tuy nhiên do vẫn còn “tiếc của đời”, tôi kêu đám học trò giúp
tôi thử thời vận thêm một đêm nữa. Cái đêm thứ hai này, tấn
tuồng lại xảy ra y như đêm trước và đến khoảng 11 giờ khuya thì
tiếng kêu than rên xiết lại trổi dậy. Bỗng nhiên trong lúc này,
từ đâu trong tiềm thức, miệng tôi bật lên câu niệm: NAM MÔ
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. Bỗng dưng, tất cả những tiếng rên xiết
thê thảm kia đều im bặt ngay lập tức.”
Thầy Bảy ngưng một lát, xong bắt đầu tiếp tục câu chuyện với
giọng nhiệt thành hơn:
- Thầy biết, tôi là người theo đạo Ông Bà, không hẵn là một
người theo Phật giáo. Lúc niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm có
thể là do truyền thống tin Trời Tin Phật đã có từ lâu đời trong
gia đình nên mới buột miệng ra như thế. Nhưng khi mới niệm lên
một câu mà linh ứng như vậy, quả thật là lúc đó lòng tôi rất
khoái chí. Tôi nghĩ thầm: “Thế là tao đã có biện pháp trị chúng
mày rồi nghe!” Nhưng rồi một hồi tĩnh trí lại, tôi bỗng suy nghĩ:
“Ma qũy là có thật –vì chúng đang phá mình muốn chết đây- thế mà
khi niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng ngưng ngay sự quấy
phá, tức là chúng cũng kính sợ Ngài, điều này có nghĩa là Bồ Tát
Quán Thế Âm cũng có thật. Tôi chỉ suy luận đơn giản như thế và
rồi tôi tin tưởng tuyệt đối vào công năng và uy lực của Ngài.
Thế rồi tôi nghĩ đến vong linh của những oan hồn uổng tử đã chết
trong căn nhà này chưa được siêu độ, có lẽ họ đang đau khổ lắm,
thế là tôi hứa với họ rằng tôi sẽ mời Thầy về làm lễ cầu siêu
cho họ vào ngày mai.
Tôi đã giữ đúng lời hứa. Chỉ vào bức hình Bồ Tát giữa trang thờ,
Thầy Bảy tiếp, hôm sau tôi đi Long Xuyên thỉnh tôn tượng của
Ngài đem về thờ và tôi trở thành một người tin tưởng hoàn toàn
vào sự linh ứng nhiệm mầu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Tôi cũng đã
làm lễ cầu siêu chu đáo cho “họ” và từ đó “họ” không còn quấy
phá tôi nữa. Nhưng chỉ phòng của tôi ở thôi à nhen. Những phòng
khác tôi không bảo đảm đâu à. Không tin Thầy cứ ngủ thử lại một
đêm, nếu không có chuyện gì xảy ra, sáng mai tôi sẽ bao Thầy đi
ăn sáng!”
Dĩ nhiên tôi từ chối sự thách đố này. Không phải là vì tôi sợ
ma, nhưng vì với tôi, đây không phải là chuyện để đem ra đánh cá!
Những chuyện linh ứng của Bồ Tát thì nhiều vô số kể. Trong cuộc
chiến khốc liệt vừa qua. Trong cuộc hành trình vượt biển Ðông bi
thảm của người Việt tỵ nạn, bao nhiêu gia đình, bao nhiêu sinh
mạng đã được Ngài cứu độ, vượt thoát khỏi hiểm nghèo, được Ngài
đưa từ cõi chết trở về lại với cõi sống. Bao nhiêu chuyện mà tôi
được nghe, được thấy và đôi khi chính mình là nhân vật trong
cuộc, tôi chỉ đơn cử ra một vài truyện ma nói trên để mọi người
thấy rằng có những cảnh giới vẫn luôn hiện hữu ngay bên cạnh
chúng ta nhưng do khả năng giới hạn của mình, chúng ta đã không
thấy được, nhưng không có nghĩa là chúng không hiện hữu. Cũng
vậy, Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một nhân vật huyền thoại
tôn giáo mà là một vị Bồ Tát có thực, đã và đang có mặt trong
cảnh giới này, bên cạnh chúng ta, luôn luôn lắng tai nghe những
tiếng kêu thương của chúng sanh để tìm đến giúp đỡ cứu độ.
Ðại sư Tinh Vân, một danh tăng Trung Hoa hiện đại, trong bài tựa
cuốn “Phổ Ðà Sơn Dị Truyện” đã nhận định rằng:
“Một điều rất đáng tiếc và rất lấy làm lạ là lòng người thời
nay, cứ nói đến sự cảm ngộ linh nghiệm của Bồ Tát là thấy đôi
phần nghi hoặc, nói đến sự hiện thân của Bồ Tát thì bao giờ cũng
cho đó là truyện thần thoại. Người không tin Phật giáo như thế
đã đành, mà cả những người tín ngưỡng Phật giáo cũng phạm những
sai lầm đó. Một điều không thể tha thứ được, đó là những người
tín ngưỡng Phật giáo và đã nghiên cứu khá sâu về Phật pháp, thế
mà từ lời nói đến bài viết, họ cũng không dám đề cập đến sự hiện
thân vô hình hoặc hữu hình trong sự cảm ứng của Phật Bồ Tát,
chính họ cũng sợ người ta cười là truyện thần thoại, điều đó quả
thực là một sai lầm vô cùng to lớn!
Khi chúng ta lần đọc tạng kinh, nhất là đọc đến Hiền Ngu Nhân
Duyên Kinh, Bách Dụ Kinh, Kinh Luật Dị Tướng, Lục Ðộ Tập Kinh,
v.v… trong đó chẳng đã ghi lại những sự việc rất kỳ lạ đó sao?
Nếu coi tất cả những truyện đó là thần thoại, thì quả thực, tôi
không thể hiểu nổi chúng ta dựa trên cơ sở nào mà xây dựng lòng
tin đối với tôn giáo và sự ngưỡng mộ lý tưởng tôn giáo.”
Và Ngài sách tấn:
“Thời đại ngày nay, quả thực là hỗn
loạn rối ren đến cực điểm, ma quỷ múa may, tà thuyết lộng hành,
nhân tâm không chốn quy y, tinh thần chẳng nơi ký thác, biển khổ
mênh mông, rồi con người sẽ đi về đâu? Thiên tai nhân họa, làm
sao giải thoát cho được? Ðó là một vấn đề đang nung nấu trăn trở
trong lòng mỗi người. Có cách nào giải quyết vấn đề này chăng?
Duy nhất chỉ có một câu trả lời, đó là hãy tin vào Quán Thế Âm
Bồ Tát! Hãy đem tất cả bản thân mình quy y, gởi gắm vào Quán Thế
Âm Bồ Tát, hiểu rõ Quán Thế Âm Bồ Tát là sự thị hiện của Ðại Từ,
Ðại Bi, Ðại Trí Tuệ, Ðại Dõng Mãnh, dù trước mắt chúng ta là
những gì đau khổ, tai họa, phiền não, chỉ cần chúng ta nhất tâm
bất nhị, thực lòng tín ngưỡng, xưng niệm, lễ bái, nếu chúng ta
có được lòng từ bi, trí tuệ và dõng mãnh của Quán Thế Âm Bồ Tát,
thì Quán Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ giải cứu chúng ta”. (3)
Trong tâm thành và niềm tin tưởng như thế, tôi có duyên may được
đọc tác phẩm “Bồ Tát Quán Thế Âm”của GS Tiến sĩ CHUN-FANG YU,
đương kim Khoa trưởng Phân khoa Tôn giáo Ðại Học TB New Jersey.
Tiến sĩ Yu lúc còn bé 4, 5 tuổi đã thường được nghe bà nội tuyên
xưng về Bồ Tát, lớn lên niềm tin tưởng của Bà vẫn không hề thoái
chuyển và đó là động cơ chính thúc đẩy Bà tiến hành công trình
nghiên cứu này, một công trình nghiên cứu có thể nói là đầy đủ
nhất về Bồ Tát Quán Thế Âm từ trước đến nay mà qua đó, chúng ta
sẽ hiểu được lý do tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm đã được kính
ngưỡng trong các quốc gia Phật giáo -cả Nguyên Thủy lẫn Ðại Thừa-
và đặc biệt tại Trung Quốc, quê hương của tác giả, tín ngưỡng
tôn thờ Bồ Tát Quán Thế Âm đã phổ cập trong dân gian từ bao đời
nay, thể hiện qua câu ngạn ngữ: “Người người niệm Di Ðà, nhà nhà
thờ Quán Âm”.
Cũng trong tâm thành và niềm tin tưởng như thế, tôi xin phép tác
giả được chuyển tác phẩm này sang Việt ngữ. Hy vọng là sẽ có
thêm nhiều người có dịp được gieo duyên lành cùng Bồ Tát. Cầu
mong chư Tôn Ðức, quý vị thức giả bổ khuyết cho những chỗ sai
lầm trong khi chuyển ngữ.
NAM MÔ ÐẠI TỪ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
Tâm Hà Lê Công Ða
(1)
: “The Book of Miracles”, Kenneth L. Woodward, Dimon &
Scuster xb, 2000. p. 320-321.
(2)
: Một loại bánh ngọt làm bằng bột gạo khô và đường phổ
biến ở miền Trung, nhất là vào dịp Tết.
(3)
: Phổ Ðà Sơn Dị Truyện. Pháp sư Chử Vân. NVP dịch. Sách
ấn tống, xb1999. p. 6-7.
|