BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

GS/TS Chun Fang Yu

Khoa Trưởng Phân Khoa Triết Học & Tôn Giáo State of New Jersey University

 

CHƯƠNG VII

Home

Bồ Tát Quán Thế Âm

Pháp luận

Sách

Phật Pháp Căn Bản

Links

 

 




Ðại Bi Sám Pháp

Và Tiến Trình Bản Địa Hóa Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm.  

Tháng Giêng năm 1996, trong khi còn ở Ðài Bắc, tôi có dịp được tham dự một buổi “Ðại Bi Sám Pháp Hội” tổ chức tại chùa Nông Thiền, bản tự của Thiền sư Thánh Nghiêm. Có thể vì đây là một buổi chiều thứ Sáu, số người tham dự -khoảng chừng năm trăm người- đa phần đều là phụ nữ. Họ ở trong khoảng lứa tuổi từ đôi mươi cho đến sáu mươi, có người mang theo con nhỏ. Mặc dù đàn ông rõ ràng chỉ chiếm phần thiểu số -chưa tới một trăm người- nhưng tuổi tác của họ có vẻ đồng nhất hơn, trong khoảng từ ngoài hai mươi cho đến bốn mươi. Ðây là giới sinh viên và những người chuyên nghiệp. Buổi lễ kéo dài trong khoảng hai giờ, từ 2 giờ cho đến 4 giờ chiều. Căn cứ vào thời khoá sinh hoạt của chùa Nông Thiền và một ngôi chùa chi nhánh khác trong thành phố, trung bình nghi lễ này được tổ chức hai lần trong tháng ở cả hai nơi. Ðể tạo điều kiện thuận lợi cho tín đồ, ngày giờ có thể được thay đổi, có khi vào buổi chiều, có khi vào buổi tối, hoặc là vào ngày cuối tuần có khi là những ngày trong tuần. Khi tôi hỏi Thiền sư Thánh Nghiêm tại sao nghi lễ này được tổ chức thường xuyên như thế, ngài đã trả lời: “Bởi vì người Trung Hoa ‘có duyên’ với Bồ Tát Quán Âm.” Tính cách phổ thông của nghi lễ này, dĩ nhiên không phải chỉ giới hạn trong những ngôi chùa thuộc tông phái của sư Thánh Nghiêm. Những tự viện tại Ðài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Ðịa, cũng như các cộng đồng người Hoa hải ngoại đều tổ chức những khoá lễ này một cách khá đều đặn và thường xuyên.

 Ðược chủ trì bởi một vị sư gọi là “sám chủ” và những người phụ lễ, những người tham dự pháp hội đã tụng đọc một số đoạn kinh văn trong bộ kinh “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà-Ra-Ni”, gọi tắt là Kinh Thiên Thủ, do ngài Dà Phạm Ðạt Ma dịch ra Hán văn vào khoảng năm 650-660 (đã được nói sơ qua trong Ch. 2). Buổi lễ nói chung là rất khéo phối trí như một vũ hội và tạo nên một ấn tượng sâu xa. Trong suốt hai giờ đồng hồ, tiếng cầu kinh được chen lẫn với những âm thanh nhạc điệu trầm bỗng, phù hợp với những động tác thay đổi nhịp nhàng. Người ta đứng, cúi đầu, đảnh lễ, quỳ trên hai đầu gối trong những công đọan có khi kéo dài đến cả mười phút. Trọng tâm của buổi lễ là trì chú Đại Bi, hai mươi mốt biến và sau đó là nghi thức sám hối.

Nghi lễ mà bây giờ người ta thấy đang được thực hành tại Đài Loan và những nơi khác là dựa theo bản kinh văn của đời Thanh (1644-1912), vốn đặt căn bản trên bộ sám pháp dài và phức tạp hơn do ngài Trí Lễ (960-1028, còn gọi là Tứ Minh tôn giả) (1) soạn ra lần đầu tiên, được gọi là Thiên Thủ Nhãn Đại Bi Thần Chú Sám Pháp. Kamata Shigeo (1973) cũng đã quan sát một nghi lễ tương tự như vậy tại HongKong năm 1973, theo đúng một trình tự y như thế. Từ trước đời Tống, trước khi ngài Trí Lễ sáng tác ra bộ sám pháp này thì Thần chú Đại Bi đã rất phổ thông, mọi người mọi giới đều đã tụng đọc thần chú này cho những mục đích khác nhau, nhưng thông thường vẫn chỉ là để thỉnh cầu những điều linh ứng. Đến ngài Trí Lễ mới bắt đầu đặt ra một nghi thức trì tụng thần chú, và từ đó người ta cần phải đến một tự viện để tham dự nghi lễ sám hối do chư tăng chủ trì để có thể hưởng được những lợi lạc về mặt tinh thần cũng như vật chất mà trong kinh đã hứa khả. Thế nên ngưòi ta sẽ không ngạc nhiên chút nào khi thấy trong sám pháp này, được hiệu đính vào đời Thanh và sử dụng cho đến nay, đã liệt kê danh hiệu của Trí Lễ Đại Sư cùng với danh hiệu của những vị Phật và Bồ Tát khác khi đảnh lễ. 

So sánh với bộ sám pháp nguyên thủy của ngài Trí Lễ thì bộ sám pháp này đã được đơn giản hoá rất nhiều. Nghi lễ được bắt đầu với niệm ba lần danh hiệu của Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, tiếp theo sau một bài kệ dâng hương. Đại chúng sau đó tụng đọc một đoạn kinh văn giải thích lý do tại sao thực hiện nghi lễ sám hối này, nội dung lấy ra từ bản sám pháp của ngài Trí Lễ. Một điều cũng cần lưu ý là Bồ Tát Quán Âm ở đây được tôn xưng như là một vị Phật của thời quá khứ:

Kính lạy đời quá khứ,

Chính Pháp Minh Như Lai.

Chính là đời hiện nay,

Quán Thế Âm Bồ Tát,

Bậc thành công đức diệu,

Đủ lòng đại từ bi,

Nơi trong một thân tâm

Hiện ra ngàn tay mắt

Soi thấu khắp pháp giới

Hộ trì các chúng sanh

Khiến phát lòng đạo sâu

Dạy trì chú Viên Mãn

Cho xa lìa đường ác

Được sanh trước Như Lai

Những tội nặng vô gián

Cùng bịnh ác lâm thân,

Khó nỗi cứu vớt được

Cũng đều khiến tiêu trừ

Các tam muội, biện tài

Sự mong cầu hiện tại

Đều cho được thành tựu

Quyết định chẳng nghi sai

Khiến mau được ba thừa

Và sớm lên quả Phật

Sức oai thần công đức

Khen ngợi chẳng hay cùng!

Cho nên con một lòng

Quy mạng và đảnh lễ

 

Sau đó là phần đảnh lễ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Phật, Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng rất nhiều những vị Bồ Tát khác cũng như ngài Ma Ha Ca Diếp tôn giả và vô lượng vô số đại thanh văn tăng A la hán. Đại chúng qùy lạy đảnh lễ mỗi khi danh hiệu các vị này được xướng lên. Tên của ngài Trí Lễ được nêu lên trong bản kinh này trước khi đảnh lễ các vị  Hộ thế tứ vương, Giang hải thần, Dược thảo thọ lâm thần, Xá trạch thần, Thổ thần, Sơn thần, Cung điện thần, v.v… Sau khi đảnh lễ xong, những phẩm chính trong Thiên Thủ Kinh được tụng đọc lớn.

Kinh nói: Nếu có vị tì khưu, tì khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di, hay đồng nam, đồng nữ nào, muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm đại từ đối với chúng sanh và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau biết tất cả pháp.

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm được mắt trí huệ

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau độ các chúng sanh

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm được phương tiện khéo

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau lên thuyền bát nhã

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm.

Nguyện con sớm được qua biển khổ

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau được đạo giới định.

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm lên non Niết Bàn

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau về nhà vô vi,

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm đồng tâm pháp tánh.

Nếu con hướng về nơi non đao,

Non đao tức thời liền sụp đổ,

Nếu con hướng về lửa nước sôi

Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.

Nếu con hướng về cõi Địa ngục

Địa ngục liền mau tự tiêu tan

Nếu con hướng về loài ngạ quỷ

Ngạ quỉ liền được tự no đủ

Nếu con hướng về chúng Tu La

Tu La tâm ác tự điều phục

Nếu con hướng về các súc sanh,

Súc sanh tự được trí huệ lớn.

 

Tiếp theo đại chúng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần) và A Di Đà Phật (10 lần) rồi tụng đọc một đoạn kinh tiếp, trong đó Quán Thế Âm Bồ Tát tuyên hứa với Phật: “Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào 3 đường ác,  nếu không được sanh về các cõi Phật, nếu không được vô lượng tam muội biện tài, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni.” Sau đó là đến phần tụng đọc thần chú Đại Bi, cả thảy hai mươi mốt biến.

Sau khi tụng chú rồi, đại chúng liền qùy xuống đọc lớn bài phát nguyện sám hối do ngài Trí Lễ soạn có nội dung như sau:

Đệ tử...(tên của người dự sám hội) cùng pháp giới chúng sanh, hiện tiền một tâm, vẫn đủ ngàn pháp, đều có sức thần, cùng với trí sáng trên sánh chư Phật, dưới đáng muôn loài. Bởi niệm vô minh che ánh sáng kia, nên đối cảnh hôn mê, khởi lòng chấp nhiễm, nơi pháp bình đẳng, sanh tưởng ngã nhơn. Lại do ái kiến làm gốc, thân miệng làm duyên, trong nẻo luân hồi, gây nên đủ tội: thập ác, ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ tịnh hạnh, xâm tổn thường trụ, đồ vật thức ăn, dù ngàn Phật ra đời, khó bề sám hối. Những tội như thế, không lường không ngằn, khi bỏ báo thân, ưng đọa tam đồ, chịu vô lượng khổ.

Lại trong đời này, do túc, hiện nghiệp hoặc bị lửa phiền thiêu đốt, tật bịnh vây quanh, duyên ngoài bức bách, ma ngoại quấy nhiễu, chướng ngăn đạo pháp, khó nỗi tiến tu.

May gặp thần chú Viên Mãn Đại Bi có thể mau trừ những tội như thế, cho nên nay con, hết lòng trì tụng, con nguyện nương về Quán Âm Bồ Tát, 10 phương đạo sư, phát lòng Bồ Đề, tu hạnh chân ngôn, cùng với chúng sanh, tỏ bày các tội, cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu trừ.

Nguyện đấng đại bi Quán Âm BồTát ngàn tay nâng đỡ, ngàn mắt chiếu soi, khiến cho chúng con, duyên chướng trong ngoài, thảy đều dứt sạch, mình người hạnh nguyện cùng được viên thành, mở tánh bản tri, dẹp trừ ma ngoại, ba nghiệp siêng cần, tu nhân Tịnh Độ.

Nguyện cho chúng con, khi bỏ thân này, không vào đường khác, quyết được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật Di Đà, rồi được thừa sự Đại Bi Quán Âm, đủ các tổng trì, rộng độ quần phẩm, đồng thoát khổ luân, đều thành Phật đạo.

Sau khi phát nguyện sám hối rồi, đại chúng quy y đảnh lễ Tam Bảo và nghi lễ được kết thúc với lời cầu nguyện dâng lên Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật A Di Đà, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Phật, Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát và Tổng Trì Vương Bồ Tát.

Mặc dù đang chăm chú theo dõi tiến trình của nghi lễ và cố gắng để hòa nhịp với những động tác thay đổi thường xuyên trong nghi lễ, tôi cũng không khỏi không để ý đến một số lượng lớn những bình chứa đầy nước lã được đặt dọc theo bờ tường ở ngay phía sau bàn thờ. Đây là những chiếc bình nhựa có kích thước khác nhau mà những người tham dự pháp hội đã mang đến và sẽ đem về nhà sau khi buổi lễ chấm dứt. Có người cho tôi biết, những bình nước này, vì được chú nguyện trong buổi lễ, đã trở thành “Đại Bi Thủy”, sẽ có công năng tiêu trừ tật bệnh. Niềm tin tưởng này đã phát xuất từ đời Tống và sớm hơn. Từ đời Thanh trở đi, như ta biết, việc trì tụng chú Đại Bi cùng với Tâm Kinh Bát Nhã đã được đưa vào nhựt khóa của hai buổi công phu sớm chiều trong tất cả các tự viện Trung quốc. Nghi thức Đại Bi Sám Pháp được mô tả ở đây đồng thời cũng là một phần không thể thiếu trong nghi quỹ kỹ niệm những ngày vía của Bồ Tát Quán Âm trong ba ngày lễ chính của Bồ Tát (ngày 19 của các tháng 2, 6, và 9 Âm lịch) đặc biệt là ngày “Đản Sanh” của ngài. Tính cách đại chúng của Chú Đại Bi cũng như phẩm kinh chứa thần chú này đã được minh chứng qua việc tín đồ cho ấn tống và phát không tại khắp các chùa chiền.

Thần Chú Đại Bi như thế chính là một phương tiện hiệu quả nhất trong việc phổ biến tín ngưỡng Quán Âm. Rất nhiều những mẫu chuyện linh ứng mà chúng ta có được hôm nay do kết quả của việc trì tụng thần chú này đã được phát xuất từ dưới thời Đường, Tống. Thế nên, một câu hỏi không thể không được đặt ra là, bằng cách nào và tại sao mà thần chú và bộ kinh đặc biệt này lại có thể đạt đến một sự thành công lâu dài như thế? Cuối cùng, như đã được mô tả trong chương 2, đây chỉ là một trong rất nhiều bộ thần chú được quảng bá bởi rất nhiều bộ kinh mật tông tôn vinh Bồ Tát Quán Âm. Mặc dù một bộ kinh khác, Thỉnh Quán Âm Kinh, trước đó cũng đã rất nổi tiếng do sự quảng bá của vị tổ Thiên Thai Tông, ngài Trí Giả (538-597), nhưng đã không còn phổ thông kể từ sau đời Tống. Ba bộ thần chú trong Thỉnh Quán Âm Kinh cũng có vẻ như không được ưa chuộng lắm trong giới tăng sĩ chứ chưa nói đến quảng đại quần chúng như là Đại Bi Thần Chú, ngay cả trước thời Tống. Cũng vậy, cho dù đã có một sám pháp căn cứ trên bộ kinh này do ngài Tuân Thức (963-1032) -một người đương thời và rất gần gũi với ngài Trí Lễ, soạn ra, nhưng nghi lễ này đã không còn được tồn tại cho đến ngày hôm nay. (2)

Tôi cho rằng việc ngài Trí Lễ soạn ra bộ Đại Bi Sám Pháp này dưới thời Tống phần lớn là do ảnh hưởng của việc thần chú Đại Bi đã được trì tụng rộng rãi trong đại chúng kể từ đời Đường. Nghi lể này một khi được tạo ra lại trở thành một khí cụ quan trọng khác trong việc quảng bá thần chú và bộ kinh đặc biệt này. Lý do chính khiến cho sám pháp này đã có thể đạt được một hiệu quả như thế là vì nó cuối cùng đã tạo được cho người bản địa một nghi thức hành lễ mang màu sắc Trung Hoa để phụng thờ một linh thần mật giáo có xuất xứ từ ngoại quốc. Đối với ngài Trí Lễ, cũng giống như Tuân Thức, vì là một thiền sư thuộc phái Thiên Thai, thế nên khi họ sáng tạo ra những nghi lễ, chắc chắn là họ trung thành với mô hình của Thiên Thai tông dùng trong những nghi thức sám hối. Mô hình này đầu tiên đã do ngài Trí Giả soạn ra trong Pháp Hoa Sám Nghi và rồi sau đó được bổ sung tỉ mỉ hơn bởi một vị tổ Thiên Thai khác, ngài Trạm Nhiên (711-782) trong Pháp Hoa Tam Muội Hành Sự Vận Tưởng Bổ Trợ Nghi với mười công đoạn liên tiếp bao gồm tất cả các nghi thức sám hối. (Kamata 1973:283; Stevenson 1987:475-76). Với việc sắp xếp cách trì tụng chú Đại Bi đưa vào trong nền tảng triết lý và khuôn khổ lễ nghi của truyền thống Thiên Thai, ngài Trí Lễ đã làm công việc bản địa hoá cái nghi lễ mật tông này.

Như vậy, trong chương này, trước tiên tôi nêu ra một vài bằng chứng cho thấy sự gia tăng tính cách đại chúng của Thần Chú Đại Bi kể từ đời Đường cho đến đời Tống, sau đó đưa ra những lý cớ để lý giải việc đời Tống ưa chuộng kinh điển mật tông, và cuối cùng  là bản phân tích về nghi lễ sám pháp của ngài Trí Lễ. Tôi hy vọng chứng minh rằng Thiên Thai sám pháp do ngài Trí Lễ sáng tạo ra  đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc bản địa hoá bộ thần chú mật tông và qua đó đã góp phần vào việc chuyển hoá hình ảnh của một Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara thành một Đại Bi Quán Âm Trung quốc. Tính cách đại chúng của thần chú và sám pháp đặt trọng tâm chung quanh việc tụng đọc tập thể thần chú này đã góp phần tạo nên những hiểu biết phổ quát về Thiên Thủ Quán Âm dưới thời Tống. Tiếng tăm của hình tướng Quan Âm đặc biệt này đã đưa đến việc sáng tạo nên truyền thuyết Công chúa Diệu Thiện, được xem như là một hoá thân Trung hoa của Bồ Tát, sẽ được bàn đến trong chương 8.

Như đã được đề cập đến trước đây (chương 2), bộ kinh văn mật tông đầu tiên, Thỉnh Quán Âm Kinh, vốn rất được ưa chuộng trong hàng ngũ tăng sĩ thuộc phái Thiên Thai. Tổ Thiên Thai, ngài Trí Giả, đã đặc biệt chú trọng đến bộ kinh này và dùng nó làm nền tảng cho một loại hình sau cùng trong bốn loại hình thiền định:  không thiền hành và không tọa thiền (Stevenson 1986:50; Donner and Stevenson 1993:275-80). Tuân Thức, một đại sư của Thiên Thai tông sống cùng thời với ngài Trí Lễ đã soạn ra một nghi thức hành lễ khác gọi là Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Tam Muội Nghi. Bộ này căn cứ trên một bộ kinh văn ngắn hơn, Thỉnh Quán Thế Âm Sám Pháp, được liệt kê trong Quốc Thanh Bách Lục do ngài Quán Đính (561-632) kết tập vào năm 605. Nghi lễ này kéo dài trong 49 ngày. Bồ Tát Avalokitesvara được gọi là “Đại Bi” trong bộ kinh này và tuyên xưng như là người cứu rỗi, “lặn lội trong ngũ đạo luân hồi” để cứu độ quần sinh (T 20:36b).

Tất cả những kinh văn liên quan đến Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara đều đã được phiên dịch ra Hán Văn vào thời Đường. Tuy nhiên chỉ có những bộ kinh do ngài Dà Phạm Đạt Ma và vị Thiền sư mật tông Bất Không Kim Cương dịch là phổ biến hơn cả. Ngài Trí Lễ đã dựa trên bản dịch của ngài Dà Phạm Đạt Ma để soạn ra bộ sám pháp của mình. Và như vậy, bộ Đại Bi Sám Pháp được dùng ngày hôm nay là những phần được chọn lựa rút ra từ nguyên bản nghi thức của ngài Trí Lễ soạn. Ngài Trí Lễ cũng đã trích đoạn rất chọn lựa, chỉ giữ lại một vài đoạn của phẩm kinh còn hầu như đã loại bỏ hết những phần khác trong nghi thức sám pháp của mình. Điều quan trọng hơn cả là, khi soạn ra một nghi thức tương tự như Thiên Thai Liên Hoa Thiền Định Sám, ông ta đã biến đổi một cách hoàn hảo bộ kinh mật tông này thành một sản phẩm mang màu sắc tín ngưỡng Thiên Thai.

Ngài Trí Lễ đã bắt đầu nghi thức sám pháp của mình bằng cách trích dẫn đoạn mở đầu của cuốn kinh, giới thiệu khung cảnh Bồ Tát Quán Âm diễn nói thần chú. Bộ kinh này đã do chính Đức Thế Tôn tuyên thuyết tại cung điện của Bồ Tát Avalokitesvara trên đảo Bồ Đà Lạc Ca. Sau khi giải thích nguồn gốc và công năng của thần chú, Bồ Tát Avalokitesvara kêu gọi bất cứ những ai muốn trì tụng thần chú này nên phát tâm từ bi đến tất cả mọi loài chúng sanh bằng cách theo ngài phát mười đại nguyện. Đây là mười đại nguyện đã được ngài Trí Lễ trích lại trong nghi thức sám hối của mình và được tiếp tục sử dụng cho đến hôm nay trong các Đại Bi Sám Pháp hội, như buổi lễ ở Đài Loan mà tôi vừa mô tả.

Sám pháp của ngài Trí Lễ bao gồm phần tiếp theo của bộ kinh: “Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ  sẽ mang tội rất nặng, nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng?” Ngài Trí Lễ đã dùng đoạn kinh văn này như là phần căn bản cho việc sám hối, tuy nhiên đã không sao chép đúng y nguyên văn từ bản kinh, cũng như đã loại bỏ đoạn tiếp theo liệt kê những ích lợi mang đến do việc trì tụng thần chú này.

Ngài Trí Lễ sau đó đã trích một số đoạn kinh kế tiếp, bắt đầu với 84 câu thần chú Đại Bi và đoạn mở đầu bằng câu “Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất 6 phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, 10 phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn, có vị chứng quả Tư đà hoàn, hoặc có vị chứng quả A na hàm, có vị chứng quả A la hán, hoặc có vị chứng được sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa cho đến thập địa, vô lượng chúng sanh phát lòng bồ đề.”. Đến đây vị Đại Phạm Thiên Vương liền bạch hỏi Bồ Tát Avalokitesvara xin ngài miêu tả “hình trạng và tướng mạo” của thần chú này. Bồ Tát liền cho biết đấy là Đại từ bi tâm vốn ngang hàng với chín loại tâm khác: tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không chấp giữ, tâm vô thượng Bồ Đề.

Sám pháp của ngài Trí Lễ tiếp theo đã loại bỏ đoạn kinh mô tả những linh ứng do việc trì tụng thần chú mang đến, tuy nhiên ông giữ lại phần mô tả cách thức thiết lập nơi thiêng liêng để hành lễ. Trong bản kinh đã chỉ cho người hành trì những phương thức để đối đầu với những vấn nạn khác nhau hoặc đạt đến một số mục tiêu đặc biệt nào đó, tuy nhiên ngài Trí Lễ đã không đưa những phần này vào trong sám pháp của mình. Cũng như trước, ông đã cố tình loại bỏ những đoạn liên hệ đến phép lạ, những chuyện thần bí phi thường.

Trong tất cả những nhân dạng mang màu sắc mật tông của Bồ Tát Avalokitesvara được đưa vào Trung quốc, chỉ có hình tướng của Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara là trở thành phổ biến nhất. Với sự sản xuất những hình tượng về ngài, việc trì tụng Thấn chú Đại Bi của cả giới tăng sĩ cũng như cư sĩ, những linh nghiệm của thần chú, việc sao chép Thiên Thủ Kinh và tụng đọc những đoạn trọng yếu trong phẩm kinh này cụ thể như mười đại nguyện cùng với thần chú trong các pháp hội, đã đưa đến việc ngài Trí Lễ soạn ra bộ Đại Bi Sám Pháp vào thời Tống.

 

Từ Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara

Đến  Đại Bi Quán Âm Bồ Tát

 

Mặc dù các tính từ “cứu khổ” và “Đại Từ Đại Bi” đã được dùng khi nói đến danh hiệu của Bồ Tát Quán Âm từ những thời kỳ rất sớm, tuy nhiên chỉ sau khi cuốn Thiên Thủ Kinh được giới thiệu vào đời Đường, từ đó danh hiệu “Đại Bi” mới được xem như đặc biệt dành riêng để chỉ vị Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara. Đây là do sự thành công nhanh chóng mà những tín đồ tôn thờ ngài đã đạt được dưới đời Đường. Mặc dù hình tượng này chỉ đến sau so với những hình tượng mật tông khác của Bồ Tát Avalokitesvara được đưa vào Trung Hoa, nhưng do nhờ sự quảng bá rộng rãi tín ngưỡng tôn thờ ngài đặc biệt là của ba vị đại sư Mật Tông tên tuổi (Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, và Bất Không Kim Cương tất cả đã dịch các kinh điển sang Hán Văn) cũng như sự ủng hộ của triều đình, hình tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara đã có thể vượt qua và chiếm lĩnh tiếng tăm của các hình tượng mật tông khác của Bồ Tát. Maria Reis-Habito trong luận án cũng như các bài nghiên cứu đã xuất bản của bà khi so sánh các bản dịch Hán văn khác nhau của kinh điển mật tông tuyên xưng Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara đã giải thích lý do tại sao bản dịch của ngài Dà Phạm Đạt Ma hầu như   đạt đến tình trạng độc tôn đã đi tìm căn nguyên sự gia tăng đức tin của cả hai giới tăng sĩ và cư sĩ vào thần chú, và cho rằng động cơ thúc đẩy việc thực hiện Đại Bi Sám Pháp là do việc tôn trọng đạo hiếu trong luân lý Khổng Mạnh. Trong khi sử dụng những nguồn tài liệu thời hậu-Tống làm cơ sở chính để tiến xa hơn trên lập luận này tác giả có thể đã cho thấy có một mối liên hệ mật thiết giữa nghi lễ sám hối với tín ngưỡng tôn thờ người quá vãng, tuy nhiên điều này không thể áp dụng cho thời Tống và những giai đoạn trước đó (3). Như tôi sẽ chứng minh tiếp theo đây trong chương này, ngài Trí Lễ đã nhìn nghi lễ này trong một khung cảnh rộng rãi bao quát hơn liên quan đến việc phục hồi đời sống tâm linh và cải hoá đạo đức.

Trong một công trình nghiên cứu dài và có tầm vóc, Kobayashi Taichiro (1983) đã đi tìm dấu vết sự phát triển của tín ngưỡng tôn thờ Đại Bi dưới đời Đường. Thu thập từ những nguồn mạch tài liệu đa dạng và phong phú bao gồm tự truyện của những tăng sĩ, những bản khắc chữ, những họa phẩm (đáng tiếc đa phần đã không còn tồn tại), thi văn cùng những truyện kể dân gian, ông ta đã vẽ ra được một bức tranh khá sinh động về sự gia tăng tính cách đại chúng của vị linh thần vừa mới được du nhập. Từ bằng chứng của sáng tạo mỹ thuật thể hiện qua những hình tượng và tranh vẽ, tín ngưỡng mới tôn thờ Đại Bi tập trung tại kinh đô Tràng An, nhưng đồng thời cũng lan rộng đến cả vùng Tứ Xuyên. Những hình thái mỹ thuật diễn tả về Bồ Tát cũng đã theo sát nội dung của từng dịch bản kinh văn mới. (4)

Kobayashi xem những giai đoạn cuối Đường và Ngũ Đại là thời đại “hoàng kim” của tín ngưỡng Đại Bi và xem tinh thần nhiệt thành tôn giáo của ba vị tăng sĩ trong thời kỳ này như là những thí dụ tiêu biểu (1983:85) Trì tụng thần chú, tạo dựng tôn tượng và hủy hoại một  bộ phận của thân thể mình cúng dường cho Bồ Tát đã là những phương cách  bày tỏ niềm tin tôn giáo của họ. Ba vị đại tăng này đã nêu lên những thí dụ minh họa cho cách thế đó.

Tiểu sử của họ đã được ghi chép lại trong Tống Cao Tăng Truyện. Nhân vật đầu tiên là sư Trí Huyền (809-881), người gốc gác ỏ Mai Châu, Tứ Xuyên. Sư nổi tiếng là người học rộng và tinh thông Phật pháp, đặc biệt là những kinh sách về Tịnh Độ. Lý Thương Ẩn và một số những khuôn mặt trí thức nổi tiếng đương thời rất ái mộ ngài. Tuy nhiên khi sư được mời để giảng pháp tại kinh đô, với thổ ngữ khá nặng của vùng Tứ Xuyên, rất khó mà có người hiểu được ngài. Sư liền trở về quê nhà và đi lên núi Tai Voi (Tượng Nhĩ Sơn) -một nơi tôn thờ tín ngưỡng Đại Bi- và liên tục trì tụng Thần Chú Đại Bi. Một đêm nọ, sư nằm mơ thấy một vị thần tăng đến cắt đứt lưỡi ngài và thay bằng một cái mới. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, sư bắt đầu nói thổ ngữ của vùng Tràng An một cách trôi chảy. (T 50:763c).

Vị sư thứ hai là Thần Trí (819-886), người sống đồng thời cùng với sư Trí Huyền, đã bắt đầu trì tụng thần chú khi mới lên 12 tuổi. Sau khi xuất gia vào năm hai mươi tuổi, sư đã lặn lội đi khắp vùng Đông Nam Trung quốc chữa trị đủ mọi loại bệnh bằng nước lã đã được gia trì chú Đại Bi. Người ta lũ lượt tìm đến sư và vì thế sư được gọi là “Đại Bi Tăng.” Trong khoảng từ năm 847 đến 859 sư về kinh đô hoằng hoá và đã chữa lành bệnh bị ma ám cho con gái của vị Thừa tướng đương triều, bằng cách liên tục gia trì chú Đại Bi lên cô gái này trong suốt bảy ngày (T 50:869c).

Vị sư thứ ba, Đạo Châu (863-941) vốn là một nhạc sĩ, nổi tiếng với giọng tán tụng kinh Phật rất hay. Thúc đẩy bởi niềm tin sâu xa vào chú Đại Bi, sư đã lấy máu của mình vẽ lên một bức hình Bồ Tát đang đứng. Năm 882 Khi Hoàng Sào nổi loạn chiếm đóng Tràng An, sư đã tự chặt cánh tay trái của mình (ngay tại cùi chỏ) và đốt lên để cúng dường Bồ Tát, cầu nguyện cho hoà bình. Sư đồng thời cũng cắt lỗ tai trái của mình trong khi đang cầu mưa cho dân làng. Kết quả của niềm tin này là khi sư viên tịch ở tuổi 78, thể xác của sư đã không bị sình thối mà vẫn tươi nhuận như là đang nhập định. Nhục thân của sư sau đó đã được sơn phết và ướp xác để bảo quản. (T50:859b)

Khi mà sự linh nghiệm của thần chú được mọi người biết đến, những trụ khắc Đại Bi Thần Chú đã bắt đầu được dựng lên. Công trình sớm nhất là của sư Hồng Duy tại chùa Ngoạ Long tại kinh đô xây dựng vào năm 871. Những thủ bản tìm được ở Đôn Hoàng cũng cho ta những bằng chứng khác về tín ngưỡng này. Một bản kinh thu gọn của Thiên Thủ Kinh chỉ bao gồm mười lời nguyện của Quán Âm và bài thần chú đã được lưu hành. Được biết dưới tên gọi là Đại Bi Chí (?) Thỉnh, có thể là đã được dùng để trì tụng trong một nghi thức hành lễ nào đó. Bản kinh này thường được sao chép chung cùng với một bộ thần chú khác, Tôn Thắng Đà La Ni Kinh. Cụ thể như trong hai bản sao chép do sư Huệ Loan thực hiện đều có chứa cả hai bản kinh này. Một bản được thực hiện vào năm 899 (S4378) tại Chùa Đại Bi, Hồ Bắc, được kết thúc với lời ghi chú, “cho những người đọc bảo hộ kinh này được hưởng công đức tinh thần”, trong khi ở một bản khác (S 2566) mang lời đề tặng “xin hồi hướng công đức cho toàn thể chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.” Sư Huệ Loan đã làm công việc sao chép bộ kinh này liên tục trong suốt 19 năm. Với một niềm tin tuyệt đối vào Bồ Tát, sư đã lặn lội suốt từ Hồ Bắc đến Đôn Hoàng trong một sứ mệnh duy nhất là phổ biến thần chú Đại Bi. Cho đến cuối đời Đường, cả bản kinh và bộ thần chú này đã được lưu hành rộng rãi cả trong giới tăng sĩ cũng như cư sĩ. Những bản kinh này do những người Phật tử thuần thành cúng dường ấn tống để hưởng công đức hoặc hồi hướng đến cho người khác. (Reis-Habito 1993:127-32).

Dưới đời Đường, những điều linh ứng do trì tụng Thần Chú Đại Bi đã thấy được xuất hiện trong những tuyển tập chuyện ngắn. Quảng Dị Kỉ đã ghi lại năm truyện về Quán Âm trong đó có một truyện nói về sự linh nghiệm của Thần Chú Đại Bi đã được Dudbridge tóm tắt lại như sau:

Lý Hiền trì tụng thần chú Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm và nhờ đó mà có được năng lực trừ được con qủy gây bệnh sốt rét. Trong khi Hiền vắng nhà, bà chị bị lâm bệnh (sốt rét) qua đời nhưng sau đó đã sống lại. Bà kể lại rằng mình đã bị đám âm binh hành hạ tại nghĩa trang và rồi chúng nhận ra rằng bà là chị của Hiền nên rất sợ bị trả thù, nhờ vậy bà đã được chúng cho hồi sinh trước khi Hiền trở về nhà. (Dudbridge 1995:182)

Bởi vì nhân vật chính ở trong câu chuyện này không phải là một tăng sĩ, nó cho ta thấy một điều rằng, ngay cả một người bình thường vẫn có thể nhận thức được năng lực của thần chú và biết cách vận dụng nó. Công năng hàng ma phục qủy là một trong những lợi ích được hứa hẹn đến ở trong bản kinh. Thật ra, hầu hết những câu chuyện linh ứng liên quan đến thần chú xảy ra dưới thời Tống đều đề cập đến năng lực này. Những người bình thường không những biết cách trì tụng thần chú mà một số người còn có thể gia trì thần chú vào nước biến chúng thành thuốc chữa bệnh như nhà sư Thần Trí đã làm được nói ở trên. Một số các mẫu chuyện linh ứng trong bộ sưu tập năm 1929 -được đề cập ở chương 4- đều nói đến năng lực của thần chú Đại Bi. Ngoại trừ câu chuyện thứ nhất nói đến một vị tăng thời Đường, tất cả còn lại đều xảy ra vào thời Tống. Sư Trí Giả (trùng pháp hiệu với vị tổ Thiên Thai) tục danh họ Vũ, nguyên quán tại Tràng Sa. Trước khi xuất gia là môt võ quan và rất thích săn bắn. Một hôm ông  bắt được một con rùa trắng và làm thịt để ăn. Chẳng bao lâu sau đó ông bị mụt nhọt nổi lên khắp người rồi lông mày, râu tóc, các ngón chân, ngón tay đều bị rơi rụng ra. Ông ở trong tình trạng đau đớn cùng cực và sắp chết đến nơi. Dĩ nhiên ông bị cho nghỉ việc và trở thành kẻ ăn mày lang thang đầu đường xó chợ. Trong khi ông ta đang đi xin ăn tại xứ An Nam (tức Việt Nam ngày nay), một nhà sư bắt gặp và cảm thấy thương xót, liền bảo: “Ngươi hãy nên sám hối và trì tụng Thần Chú Đại Bi mà ta sẽ dạy cho ngươi. Nếu ngươi siêng năng trì tụng, ngươi sẽ nhận được một phần thưởng xứng đáng. Nghe lời khuyên bảo đó, ông liền nhất tâm trì tụng thần chú. Lần hồi các mụn nhọt biến mất và các ngón tay liền mọc ra trở lại. Ông liền cạo đầu đi tu và trở thành một nhà sư (Quán Thế Âm Bồ Tát Linh Cảm Lục.)

Chuyện kể thứ hai nói về một người đã kết hợp việc trì tụng thần chú với niềm tin Tịnh Độ. Trương Cương là một học giả vào thời Tống đã lập nguyện trước tôn tượng Đức Phật là sẽ trì tụng 100,000 biến Thần Chú Đại Bi để được tái sanh về cõi Tịnh Độ. Đột nhiên ngã bệnh ở tuổi sáu mươi, ông liền nhất tâm niệm Phật và sau đó tập hợp toàn thể gia đình lại, bảo rằng, “Ta đã trông thấy cõi Tây Phương Tịnh Độ với Đức Phật A Di Đà đang ngự trên toà sen. Cháu nội ta, Vương Nhị (mất hồi mới lên ba) hiện đang qùy trên nền đất vàng đảnh lễ ngài.” Nói xong thì mất, trên miệng vẫn chưa dứt câu niệm Phật. (II:8)

Một câu chuyện khác liên quan đến nước được gia trì chú nguyện Đại Bi: Bà Vũ, phu nhân của Lữ Hồng, viên phó quan chức chưởng Bộ Hình là người tin tưởng tuyệt đối vào Bồ Tát Quán Âm và thường nhận được những điều linh ứng. Bà luôn giữ hàng chục chai nước trong một căn phòng tinh khiết. Tay cầm cành dương, bà đọc chú nguyện Đại Bi và thấy Bồ Tát Quán Âm hiện ra phóng quang vào những chai nước này. Những ai hay ốm đau bệnh hoạn nhờ uống nước này mà được bình phục. Điểm đặc biệt là những bình nước này để đến bao lâu cũng không bị hư hỏng và ngay cả không bị đông đặc lại thành đá vào mùa Đông. Người ta gọi bà là Bà Quán Âm (yuan chun). Hai tỳ nữ của bà cũng là những Phật tử Tịnh Độ thuần thành, một người đặc biệt rất khắc khổ, có khi nhịn ăn suốt cả tháng, chỉ uống mỗi ngày một tách nước được gia trì chú nguyện này. (I I:8)

Barrend J.ter Haar (1992) đã lưu ý đến sự thịnh hành của việc trì tụng chú, kinh điển và niệm danh hiệu các vị thánh thần trong bộ sưu tập truyện tích của Hồng Mai (1123-1202), Chuyện Được Nghe, kết tập vào năm 1198. Ông tìm ra bốn mươi chín câu chuyện về trì tụng thần chú và mười hai câu chuyện liên quan đến việc niệm các danh hiệu thánh thần. Trong số này 11 truyện nói về trì tụng thần chú Đại Bi và 7 truyện đề cập đến việc niệm danh hiệu Quán Âm. Trong truyện, thần chú được sử dụng 7 lần để xua đuổi ma quỷ và 2 lần để trị bịnh, còn danh hiệu của Bồ Tát được dùng trong 5 lần để trị bịnh. Bồ Tát Quán Âm đã xuất hiện trong hai trường hợp, một lần dưới dạng một nhà sư tay cầm tích trượng và bình tịnh thủy (III 1318) và một lần khác không diễn tả rõ nhân dạng  (III 1441); trong hai truyện khác Bồ Tát cũng đã xuất hiện như là một bà già trong y phục trắng (I:88,89) còn ở một truyện khác thì không nêu rõ phái tính. Trong số sáu mươi mốt trường hợp những người dự phần vào những hoạt động tín ngưỡng này, ba mươi bốn người là cư sĩ tại gia và hai mươi lăm người hoạt động trong lãnh vực tôn giáo như tăng sĩ, sa môn, v.v… Trong hai trường hợp còn lại, tính danh không được xác định rõ. (J.ter Haar 1992:19-20)

Đến thời Tống, những hiểu biết liên quan đến năng lực hàng ma phục qủy và chữa bệnh của Thần Chú Đại Bi đã lan rộng nhanh chóng. Mặc dù đôi khi giới tăng sĩ là người thực hiện năng lực này nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa rằng việc trì tụng thần chú chỉ giới hạn riêng cho họ. Tất cả mọi người, mọi giới, đàn ông cũng như phụ nữ hầu như đã trì tụng thần chú này trên căn bản thường xuyên. Bởi vậy mỗi khi sinh mệnh của họ bị hăm dọa, thần chú đã tự động phát huy năng lực gia hộ. Một số tin tưởng khác liên hệ với thần chú, cụ thể như năng lực chữa bệnh của nước được gia trì chú nguyện Đại Bi, hay do trì chú mà được tái sanh vào cõi Tịnh Độ cũng đã trở nên phổ biến. Tuy nhiên không có bằng chứng nào nêu lên cho thấy có người nào đã sử dụng đến những nghi qủy mật tông hay những cách thức được chỉ bày trong Thiên Thủ Kinh nhằm đạt đến những mục tiêu tâm linh hoặc giải quyết những vấn nạn trong đời sống. Thần Chú Đại Bi như thế đã hiện hữu một cách độc lập tách rời khỏi bộ kinh. Quần chúng có thể đã tin tưởng mãnh liệt vào Chú Đại Bi với năng lực tiêu trừ ma qủy mà không hề hay biết rằng thần chú này đã có liên quan đến Bồ Tát Quán Âm. Chính đại sư Trí Lễ  là người, khi soạn ra sám pháp, đã đưa thần chú vào một khung cảnh tâm linh và cung cấp cho ta một mối liên hệ lâu dài và sâu xa giữa thần chú, mười lời nguyện về cứu độ phổ quát của Bồ Tát Quán Âm và những hiệu quả lành mạnh của một sự sám hối đích thực. Cũng cùng một tiến trình như vậy, bằng cách xây dựng nghi lễ trên căn bản học thuyết cứu độ của Thiên Thai tông, đại sư Trí Lễ đã kết hợp một nghi lễ mật tông vào truyền thống này. Ngài đã cho ta một nền tảng mang màu sắc Thiên Thai trong việc trì tụng chân ngôn. Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara như thế đã được hoá thân thành một Đại Bi Quán Âm.

 

Nghi Thức Tiến Hành Đại Bi Sám Pháp

của Ngài Trí Lễ

Theo Maria Reis-Habito, mối liên hệ khá rõ ràng đầu tiên về việc trì tụng Chú Đại Bi như là một hành vi sám hối được tìm thấy trong thời khoá nhật dụng của Thiền sư Trí Giác, tức Vĩnh Minh Diên Thọ (904-976). Trong Trí Giác Thiền Sư Tự Hành Lục do sư Văn Trùng (Sung) kết tập, đã liệt kê ra 108 công việc mà thầy mình thực hiện hàng ngày, trong đó điều số 9 nói rõ, “Tụng thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Thần Chú sáu lần mỗi ngày để tiêu trừ các tội lỗi của tất cả chúng sanh trong Pháp Giới gây ra bởi lục căn.” Điều 70 cũng nhắc đến thần chú này: “Vào buổi tối, đốt hương cho tất cả chúng sanh trong mười phương và trì tụng Chú Bát Nhã (thần chú trong Tâm Kinh) cùng Chú Đại Bi. Nguyện cầu cho họ thấu suốt tâm mình để đạt đến tình trạng viên mãn, sáng suốt như trí tuệ bát nhã” (HTC 111:155b, 161a; Reis-Habito 1991:43-44). Đây là những mối liên hệ khá thích thú vì cho ta thấy những bằng chứng quan trọng rằng ngài Diên Thọ là một người tin tưởng vào việc trì tụng thần chú Đại Bi và đã sử dụng thần chú này trong bối cảnh của một cuộc sám hối phổ quát. Chắc chắn Thiền sư Diên Thọ là một nhân vật tăm tiếng đối với ngài Trí Lễ, đang hành hoạt trong cùng một khung cảnh địa lý và vẫn còn tại thế khi sư Trí Lễ bước vào tuổi thanh niên, thế nên một điều hoàn toàn khá hợp lý là việc làm của ngài Diên Thọ đã gây cảm hứng cho sư Trí Lễ trong việc tin tưởng và thiện cảm  đối với  Chú Đại Bi.

Tuy nhiên ngài Diên Thọ đã không soạn ra nghi thức cho việc trì tụng thần chú. Chính ngài Trí Lễ đã làm công việc này. Động cơ nào đã thúc đẩy sư Trí Lễ áp đặt một khuôn khổ Thiên Thai lên một cuốn kinh mật tông, Thiên Thủ Kinh? Mặc dù chúng ta đã không tìm thấy một văn bản nào của ngài Trí Lễ liên quan về vấn đề này, nhưng tạm thời có thể đưa ra lời lý giải căn cứ trên những điều mà chúng ta được biết về thái độ của triều đình đối với Phật giáo trong giai đoạn này. Ngài Trí Lễ đã sống ở một thời kỳ đang có sự bảo trợ mạnh mẽ của triều đình trong việc phiên dịch những kinh sách mới. Hoàng Đế Thái Tông đã cho thiết lập ba sảnh đường để phiên dịch kinh sách tại Thái Bình Hưng Quốc Tự vào năm 980, và hai năm sau đó đã chính thức cho thành lập một văn phòng phiên dịch kinh sách Phật giáo. Vua là người kế tục công việc khôi phục lại những công trình dịch thuật kinh điển Phật giáo mà vương triều nhà Ðường đã bảo hộ trước đây vốn đã bị suy sụp kể từ năm 810. Cho đến khi văn phòng này bị giải thể vào năm 1082, trong hơn 100 năm, những hoạt động dịch thuật đã lên đến cao điểm với 259 cuốn kinh gồm 727 phẩm đã được dịch sang Hán văn, chỉ đứng hàng thứ hai sau kỷ lục dưới thời Ðường. Thiên Tức Tai, người phiên dịch cuốn Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh (cuốn kinh đã nâng vị trí của Quán Âm như là một nhân vật sáng tạo vũ trụ được đề cập đến trong Chương 2), là một trong số những tăng sĩ ngoại quốc tham gia vào những công trình dịch thuật này.

Hoàng Ðế Thái Tông đồng thời cũng đã phái những tăng sĩ Trung hoa đi đến tận Tây Vực để tham cứu Phật pháp. Ðã có những sự tiếp xúc giữa nhà Tống Trung quốc và Ấn Ðộ trong bốn thập niên cuối của thế kỷ thứ 10 và nửa đầu thế kỷ thứ 11 (Jan 1967 :135 ; Huang 1990, 1995). Jan Yun-hua đã nêu rõ rằng một số lượng lớn kinh sách được dịch thuật trong giai đoạn này thuộc truyền thống mật tông. Việc lựa chọn loại kinh điển này cũng như việc triều đình sủng ái Thiên Tức Tai và các tăng sĩ Mật tông truyền giáo có vẻ như đã gây nên một vài chống đối trong giới tăng sĩ bản xứ. Hoa Nghiêm, Pháp Tướng Tông và Luật Tông vốn đã được triều đình sùng mộ kể từ thời Ðường, thế nên để bảo vệ những lợi quyền của truyền thống mình, những tăng sĩ thuộc các tông phái này có thể đã không nhìn vào hướng phát triển mới này với tất cả thiện cảm (Jan 1967 :136-38 ; 140-42). Tán Ninh (919-1001), tác giả Tống Cao Tăng Truyện đồng thời cũng là một học giả của Luật Tông, người chứng kiến những chiều hướng phát triển này, có thể đã bày tỏ quan điểm phe phái của mình một cách gián tiếp khi lên tiếng than phiền về việc thiếu kém những bậc tăng tài trong truyền thống Mật tông đương thời khi viết về tiểu sử của ngài Bất Không Kim Cương (Tsao 1990 :149-51) :

 

Ý Kiến [của Tán Ninh] : Xét về mặt truyền thừa giáo pháp Mật tông, Trung Quốc xem ngài Kim Cương Trí là vị tổ khai sáng, Bất Không Kim Cương là đệ nhị tổ và Huệ Lãng là đệ tam tổ. Sau những vị này, người ta có thể trông chờ những sự đổi thay, hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn. Gần đây, có rất nhiều chi phái xuất hiện, tất cả đều tự nhận rằng mình đã được truyền thừa đại giáo pháp của Dư giáo (Mật tông). Với một số lượng đông đảo các vị thầy Mật tông hiện nay, tại sao không có vài người cho thấy được những quyền năng? Phải chăng giống như [một câu truyện cổ tích nói về] những loài biết bay được gọi là dư giáo đẻ ra những con rồng, những con rồng sinh ra loài phượng hoàng rồi không lâu sau đó những con phượng hoàng chỉ sinh ra những bầy gà. Chúng ta có hy vọng gì tránh khỏi những đổi thay này không? (T 50 :714a ; Tso, 149).

 

Mặc dù vào thời Tống sơ, Thiên Thai Tông và Thiền Tông chưa được phổ biến lắm ở triều đình và do đó vị thế của họ không hề bị hăm dọa do việc triều đình sủng ái Mật tông, tuy nhiên có thể không phải là chuyện ngẫu nhiên mà Trí Lễ và người pháp hữu của mình, Tuân Thức đã soạn ra và bổ khuyết những nghi lễ sám hối đặt căn bản trên những bộ kinh tuyên xưng Bồ Tát Quán Âm. Với việc sử dụng khuôn khổ nghi thức của Thiên Thai tông cho những nghi lễ mật tông này, họ đã không hề làm công chuyện cạnh tranh với mật tông mà thật sự ra là đã Hán hoá truyền thống này. Tuy nhiên cùng một lúc với việc đưa một số phương thức hành trì mật tông -chẳng hạn như trì chú- vào dòng chính của Phật giáo Trung Quốc, họ cũng đã góp phần vào việc giúp cho Mật tông tồn tại ở Trung Hoa. Như một số học giả đã nêu rõ là, cho dù triều đình đã rất mực ủng hộ Mật tông dưới đời Ðường và các vương triều nhà Tống lúc ban sơ, điều này cũng đã không tạo được điều kiện để cho Mật tông có thể thâm nhập vào xã hội Trung Hoa. Người ta không thấy một sự ủng hộ cụ thể nào của giới trí thức cũng như quần chúng (Chou 1944-45 :246 ; Jan 1967 :142). Thế nên, nếu như không có Tuân Thức và Trí Lễ đã đưa một số yếu tố mật tông vào trong những nghi lễ mà họ sáng tạo, những cách thức hành trì Mật tông có thể đã hoàn toàn biến mất khỏi Phật giáo Trung Quốc. Tuy nhiên điều khá quan trọng mà chúng ta cần nhận thức rõ là, họ đã không bảo tồn Mật tông như là Mật tông mà thay vào đó đã bản xứ hoá nó bằng cách kết hợp với giáo thuyết và phương thức thiền quán của Thiên Thai tông.

 

Trí Lễ, Vị Thầy của Sám Pháp.

Ðại sư Trí Lễ, cũng giống như vị pháp hữu đương thời Tuân Thức, là những người tin tưởng nhiệt thành vào giáo thuyết và những phương thức thiền quán của Thiên Thai. Sư quê quán tại Triết Giang, trung tâm chính của Phật giáo Thiên Thai đời Tống. Hai vị tăng này là hai người bạn thân thiết mà cuộc đời của họ có những điểm rất giống nhau. Ngài Trí Lễ có tục danh là Kim, gia đình sinh sống tại Tự Minh (nay là thành phố Ninh Ba). Ðây là một gia đình hiếm muộn nên cha ngài cùng với vợ đã cầu nguyện với Ðức Phật để xin được cứu giúp. Thế rồi một đêm ông ta nằm mơ thấy một vị tăng Ấn Ðộ mang đến cho mình một đứa bé và bảo rằng, « Ðây là La Hầu La, con trai của Ðức Phật ». Chẳng bao lâu sau đó thì bà vợ thụ thai. Khi Trí Lễ ra đời, ông liền được đặt tên này. Lúc lên 7 tuổi thì mẹ ngài qua đời và ngài đã không ngừng than khóc rồi xin với cha được đi tu. Ngài thọ giới đàn năm 15 tuổi và ban đầu tu học theo Luật tông. Tuy nhiên vào năm 979, khi lên 20 tuổi, ngài bắt đầu nghiên cứu giáo lý Thiên Thai và theo tu học cùng với ngài Bảo Vân. Mặc dù đã xuất gia, nhưng mối liên hệ giữa hai cha con ngài Trí Lễ vẫn rất chặt chẽ. Trong năm tiếp theo, người cha lại nằm thấy một giấc mơ khác về đứa con trai mình. Trong giấc mơ này, ông thấy ngài Trí Lễ đang qùy trước thầy mình, Bảo Vân, người đang cầm một chai nước đổ vào mồm người con. Từ đó trở đi, ngài Trí Lễ thông suốt toàn bộ giáo lý của Thiên Thai tông. Và kể từ hai mươi hai tuổi, ngài đã thường lên tòa giảng để thay thế thầy giảng pháp.

Vào năm 984 thì Tuân Thức tìm đến núi Thiên Thai để học đạo với sư Bảo Vân. Ngài Trí Lễ đã xem Tuân Thức như là một người bạn chân tình và đối đãi như anh em ruột thịt. Vào năm 1000, một cơn đại hạn hán đã bao trùm trên toàn huyện hạt. Ngài Trí Lễ và Tuân Thức liền cho thực hiện Kim Quang Minh Sám Pháp để cầu mưa (một nghi lễ dựa trên Kinh Kim Quang Minh, Survarna –prabhasa Sutra). (5) Trong dịp này, ngài đã phát nguyện sẽ cúng dường một cánh tay mình lên Ðức Phật nếu như trong vòng 3 ngày mà trời không mưa. Tuy nhiên trời đã mưa xuống trước kỳ hạn này. Viên thứ sử sở tại, Su-Chi (987-1035), đã vô cùng cảm kích nên đã viết lại câu truyện về phép lạ này đồng thời cho khắc lên bia đá để lưu lại cho hậu thế (Getz 1994 :67). Vào năm 1016, ở tuổi năm mươi bảy, ngài Trí Lễ phát nguyện rằng sẽ thực hiện Liên Hoa Sám Pháp trong ba năm liên tiếp và sau khi hoàn tất sẽ tự thiêu để cúng dường thân xác mình cho bộ kinh mầu nhiệm này cùng với hy vọng được thác sanh vào cõi Tịnh Ðộ. Năm sau, 1017, ngài triệu tập đồ chúng lại và dạy bảo rằng, «Có người đã hy sinh cả thân mạng mình cho nửa bài kệ hay tự thiêu để cúng dường cho một câu kinh (Diệu Pháp Liên Hoa). Ðó là vì cái tâm của bậc thánh nên dâng hiến trọn vẹn cho Phật pháp. Ta nay muốn hy sinh thân mạng mình và cúng dường thể xác này để cảnh tỉnh những kẻ biếng lười» (Tứ Minh Hành Giáo Lục 1, T 46 :858a). Ngài đã đi đến một thoả thuận với mười vị tăng khác cùng thực hiện dự án 3 năm này. Thế nhưng khi kế hoạch tự thiêu này được tiết lộ, nhiều người đã cầu khẩn ngài từ bỏ ý định trong đó kể cả Tuân Thức, nhà hàn lâm Dương Ức, viên tổng đốc Li I-keng, cũng như vị phò mã đương triều Lý Tuân Hsu. Cuối cùng ngài và mười vị tăng kia chấp thuận lời thỉnh cầu và họ đã thực hành Ðại Bi Sám Pháp trong ba năm để thay thế việc tự thiêu như kế hoạch ban đầu. Mặc dù người ta đã ngăn được ngài thực hiện lời nguyện này, tuy nhiên được biết là sau đó đại sư Trí Lễ cũng đã đốt ba ngón tay của mình để cúng Phật. (T 46 :858c).

 

Ngài Trí Lễ sẵn sàng hy sinh cánh tay mình để cứu nạn hạn hán và sau đó phát nguyện tự thiêu để tuyên xưng kinh Diệu Pháp Liên Hoa rõ ràng không phải là một thí dụ đơn lẽ, nhưng là một biểu trưng của một niềm tin tôn giáo thịnh hành đương thời. Tuân Thức được biết cũng đã có những ý định tương tự. Tự thiêu hay tự hủy hoại một phần thân thể mình là một kiểu cách rất phổ biến để bày tỏ đức tin tại Trung hoa trong thời trung cổ, từ lâu đã là một khía cạnh quyến rũ đối với các nhà học giả nghiên cứu tôn giáo (Gernet 1960 ; Jan 1965). Mặc dù trước ngài Trí Lễ không thiếu gì những vị tăng sĩ đã tự thiêu hay hy sinh huỷ hoại một phần thân thể mình để bày tỏ đức tin đối với kinh Pháp Hoa, nhưng trong trường hợp của ngài Trí Lễ và Tuân Thức, hành động này không phải chỉ đơn thuần biểu lộ niềm tin tôn giáo, mà đồng thời động cơ thúc đẩy còn là ước muốn mang lại phúc lợi cho chúng sanh. Dĩ nhiên, đây là một phương thức cổ điển để thực hành Bồ Tát Ðạo như đã từng được tuyên xưng trong các câu chuyện của Tiền Thân hay Thí Dụ Kinh (Jataka & Avadana). Một thí dụ gần với thời đại và địa phương nhất là trường hợp tự huỷ thân thể với ý nguyện cao đẹp của Lưu Bản Tuân (844-907), người sau này đã được Triệu Trí Phong (1159-1249 ?) tôn xưng như là ngũ tổ của Mật tông  Trung quốc.

 

Trong những nỗ lực hoằng truyền chánh pháp của Triệu Trí Phong, những bức tranh miêu tả hành động tự hy sinh tột bực của Lưu đã được khắc vào vách đá tại ba nơi khác nhau ở Tứ Xuyên. Một ở động Tì Lô Xá Na và hai chỗ khác trên núi Bảo Đính, cạnh suối Đại Phật (địa phận Ta tsu) (6), những cảnh miêu tả việc tự hủy thân của Lưu cùng với lời dẫn giải hiện vẫn còn tồn tại. Được biết dưới tên gọi “Thập Luyện Đồ” người ta thấy cảnh Lưu đốt cháy ngón tay trỏ của bàn tay trái vào năm 886, đốt nhang trên bàn chân trái mình vào năm 937, tự móc mắt phải và cắt tai trái vào năm 939, cùng bốn hành động khác xảy ra vào năm 940 gồm để một cây đèn cầy đang cháy trên phía trái tim cùng năm cây hương trên đỉnh đầu, tự chặt đứt cánh tay trái, và bó vải được nhúng sáp vào bộ phận sinh dục rồi đốt cháy trong một ngày một đêm; và cuối cùng để  những cây hương đang cháy trên hai đầu gối của mình vào năm 941 (7). Lưu đã nhận chịu tất cả sự hành xác này với ý nguyện là để giúp đỡ cho những kẻ khác mà danh tính của họ đôi khi đã được xác định. Mặc dù chúng ta không có cách nào để tìm hiểu xem liệu các ngài Trí Lễ và Tuân Thức có hay biết gì về Lưu, hoặc những hành động của Lưu có được kiểm chứng qua sử liệu hay không, truyền thống  nối kết việc tự hủy các bộ phận thân thể với lòng từ bi, quan tâm đến phúc lợi của xã hội hiện vẫn còn rất quyến rũ và tiêu biểu cho một kiểu mẫu tín ngưỡng Phật giáo phát xuất kể từ đời Tống.

 

Như đã trình bày ở trên, Trí Lễ giống như người pháp hữu của mình, Tuân Thức, đã được biết đến như là “Bậc Thầy về Sám Pháp”, là một người rất mực trung thành về những nghi lễ sám hối của phái Thiên Thai. Kể từ năm 999, ngài đã dành trọn thời gian của mình để thực hiện các pháp hội sám hối hoặc thuyết pháp mà không hề rời khỏi chùa đến nửa bước. Ngài đã thực hiện cả thảy 5 lần hai-mươi-mốt-ngày Liên Hoa Sám Pháp, 20 lần bảy-ngày Kim Quang Minh Sám Pháp,  50 lần bảy-ngày A Di Đà Sám Pháp, 8 lần bốn-mươi-chín ngày Thỉnh Quán Âm Sám Pháp, và 10 lần hai-mươi-mốt-ngày Đại Bi Sám Pháp. Thêm vào đó chưa kể đến ba năm Liên Hoa Sám Pháp và ba năm liên tục thực hiện Đại Bi Sám Pháp như đã được đề cập đến trước đây. (8)

 

Việc ngài Trí Lễ quan tâm nồng nhiệt đến vấn đề nghi lễ, kể cả việc soạn ra bộ Đại Bi Sám Pháp, phải nên được nhìn và hiểu thông qua quan điểm giáo thuyết của ngài trong cuộc tranh chấp nội bộ về giáo lý giữa hai phái Sơn Gia và Sơn Ngoại của Thiên Thai Tông xảy ra vào đời Tống. Ngài Trí Lễ được xem như là người đại biểu chính thức của phái Sơn Gia mà đối với ngài, câu nói nổi tiếng “ba ngàn thế giới chứa trong một sát na của niệm” là một thực tế. Bồ đề và phiền não chẳng khác gì nhau, thanh tịnh hay nhiễm trước cũng thế, tất cả đều hàm chứa trong mỗi con người. Tuy nhiên không giống với phái Sơn Ngoại và những môn nhân đệ tử của Thiền tông, những người luôn nhấn mạnh đến bản chất hư vọng của vô minh, ngài Trí Lễ đã xem cái xấu ác và bất tịnh là những gì rất thực mà người tu cần phải đối đầu. Nghi lễ sám pháp vì thế đối với ngài rất quan trọng. Và cho dù phiền não cũng như trí tuệ  không thể bị tiêu trừ đi trong ý nghĩa tối hậu, tuy nhiên thông qua thực hành tu tập, con người có thể thay đổi được cục diện. Như chúng ta sẽ thấy trong Đại Bi Sám Pháp do ngài Trí Lễ soạn, mặc dù ta không thể loại trừ được điều xấu ác trong con người mình, nhưng bằng sám hối và nhận diện chúng với Bồ Tát Quán Âm thông qua quán tưởng, ta có thể làm ngưng điều ác và hoạt hoá trí huệ, mà cả hai vốn đã có sẵn trong ta từ thuở ban sơ. Như thế, trong sám hội ta “đóng vai” Quán Âm chung cuộc ta có thể hy vọng hành động thực sự như một vị bồ tát.

 

Vào năm 1021 lúc đại sư Trí Lễ được sáu mươi hai tuổi, vị hoàng đế đương triều đã yêu cầu ngài thực hiện một Liên Hoa Pháp Hội trong ba ngày đêm để cầu cho quốc thái dân an. Do thỉnh cầu của vị hoạn quan cầm đầu nội cung, Du Nguyên Thanh, ngài đã soạn ra cuốn “Tu Sám Yếu Chỉ”, qua đó đã giải thích ý nghĩa của mười bước liên tục trong nghi lễ sám pháp Liên Hoa Tam Muội. Bởi vì bộ Đại Bi Sám Pháp của ngài cũng đã được mô phỏng từ nghi thức này, việc tìm hiểu nội dung của cuốn sách sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong việc nhận thức quan điểm tổng quát của ngài Trí Lễ đối với những nghi lễ sám hối. Cuốn sách này vì thế là một tài liệu rất quan trọng. Trước tiên ngài đã lược kê ra mười bước thực hiện Liên Hoa Sám Pháp như sau:

1)      Trang nghiêm và thanh tịnh hoá nơi hành lễ,

2)      Thanh tịnh bản thân,

3)      Tịnh tam nghiệp,

4)      Thỉnh Tam Bảo,

5)      Cầu nguyện Tam Bảo,

6)      Đảnh lễ Tam Bảo,

7)      Sám hối lục căn, cùng với bốn loại sám hối khác [nguyện cầu Đức Phật, tuyên xưng công đức, hồi hướng công đức và phát nguyện],

8)      Đi nhiễu quanh bàn thờ,

9)      Đọc kinh,

10)  Tọa thiền và chánh quán thật tướng. (T 46 :868a-870b)

Trong khi vẫn đi theo đúng những bước truyền thống mà tổ Trí Giả đã vạch ra, ngài Trí Lễ đã gom phần tọa thiền và chánh quán thật tướng vào một bước duy nhất vì tin tưởng vững chắc vào việc đưa tất cả những nghi lễ hiện tượng (sự) vào trong quán tưởng sâu xa về nguyên lý (lí).

Ngài Trí Lễ đã mở đầu phần nghị luận với việc giảng thuyết về ý nghĩa và những phương pháp sám hối  đồng thời đưa ra lời chú giải về từng bước trong tiến trình nghi lễ, dài nhất là các bước thứ (7) và (10). Đặt căn bản trên giáo lý Thiên Thai, ngài Trí Lễ đã phân biệt ra ba loại sám hối: sám hối qua những động tác trong nghi lễ (tác pháp sám), sám hối bằng cách nắm bắt một hình tướng của Phật hay bồ tát (thủ tướng sám), và sám hối bằng cách quán tưởng về vô sanh (vô sanh sám). Loại sám hối thứ nhất liên hệ đến việc thực hiện những hoạt động về thân và khẩu theo đúng những quy điều và cách thức tiến hành đã được quy định. Loại sám hối thứ hai liên hệ đến việc quán tưởng với sự tập trung tâm cao độ cho đến khi trông thấy được hình tướng của một vị Phật hay bồ tát. Và cuối cùng là loại sám hối được xem như quan trọng nhất, được ngài Trí Lễ giải thích như sau :

Phải nên hiểu rằng tâm của ta nguyên thủy là trống rỗng không tội cũng không phước vốn có một ông chủ. Khi ta quan sát rõ cái hình tướng thật của nghiệp báo và thấy được gốc nguồn của tội lỗi, ta nhận thức được rằng Pháp Giới đã được hợp nhất một cách tuyệt hảo và cái như thị chân thật đó thật là tinh khiết và trong sáng. Mặc dầu có đến ba phương pháp sám hối, chúng được thực hiện một cách đồng bộ. Người ta có thể giảm nhẹ cái trước nhưng không bao giờ được loại bỏ cái sau. Cái vô sanh là quan trọng nhất, trong khi phép quán tưởng hình tướng tương đối ít quan trọng hơn. Sở dĩ như vậy là vì giáo lý về diệu quán đứng hàng đầu trong tất cả những giáo lý của Đại thừa. Sự tiêu trừ tội lỗi cũng giống như thí dụ của cỏ và cây héo úa khi đất bị cày lên. Sự biểu hiện của hạnh đức cũng giống như thí dụ của muôn ngàn hình tướng được phơi bày ra một cách toàn diện khi giòng sông được chiếu sáng. Ta nên dùng phép quán sâu xa về nguyên lý (lí quán) để soi sáng việc thực hiện mặt nghi lễ hiện tượng (sự nghi). Hiểu biết như vậy thì mỗi cái qùy lạy, mỗi vòng đi nhiễu sẽ làm tiêu trừ tội lỗi của không biết bao nhiêu a tăng tỳ kiếp, và việc cúng dường mỗi cây đèn mỗi giọt nước sẽ tạo ra vô vàn phước báu lớn như cõi hư không. Thế nên một khi dùng lời để nhận những tội lỗi gây ra bởi sáu căn, ta nên nhớ phải thực hiện cả ba cách sám hối. Khi tâm của ta ở trong một tình trạng được tập trung như thế, chỉ lúc đó ta mới có thể thực hành nghi lễ Liên Hoa Tam Muội (HTC 100:905a) (9).

 

Ngài Trí Lễ đồng thời cũng đã đưa ra những lý giải sâu xa hơn về việc sám hối và phép quán tưởng về thật tướng, tức là bước thứ bảy và thứ mười trong Liên Hoa sám pháp :

 

Việc đầu tiên khi ta thực hành sám hối được gọi là phơi bày tội lỗi. Tại sao như thế? Thì cũng giống như rễ của cỏ cây héo úa khi bị phơi bày ra nhưng sẽ sum sê lớn mạnh khi được che đậy, tương tự như vậy, rễ của điều thiện nên được che lại để cho tất cả mọi thiện hành có thể lớn dậy, thế nhưng rễ của điều ác nên được phơi bày ra để cho tất cả mọi ác hành có thể bị tiêu diệt. Thập-tâm lội theo dòng và lội ngược dòng (nghịch thuận thập tâm) dẫn đến hai bến bờ của vô minh và giác ngộ. Khi một người bị vô minh che lấp thực tại và tạo nên ác nghiệp, thập-tâm trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi đi ngược lại con đường dẫn đến niết bàn. Khởi đi từ vô minh vô thủy, dục vọng và tà kiến trổi dậy dẫn dắt con người đến tình trạng của một nhất-xiễn-đề (icchantika). (10) Lìa bỏ niềm tin vào luật nhân quả, con người sẽ mãi đắm mình lặn hụp trong biển sinh tử không còn hy vọng có ngày được thoát ra. Thế nhưng bây giờ ta có được cơ duyên hiếm hoi biết đến Tam Bảo, ngay bất cứ lúc nào khởi lên được một niệm về chánh tín, ta có thể chỉnh lưu quá khứ và vun trồng tương lai bằng cách phát khởi thập-tâm hướng đến niết bàn, đi ngược lại dòng luân hồi sinh tử. (11) Bắt đầu với niềm tin sâu xa vào luật nhân quả, ta sẽ đạt đến thực chứng viên mãn rằng bản chất của tâm vốn tịch tĩnh. Mỗi một thập-tâm trước đây sẽ bị lật nhào và tiêu hủy. Nếu ta không hiểu được cái thập-tâm cũ, ta cũng sẽ không hiểu được tại sao tội lỗi được tạo ra. Nếu ta không hiểu được cái thập tâm mới sau này, ta không thể nào thực hành được việc sám hối. Một cách tóm tắt: bản tánh của tất cả tội lỗi không khác với bản tánh của thực tướng. Thập ác, ngũ nghịch, tứ ba-la-di giới và bát tà đạo (trái ngược với bát chánh đạo) tất cả đều là những cánh cửa pháp về nguyên lý của độc (lí độc) cũng như là những chức năng nguyên thủy của bản tánh bị nhiễm trước (tính nhiễm). Một người đạt được sự thực chứng này thì được gọi là người thực hành sám hối (năng sám). Đồng thời cũng được gọi là  quán sát sâu xa về hiện tượng (sở quán). Mê và ngộ nguyên thủy vốn không hai. Lí và sự cuối cùng vẫn là một. Một khi mà cái ngăn che và cái bị ngăn che cả hai được mang đến điểm tột cùng, cái sám hối và cái được sám hối đều cùng được quên đi, ta không làm gì cả  mặc dù ta thực hành tinh tấn mỗi ngày. Điều này được gọi là Vô Tội Tướng Sám Hối và cũng còn được gọi là Đại Trang Nghiêm Sám Hối hay Tối Thượng Đệ Nhất Sám Hối. Ta nên đi vào sự quán tưởng về nguyên lý vô sanh này như là vị chủ lễ và việc thực hiện các nghi lễ điều hợp các điều kiện. (T 46 :869a-b).

 

Ngài Trí Lễ đã gọi bước thứ mười và cũng là bước cuối cùng trong Liên Hoa Tam Muội Sám Pháp là “phương pháp tọa thiền và chánh quán về thực tướng”, xem đó như là mục tiêu tối hậu của toàn bộ nghi lễ. Ngài đã liên hệ đến phần này như là “chánh tu” bởi vì hành giả hoàn toàn tập trung quán tưởng về lí, trong khi mà cho tới điểm này, mặc dù lí đã bị lôi cuốn vào (để cho tâm của một người đã trở nên tập trung để có thể thấy được lí-sự viên dung), cái “sự tu” -hiện tượng tu tập- mới là mối quan tâm ngay chính lúc này của hành giả. Nhưng làm thế nào để một người thực hiện việc quán tưởng? Theo ngài Trí Lễ, cái này được gọi là “quán môn”:

 

Đây là buông bỏ ngoại giới cho nội giới, đi tìm kiếm cái tâm và  loại trừ mọi sắc tướng. Không nên tìm kiếm bất cứ một pháp nào khác và xem đó như là điều kiện để tu tập. Chỉ quan sát [và quán tưởng] vào cái niệm hiện tại này mà ta đang có. Cái niệm vi tế nhất chợt thoáng qua mới đúng là cái quan trọng nhất. Tại sao ta vứt bỏ cái niệm hư vọng này để đi tìm cái Như Thị? Ta nên quan sát cái nhất niệm này như là vô hạn trong cái dụng và vô tận trong cái thể của nó. Tất cả thập phương chư Phật, muôn loài chúng sanh, quá khứ, hiện tại, vị lai, hư không giới và tất cả sơn hà đại địa đều có mặt ở trong đó không một miễn trừ. Giống như một hạt châu trong võng lưới Đế Thích hay là một lượn sóng trong biển cả bao la. Sóng không hề có một bản thể nào khác mà là được hình thành bởi toàn thể đại dương. Bởi vì đại dương không giới hạn, cũng vậy sóng không có biên giới. Mặc dù một hạt châu rất là bé nhỏ, nó phản chiếu tất cả mọi hạt châu khác. Những phản chiếu của tất cả những hạt châu khác đều được chứa đựng trong một hạt châu. Thế nên nhiều hạt châu không phải là nhiều mà một hạt châu cũng không phải là ít. Cái nhất niệm mà ta đang có cũng tương tự như thế. Bản thể của nó xuyên suốt qua tam giới và tự tánh của nó tỏa rộng khắp mười phương. Không có gì là không được chứa đựng trong đó và không có gì là không do nó sinh ra... Bây giờ ta nên quan sát một chân lý rằng vạn pháp không khác gì Nhất Tâm, và Nhất Tâm không khác gì vạn pháp. Đừng bao giờ nghĩ rằng cái Nhất Tâm sinh ra vạn pháp, cũng như cái Nhất Tâm chứa đựng vạn pháp. Không nên thiết đặt sự phân chia nhị nguyên giữa cái trước với cái sau, hoặc chủ thể và đối thể. Mặc dù chúng ta nói đến vạn pháp, bản thể và đặc tánh của chúng nguyên thủy đều rỗng không. Mặc dù chúng ta nói đến Nhất Tâm, thánh và phàm đều được phân biệt. Phá tức là xây. Không có cái gì vừa hiện hữu vừa không hiện hữu. Ta cũng nên quên luôn cả ngoại giới lẫn quán chiếu nội tâm, và cắt lìa sự đối lập của cả hai. Bởi vì nó không thể diễn tả được bằng lời cũng như được khái niệm hoá bằng ý, nếu ta bị buộc phải gán cho nó một cái tên, ta muốn gọi nó là bất tư nghị diệu quán. Cái quán tưởng này không những chỉ  hủy diệt cái lớp vỏ bọc giới hạn ngoài cùng  của mọi tội lỗi, mà còn mở ra được nguồn suối sâu sắc nhất về lí. (T 46 :870a-b).

 

Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành  

Đại Bi Sám Pháp

Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào bản hướng dẫn thực hành Đại Bi Sám Pháp của ngài Trí Lễ một cách chi tiết. Trong Lời Tựa, ngài Trí Lễ có nói rằng mặc dù ngài đã thuộc nằm lòng Chú Đại Bi ngay từ hồi còn bé, nhưng đã không biết phải trì tụng như thế nào cho đúng phương pháp (trì pháp). Sau này, khi bắt đầu tu tập theo phương pháp thiền định của Thiên Thai và nghiên cứu cuốn kinh Thiên Thủ Kinh, ngài thấy rằng nó có thể phục vụ cho cả hai mục đích vừa khai mở trí huệ thông qua thiền quán (quán huệ) đồng thời thỏa mãn yêu cầu về việc thực hiện nghi lễ (sự nghi). Thế nên ngài đã soạn cuốn hướng dẫn này trước tiên là để cho chính mình dùng. Trong bốn cách phân loại thiền định của ngài Trí Giả thì loại này có thể được sắp xếp vào loại cuối cùng, không phải thiền hành mà cũng không tọa thiền, hay được gọi là Tùy Từ Ý thiền (giữ cho tâm luôn tỉnh thức bất cứ nơi đâu mà nó hướng đến). Sám pháp này được thực hiện trong 21 ngày và bao gồm 10 công đoạn:

 

1)      Trang nghiêm thánh hoá nơi hành lễ;

2)      Tịnh tam nghiệp (thân, khẩu, ý);

3)      Tạo cho mình một khu vực riêng biệt để hành lễ;

4)      Cúng dường phẩm vật;

5)      Thỉnh Tam Bảo và chư thiên;

6)      Cầu nguyện;

7)      Đảnh lễ;

8)      Phát nguyện và trì tụng chú;

9)      Sám hối;

10)  Thực hành quán niệm.

Như ta biết, ngài Trí Lễ đã dùng Liên Hoa Tam Muội làm kiểu mẫu cho sám pháp này. Tuy nhiên khi so sánh mười công đoạn trong sám pháp này với Liên Hoa Tam Muội, ta thấy ngài Trí Lễ đã thay thế việc đi nhiễu quanh bàn thờ và đọc kinh Pháp Hoa bằng đảnh lễ, phát nguyện và tụng chú Đại Bi.

Ngài Trí Giả trước đây đã phân biệt ra ba loại sám hối là tác pháp sám, thủ tướng sám, và vô sanh sám. Cuốn cẩm nang hành lễ của ngài Trí Lễ đã rút ra những yếu tố từ cả ba phương cách sám hối này. Để có thể có được một cái nhìn rõ ràng hơn về sám pháp của ngài Trí Lễ, ta hãy đọc nội dung một số đoạn  nói về nghi thức hành lễ do ngài soạn ra:

  1. Kinh dạy, “Người trì tụng chú nên ở nơi tịnh thất, treo phan đốt đèn, dùng hương hoa cùng các thức ăn uống để cúng dường.” Cuốn Thỉnh Quán Âm Nghi được lưu trữ trong Bách Lục tại chùa Quốc Thanh có nói, “Người trì tụng nên trang hoàng nơi hành lễ bằng cách rải đất thơm, treo phan che màn. Để một tôn tượng của Đức Phật quay mặt về hướng Nam và tôn tượng của Bồ Tát Quán Âm quay về hướng Đông.” Trong sám hội này, ta nên dùng hình tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara, hoặc Quán Âm 40 tay. Nếu không có  thì dùng hình tượng 6  tay hay 4 tay cũng được. Trong trường hợp không có các hình tượng trên, ta có thể dùng bất cứ hình tượng Quán Âm nào. Nếu không có hình tượng Quán Âm thì có thể dùng hình tượng của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hoặc Bồ Tát Phổ Hiền để thay thế. Mười hành giả nên ngồi trên nền nhà mặt quay về hướng Tây. Nếu mặt đất bị ướt hay nghiêng thì có thể ngồi trên ghế đẩu thấp. Phải cúng dường vật phẩm hàng ngày tùy theo khả năng. Nếu gặp khó khăn thì cố gắng cúng dường thật tốt vào ngày đầu tiên. Buổi lễ sẽ kéo dài trong 21 ngày. Không được rút ngắn lại.

  2. Tịnh hoá tam nghiệp. Cả Kinh lẫn Liên Hoa Tam Muội đều yêu cầu người tham dự sám hội phải tắm rửa, thay y phục sạch sẽ và luôn giữ gìn thân, ý. Ngay cả nếu không dơ cũng phải tắm rửa mỗi ngày. Trong suốt thời gian sám hội, không được nói chuyện vặt, không được tham dự vào việc giải trí vui chơi ngoài xã hội, hoặc lễ hội chúc mừng; không được suy nghĩ đến chuyện đời dù chỉ trong một giây phút mà phải luôn luôn hướng tâm theo đúng những lời dạy ở trong Kinh. Những lúc được nghỉ để ăn uống, tâm cũng phải được giữ trong tình trạng như vậy không được lơ là. Trở lại nơi hành lễ ngay lập tức khi xong việc, không được tìm cớ để la cà ở chỗ khác. Một điều cần thiết là nên hiểu rõ ràng về hành động của thân, cái gì được phép làm, cái gì bị cấm, lúc nào phải im lặng, lúc nào được tỏ bày ý kiến, dừng lại như thế nào và thiền quán cách nào.

  3. Trong ngày đầu tiên của sám hội, trước khi chính thức đảnh lễ, tất cả hành giả phải tạo cho mình một khu vực riêng và sẽ hành lễ trong phạm vi đó. Phạm vi của khu vực như thế có thể được phân ranh giới bằng dao kẻ, nước, hột cải trắng, tro sạch, chỉ ngũ sắc, hoặc cái gì có thể trông thấy được, sau khi đã được gia trì lên đó 21 biến chú Đại Bi như đã được quy định ở trong Kinh.

  4. Sau khi đã tạo cho mình một chỗ như vậy rồi, đứng trước tôn tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn và quán chiếu như thế này: Không có sự khác biệt ở thân và tâm giữa Tam Bảo cũng như toàn thể chúng sanh trong Pháp giới và chính mình. Những vị Phật là những đấng đã hoàn toàn giác ngộ, trong khi toàn thể chúng sanh vẫn còn đang sống trong mê mờ. Để cứu độ chúng sinh, con nay xin quy kính Tam Bảo để xoá đi những chướng ngại gây ra bởi vô minh từ bao đời. Với những quán chiếu này, tất cả mọi người đều qùy xuống. Vị sám chủ thực hiện nghi lễ niệm hương và đọc bài kệ :

Nguyện mây hương màu này

Khắp cùng mười phương cõi

Cúng dường tất cả Phật

Tôn Pháp, các Bồ Tát

Vô biên chúng Thanh văn

Và cả thảy Thánh hiền

Duyên khởi đài sáng chói

Trùm đến vô biên cõi,

Khắp xông các chúng sanh

Đều phát lòng Bồ đề

Xa lìa những nghiệp vọng

Trọn nên đạo vô thượng

  1. Trong khi đang qùy và niệm hương, hành giả nên tiếp tục quán chiếu như thế này, “Mặc dầu Tam Bảo đã được giải thoát khỏi mọi chướng ngại và đạt đến cõi tịnh, nhưng vì lòng từ bi vô hạn, nếu được cung thỉnh với tất cả tâm thành, các ngài sẽ đến cõi đời này để giải trừ khổ đau và ban bố hạnh phúc cho chúng sanh.” Nghi lễ sau đó được tiếp tục với công thức cung thỉnh bắt đầu với, “Nhất tâm đảnh lễ: Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,” và tiếp theo là Phật A Di Đà, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Phật, Chánh Pháp Minh Như Lai [Quán Âm], Đại Bi Chú, và tất cả các Bồ Tát, chư thiên, chư thần được đề cập đến trong Thiên Thủ Kinh.

  2. Không có kệ cầu nguyện ở trong bản kinh. Đây là lời nguyện được sáng tác ra cho bộ sám pháp này :

 

Kính lạy đời quá khứ,

Chính Pháp Minh Như Lai.

Chính là đời hiện nay,

Quán Thế Âm Bồ Tát,

Bậc thành công đức diệu,

Đủ lòng đại từ bi,

Nơi trong một thân tâm

Hiện ra ngàn tay mắt

Soi thấu khắp pháp giới

Hộ trì các chúng sanh

Khiến phát lòng đạo sâu

Dạy trì chú Viên Mãn

Cho xa lìa đường ác

Được sanh trước Như Lai

Những tội nặng vô gián

Cùng bịnh ác lâm thân,

Khó nỗi cứu vớt được

Cũng đều khiến tiêu trừ

Các tam muội, biện tài

Sự mong cầu hiện tại

Đều cho được thành tựu

Quyết định chẳng nghi sai

Khiến mau được ba thừa

Và sớm lên quả Phật

Sức oai thần công đức

Khen ngợi chẳng hay cùng!

Cho nên con một lòng

Quy mạng và đảnh lễ

 

Khi phát lời cầu nguyện đến Bồ Tát Quán Âm qua bài kệ này, ta phải thật thành tâm, và nếu cầu nguyện cho chính bản thân mình, phải có trí huệ để lời nguyện phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, ta không nên cầu cho mình được kéo dài thọ mạng. Nên nhớ rằng tâm của ta phải luôn hướng về phúc lợi của toàn thể chúng sanh. Chỉ khi nào ta tập trung và thành tâm, lời nguyện cầu mới được đáp ứng. Đừng bao giờ xem nhẹ việc này.

  1. Bởi vì bản chất của Tam Bảo là lòng từ vô lượng và luôn luôn muốn cứu vớt chúng sanh, ta phải nên tin rằng họ đang hiện diện trong sám hội này mặc dù mắt trần của chúng ta không thể trông thấy được. Thế nên bạn phải dâng hương,  đảnh lễ đầu cúi sát trên mặt đất với hết lòng tôn kính. Bất cứ lúc nào nghe đến danh hiệu của Thần Chú Đại Bi và Quán Âm, ta phải đảnh lễ ba lần. Các danh hiệu của chư thiên, chư thần thì không phải làm như thế.

 

Phần tiếp theo cũng là phần dài nhất là phát nguyện và trì tụng thần chú. Trong phần này, ngài Trí Lễ đã lý giải pháp hành riêng biệt của mình trên cơ sở của học thuyết Thiên Thai. Sau đó là đến phần xưng tội và sám hối. Buổi lễ được kết thúc khi người tham dự sám hội rời khỏi khu vực hành lễ riêng biệt của mình đi đến thiền đường để thực hành quán tưởng.

 

Khi chúng ta nghiên cứu những hướng dẫn của ngài Trí Lễ trong cuốn cẩm nang thực hành Đại Bi Sám Pháp, một điều khá rõ ràng là không những ngài đã dùng cấu trúc của Liên Hoa Tam Muội mà còn sử dụng cả nghi thức hành lễ của sám pháp này như một mẫu mực. Như đã được nêu ra trước đây, mặc dù ngài đã thay thế việc tụng kinh Pháp Hoa bằng trì chú Đại Bi, thế nhưng cái nền tảng thể hiện ra của sám pháp này vẫn được đặt căn bản một cách vững chắc trên hai điểm trọng yếu của Thiên Thai về hiểu biết giáo nghĩa và thực hành thiền quán. Cũng giống như ngài Trí Giả và Trạm Nhiên trước đây, ngài Trí Lễ đã khẳng định việc phối hợp giữa những động tác trong nghi lễ (sự) với việc quán tưởng về nguyên lý (lí), cũng như về ba loại sám hối mà qua đó tất cả các sám pháp của Thiên Thai được thiết kế để hoàn thành. Giống như “Thỉnh Đức Đại Bi” hoặc là những bản kinh chép tay rút ra từ Thiên Thủ Kinh được tìm thấy tại Đôn Hoàng, bản cẩm nang thực hành của ngài Trí Lễ đã xem nặng việc phát mười đại nguyện và trì tụng thần chú Đại Bi như là những chủ đề trung tâm của cuốn kinh. Tuy nhiên những lời nguyện này đã được ngài hoàn toàn hướng vào một lời chú giải nguyên thủy vận dụng những luật tắc về lý giải kinh điển rất tinh vi và phức tạp của Thiên Thai tông. Những lời nguyện vì thế không còn là những ước vọng đơn thuần của một người tín đồ thuần thành chất phác, mà trở thành những cánh cửa qua đó mười phương thức thiền quán căn bản có thể được thực hành.

 

Cũng tương tự như thế, khi dùng lối chú giải của Thiên Thai luận bình về “chín loại tâm” được gọi là “hình trạng và tướng mạo” của thần chú, ngài Trí Lễ đã làm cho cái ý nghĩa đáng suy gẫm của chúng trở thành cái bầu khí của toàn thể buổi lễ khi mỗi hành giả tham dự sám hội rút vào thiền quán một mình. Với cung cách này chẳng khác gì ngài đã chuyển hoá thần chú từ bùa chú thần bí trở thành một cửa ngỏ bước vào giác ngộ. Cũng theo ngài Trí Lễ, tình trạng nhất tâm mà hành giả đạt được hiện nay sẽ không khác gì với thực tại tuyệt đối trong đó bao gồm cả chư Phật và chúng sanh, chân lý và hư vọng, từ đây bất cứ cái gì một người nghĩ đến cũng đều trở nên vô cùng quan trọng. Từ luận lý này của ngài Trí Lễ, đi một bước xa hơn, nếu một người nghĩ đến Quán Âm và rồi ăn năn về tội lỗi của mình thì cũng giống như nói rằng bản tánh của hư vọng và bản tánh của trí tuệ đều luôn luôn là những thành phần trong một con người; nếu năng lực của cái sau tăng lên thì cái trước sẽ giảm xuống. Bởi vì “Quán Âm là bản tánh nguyên thủy của chúng ta”, như cách nói của ngài Trí Lễ, một điều hoàn toàn dễ hiểu là tại sao nghi thức sám pháp này có thể được dùng như là một phương tiện thiện xảo để chuyển hoá tâm linh. Và đó cũng là điều khá dễ hiểu tại sao ngài Trí Lễ lại soạn ra một bộ sám pháp mới đặt căn bản trên cuốn Thiên Thủ Kinh. Bởi vì bộ kinh này và đặc biệt là Thần Chú Đại Bi đã rất phổ biến dưới thời Tống, và bởi vì Bồ Tát Quán Âm đã được thờ phượng tại Trung Quốc hơn sáu trăm năm, quả là chuyện không có gì hợp lý hơn khi lấy một bộ thần chú quen thuộc và một vị Bồ Tát được mọi người yêu mến để biến thành những phương tiện trợ duyên cho sự cứu độ và giác ngộ của chúng ta? Tuy nhiên khi làm công việc này, ngài Trí Lễ đồng thời cũng đã rất thành công trong việc bản địa hoá một bộ kinh mật tông.

 

Như điều mà ngài Trí Lễ nêu rõ trong cuốn cẩm nang thực hành, Đại Bi Sám Pháp rất tiện ích cho tất cả mọi người, giới tăng sĩ cũng như cư sĩ, trí thức cũng như bình dân. Mặc dù nhấn mạnh đến tính cách quan trọng của thiền quán, ngài cũng đã tạo điều kiện thích hợp cho những ai không thể thực hiện được việc này. Bất cứ lúc nào mà một người có đức tin và trì tụng thần chú với tất cả tâm thành, ngài đảm bảo với họ rằng, họ có khả năng vượt qua những nỗi khó khăn trong đời sống và chắc chắn sẽ tái sanh vào cảnh giới Tịnh Độ, cũng như đạt đến sự phát triển tâm linh, kể cả  kinh nghiệm nhìn thấy được Bồ Tát.

 

Với những bằng chứng cụ thể, một điều hiển nhiên là Thần Chú Đại Bi đã rất phổ biến dưới thời ngài Trí Lễ. Tuân Thức được biết cũng là người tin tưởng mãnh liệt vào Thần Chú. Cụ thể như khi ngài đứng ra xây dựng sảnh đường Kim Quang Minh Sám  của chùa Thiên Trúc Hạ tại Hàng Châu, ngài đã tụng bảy biến thần chú mỗi khi một cái cột được dựng lên và mỗi viên gạch được đặt xuống (12). Hai trường hợp được nói đến trong Phật Tổ Thống Kỷ cho ta thêm vài thông tin về tính cách phổ thông của thần chú và Đại Bi sám pháp dưới thời Tống sơ. Sư Huệ Tài (997-1083), một đệ tử của ngài Tuân Thức, là một tín đồ thuần thành trong việc trì Chú Đại Bi. Lúc còn trẻ sư không được thông minh cho lắm và không thể nào hiểu được giáo lý Phật giáo. Thế rồi sư chuyên tâm trì tụng chú Đại Bi, luôn luôn cầu nguyện rằng mình sẽ được thông suốt giáo nghĩa của Thiên Thai. Một đêm sư nằm mơ thấy một vị tăng Ấn Độ rất cao lớn đến bảo, “Huệ Tài, ngươi nên ghi nhớ đến ta suốt cả đời ngươi!” Rồi vị tăng cởi áo cà sa của mình mặc vào cho sư. Sáng hôm sau, khi dự lớp học giáo lý, sư Huệ Tài bỗng nhiên hiểu hết tất cả những gì nghe được và từ đó trở đi thông suốt hết mọi giáo lý. Trong những năm về sau, sư sống gần tháp Lai Phong  ở Hàng Châu, mỗi ngày tụng 108 biến Thần Chú Đại Bi, cùng niệm danh hiệu Phật A Di Đà cả ngày lẫn đêm trong tư thế đứng với một chân (T 49 :215b-c).

 

Còn chuyện liên quan đến sám pháp không thể không nhắc đến trường hợp của sư Huệ Châu, người cùng thời và là một trong mười nhà sư tham dự ba năm Đại Bi Sám Hội cùng với ngài Trí Lễ vào những năm đầu của niên hiệu Thiên Thanh đời Bắc Tống (1023-1032). Việc ngài Trí Lễ hoàn tất ba năm dài sám hội vào năm 1020 chắc chắn là đã gây cảm hứng cho sư Huệ Châu theo gót, và đồng thời sư cũng đã thực hiện một sám hội ba năm về Bồ Tát Phổ Hiền với mười bốn tăng sĩ đồng môn khác. Lúc khởi đầu sám hội này, sư đã lập nguyện trước tôn tượng của Bồ Tát rằng nếu sám hội hoàn thành viên mãn, sư sẽ tự thiêu để cúng dường. Sám hội kết thúc, sư Huệ Châu đã giữ tròn lời nguyện, ngồi một cách thanh thản giữa ngọn lửa cháy trong dàn củi do nhà chùa và những người Phật tử thuần thành mang đến (T 49 :216b).

 

Đại Bi Sám Pháp có được thực hiện thường xuyên và việc trì tụng Chú Đại Bi có nằm trong nhật khoá của thiền môn dưới đời Tống như bây giờ hay không? Cuốn sách sớm nhất ghi lại luật tắc ở chùa chiền còn tồn tại là cuốn Thiền Uyển Thanh Quy do Trương Lô Tông Trách kết tập vào năm 1103 đã không cho thấy điều đó. Trong suốt cuốn sách, chỉ có một câu hỏi duy nhất liên quan đến Đại Bi Quán Âm là câu hỏi số 21, “Bạn có thể giống được như Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn hay không ?”. Đây là một trong số “Một Trăm Hai Mươi Câu Hỏi” mà một hành giả Thiền tông nghiêm chỉnh phải tự nêu lên để xét mình hàng ngày (Yu 1989 :101). Có thể điều này liên hệ đến nhu cầu thiết tha sống theo tiêu chuẩn đặt ra cho một vị bồ tát. (13)

 

Việc trì tụng Chú Đại Bi trong những trường hợp đặc biệt đã được đặc biết nhấn mạnh đến trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (Những Quy Luật của Bách Trượng, do Sắc Lệnh của Triều Đình), do Đắc Huệ (1142-1204) kết tập lần đầu tiên và bản tu chính đã được ấn hành vào năm 1338 dưới thời Nguyên. Thần chú  “được trì tụng trong những lễ hội kỷ niệm các vị tổ sư Thiền Tông, những vị sáng lập các tự viện, cũng như cầu an cho hoàng đế -mà hiện nay phái Tào Động vẫn còn tiếp tục giữ truyền thống này vào ngày rằm mỗi tháng-, trong nghi lễ cầu mưa, và trong tất cả các tang lễ của tăng sĩ và các vị trú trì. Cuốn quy luật này cũng khuyến khích giới cư sĩ thuần thành tập trung tham dự trì tụng thần chú, cho thấy một điều khá rõ là những hiểu biết về cách sử dụng thần chú không phải chỉ giới hạn trong giới tăng già, mà đồng thời cũng rất phổ thông cả trong giới cư sĩ tại gia” (Reis-Habito 1993 :310). Điều này cũng đã được áp dụng  trong các tự viện của Thiên Thai Tông mà theo sách  Tăng Tu Giáo Uyển Thanh Quy do Tự Khánh soạn vào năm 1347 cho biết là việc trì tụng Chú Đại Bi cũng đã được thực hiện trong những trường hợp tương tự như trên. Hơn thế nữa, cuốn sách này còn có một phần nói về “phương pháp thực hành Đại Bi Sám Pháp” quy định cách thức thế nào để thực hiện sám pháp này vào ngày thứ hai mươi mốt của tháng thứ tư (HTC 101 :751a). Chiều hướng tiến triển từ việc sử dụng chú Đại Bi trong những dịp đặc biệt đến việc được đưa vào thời khoá tụng niệm hàng ngày dưới đời Thanh như được minh chứng qua Thiền Môn Nhật Khoá tuy tiệm tiến nhưng là điều hợp lý. Cũng vậy, việc thực hành Đại Bi Sám Pháp đồng thời cũng trải qua một cuộc diễn biến song hành từ chỗ bất định kỳ đến thường xuyên.

 

Khi tính cách phổ thông của thần chú và Đại Bi Sám Pháp ngày càng phổ biến rộng rãi dưới thời Tống, những nhắc nhở liên quan đến Đại Bi Quán Âm đã bắt đầu được thấy xuất hiện trong các tác phẩm khác. Bích Nham Lục, một tác phẩm sưu tập các công án nổi tiếng dưới thời Tống do ngài Tuyết Đậu Trùng Hiển (980-1052) kết tập, đã có liên hệ đến. Công án 89 nêu câu hỏi, “Tay và mắt của Đại Bi Bồ Tát dùng để làm gì?”. Công án thứ 54 trong Tụng Dong Lục, một bộ sưu tập công án nổi tiếng khác do Vạn Tùng Hành Tú (1156-1236 hoặc 1166-1246) kết tập cũng đã có cùng một câu hỏi nội dung tương tự như vậy (T48 :261a-c).

 

Quán Âm ngàn tay cùng với ngàn mắt nhìn ra từ lòng bàn tay cũng là một đề tài làm say mê các nhà mỹ thuật và thi sĩ dưới thời Tống. Những họa phẩm về Đại Bi, như tác phẩm được trưng bày tại Bảo Tàng Viện Quốc Gia, Đài Bắc, và những hình tượng về chủ đề này rất phổ thông dưới thời Tống. Mặc dù cả hai danh sĩ Tô Thuấn Khâm(1008-1048) lẫn Tô Đông Pha (1036-1101) đã không chính mắt trông thấy những bức tượng bằng sắt đúc tại Khai Phong, kinh đô của nhà Bắc Tống,  hoặc làm bằng gỗ đàn hương đỏ tại Thành Đô, cả hai đã viết về đề tài này. Tô Đông Pha đã mô tả như sau :

 

Nếu tôi yêu cầu ai đó nắm một cái búa ở tay trái và cầm một con dao ở tay phải, đếm những con ngỗng trời đang bay qua bằng đôi mắt mình và điều chỉnh chân cho đúng với nhịp trống đang nghe, cúi đầu chào khách qua đường và bước xuống từng bực cầu thang với đôi chân mình, thì cho dù ngay cả một tay phù thủy tài ba cũng vô phương; chưa nói đến việc đang nắm giữ những vật khác nhau trong ngàn tay và nhìn những sự việc khác nhau với cùng ngàn con mắt. Thế nhưng khi tôi đi vào thiền định với tất cả mọi niệm đều lắng đọng, và trong tình trạng tỉnh thức hoàn toàn như một tấm gương lớn trong suốt, trước mắt tôi khởi dậy một đống lộn xộn những người, những ma, những chim chóc, súc vật, và trong tôi một mớ rối rắm những hình tướng, âm thanh, hương thơm, mùi gia vị. Không một niệm khởi dậy, tôi tương ưng với tất cả và thích đáng với mọi tương ưng. Thế nên không cần phải dang rộng ra ngàn cánh tay và mở rộng ra ngàn đôi mắt, chân lý cũng y như thế (Tay 1976 :100-101).

 

Tuy nhiên sự gia tăng tính cách phổ thông của sám pháp cũng có cái giá của nó. Như đã được trình bày trong phần mở đầu của chương này, nghi thức sám pháp được thực hành hiện nay là bản thu gọn và đơn giản hoá nghi thức sám pháp nguyên thủy của ngài Trí Lễ soạn ra. Sám pháp hiện nay chỉ nhấn mạnh đến phần trì chú và một vài phần trong cuốn kinh, kể cả lời phát nguyện, thế nhưng phần quán tưởng về nguyên lý đã hoàn toàn bị loại bỏ. Cùng với việc chuyển qua ý nghĩa thực dụng  và tìm cầu hiệu quả, những động cơ thúc đẩy việc thực hành sám pháp đồng thời cũng đã trải qua những đổi thay. Thay vì là phương tiện làm phục hồi đời sống tâm linh cá nhân, hướng đến giác ngộ như ngài Trí Lễ thoạt tiên vạch ra, nghi thức sám pháp hiện nay chỉ có thể được dùng như là một phương tiện để mang lại tất cả mọi loại lợi ích thế tục, kể cả việc một người con hiếu thảo cầu cho cha mẹ được tái sanh vào cảnh giới tốt lành. Tuy nhiên trên một phương diện nào đó, chiều hướng phát triển này cũng không hẵn là điều đáng tiếc. Như đã được đề cập đến trước đây, ngài Trí Lễ đã khẳng định sự gắn bó giữa những động tác trong nghi lễ và cái điểm quan trọng của nhất niệm trong hiện tại Như vậy, ai có thể nói rằng ngay cả không có một thời đoạn được dành riêng cho việc thiền quán, người tham dự trong sám hội này, tăng sĩ hay cư sĩ, lại không thể hoá thân thành Quán Âm khi nhất tâm nghĩ đến và đồng nhất mình với bồ tát? Thế nên khi mà chúng ta có thể nuôi dưỡng một niềm hy vọng như thế thì cuối cùng đó là thành quả mà ngài Trí Lễ đạt đến. Với việc sáng tạo ra Đại Bi Sám Pháp, ngài đã có thể làm cho tất cả mọi người mọi giới Trung Hoa tạo nên một cái duyên nghiệp với Đại Bi Quán Âm, tức là Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara được bản địa hóa.

 

Việc bản địa hoá Thiên Thủ Avalokitesvara đã đạt đến mức hoàn chỉnh nhất với truyền thuyết về Công Chúa Diệu Thiện do một tăng sĩ sáng tác ra và quảng bá bởi một giới chức nho gia. Bản văn sớm nhất của truyền thuyết này được viết bởi Tưởng Chi Kỳ, thứ sử Dự (?) Châu, tỉnh Hồ Nam, nơi mà chùa Đại Bi thuộc Hương Sơn Tự tọa  lạc, căn cứ theo lời kể của vị sư trú trì. Ngôi chùa này đã thờ một tôn tượng của Đại Bi Quán Âm mà người ta tin là “nhục thân” của Bồ Tát, người một thời đã từng sống ở đó như là Công Chúa Diệu Thiện. Bản văn bia ghi lại chuyện tích này đã được khắc lần đầu tiên vào năm 1100 và sau đó được khắc lại vào năm 1308, hiện còn tồn tại tại chùa này. Đến thế kỷ thứ 13, câu chuyện đã nổi tiếng đến độ được Thiền sư Vạn Tùng Hành Tú liên hệ đến trong bài giảng pháp của mình (T 48:261c) (14). Với sự ra đời và hy sinh của Công Chúa Diệu Thiện, Đại Bi Quán Âm đã có trụ xứ ở một nơi cụ thể tại Trung quốc, hay nói một cách văn chương, Bồ Tát đã được tái sanh thành một cô gái hiếu thảo Trung Hoa. Điều này đã dẫn chúng ta đi từ kinh điển và nghi lễ đến việc phát triển một tín ngưỡng tôn thờ Quán Âm mang màu sắc địa phương, và đó là chủ đề sẽ được nói đến trong hai chương kế tiếp.

Tâm Hà Lê Công Đa 

CHÚ THÍCH :

  1. Ngài Độc Thể (1600-1679) một đại sư của phái Luật Tôn đã đơn giản hoá bản văn của ngài Trí  Lễ bằng cách loại bỏ phần nguyên thủy phân chia thành mười công đoạn đồng thời cắt bỏ một phần lớn của nguyên bản. Ngài cũng đặt một cái tên mới là “Đại Bi Sám Pháp”, tức là tên được dùng cho đến ngày hôm nay.  Sau đó, một tăng sĩ khác là Chi Hsien đã cho in cả hai bản này vào năm 1795. Đến năm 1819, sau khi nghiên cứu thêm một số bản đơn giản hoá khác được dùng kể từ thời Nguyên (1280-1386), ông đã cho ra đời một ấn bản mới, tức là bản được dùng hiện nay (Reis-Habito 1993 :321-322 ; Kamata 1973 :284 ; Getz 1994 :186, note 76). Đó là lý do tại sao tên của các ngài Trí Lễ, Độc Thể và Chi Hsien được liệt kê như là tác giả của bản văn hiện nay trong HTC, vol.129.

  2. Mặc dầu sám pháp của ngài Tuân Thức dựa trên Thỉnh Quán Âm Kinh không tồn tại tại Trung quốc, nhưng ngược lại số phận của nó được may mắn hơn tại Nhật Bản. Theo Mara Reis-Habito, “Kannon Zembo” (Sám pháp Quán Âm) đã không dựa trên sám pháp của ngài Trí Lễ mà là trên bộ sám được ngài Tuân Thức soạn ra. Không phải chỉ có Thần Chú Đại Bi mà “lục tự thần chú” trong Thỉnh Quán Âm Kinh cũng đã được tụng đọc (Reis-Habito 1993:331).

  3.  Reis-Habito trích dẫn việc trì tụng Chú Đại Bi vào lúc chết cũng như những ngày húy kỵ của các tăng sĩ, trú trì như đã được quy định trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy của Đức Huệ năm 1338. Bà cũng đã dùng tự truyện của Hoằng Tán (1610-80), người kết tập một bộ sưu tập những câu chuyện về những linh ứng của Bồ Tát Quán Âm, Quán Âm Từ Lâm Tập, để nhấn mạnh đến những chủ đề thờ cúng tổ tiên và lòng hiếu thảo là  những động lực mạnh mẽ thúc đẩy thực hiện việc sám hối. Câu chuyện mà bà tóm tắt đặt căn bản trên phần ghi chú về tác giả: “Hoằng Tán bắt đầu câu chuyện của mình với cái chết của cha mẹ lúc ông hai mươi chín tuổi. Thực hành bổn phận đạo hiếu với cha mẹ ông đã thử nhiều phương cách khác nhau hy vọng là có thể giúp đỡ cho số mệnh của cha mẹ mình ở thế giới bên kia: không ăn thịt, cá, và rau cải nặng mùi, cũng như chuyên chú đọc tụng kinh điển trong suốt ba năm cư tang. Không hài lòng với những cố gắng này, ông đã quyết định trở thành một nhà sư khổ hạnh sống nơi hoang dã và hàng ngày thực hiện các nghi thức tôn giáo ‘để tạo công đức cho linh hồn của tổ tiên ở trong địa ngục’. Vào ngày lễ Vu Lan dành cho linh hồn người quá vãng, ông đã cúng dường tất cả những gì cần thiết, nhưng vẫn cảm thấy không được an ổn và xấu hổ về những nỗ lực yếu ớt của mình. Cuối cùng Hoằng Tán đã mời một họa sĩ  vẽ cho ông bức chân dung của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm và thỉnh một nhóm tăng sĩ cùng ông thực hiện một sám hội trong hai mươi mốt ngày. Khi sám hội kết thúc, một chuyện lạ đã xảy ra: Bỗng nhiên tôi nhận thấy thân của Bồ Tát phóng ra một luồng ánh sáng vàng. Bông sen đỏ và xanh trên bàn tay ngài cũng phóng ra những luồng ánh sáng trắng. Một số nhà sư và cư sĩ  hiện diện cũng đã chứng kiến hiện tượng khác thường này. Tận đáy lòng, tôi cảm thấy vô cùng sung sướng và an ủi. Tôi tin chắc rằng năng lực từ bi của Bồ Tát Quán Âm đã cứu đô linh hồn của tổ tiên tôi ở bên kia thế giới. Tất cả chúng tôi đều thực hành nghi lễ trước tôn tượng ngài và luồng ánh sáng trắng kia vẫn không ngừng phóng quang. Bất cứ những ai chứng kiến đều rất sung sướng và phát lòng tin. Kinh Thiên Thủ cho biết, chức năng của hoa sen xanh là ‘tái sanh về cõi Tịnh Độ’, và hoa sen đỏ là ‘đến cùng với chư Phật trong khắp mười phương’” (Reis-Habito 1993:331).

  4. Cũng cùng thời điểm này khi ngài Dà Phạm Đạt Ma dịch cuốn Thiên Thủ Kinh, thì Uất Trì Ất Tăng đã họa bức chân dung “Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi” trên ngôi tháp trước chùa Từ Ân  tại Tràng An. Sau khi ngài Bồ Đề Lưu Chi hoàn thành một bản dịch mới của bộ kinh này, vào năm 713 một vị sư nữ chùa Diệu Chi tại Thành Đô tên là Wei pa đã thường xuyên trì tụng thần chú này. Bà có một nữ đệ tử mười một tuổi tên là Lưu Nghĩa Nhị trong khi thiền định đã khẳng định rằng Bồ Tát đã hoá hiện ra ngay tại chùa. Để chứng minh điều này cô đã cho rải tro lên khắp vườn và vào một tối, có những dấu chân khá lớn đến vài bộ hiện ra. Một họa sĩ được mời đến để thực hiện bức họa mô tả những gì mà cô đã thấy, nhưng ông này đã không thành công. Rồi một vị sư tên là Yang Fa Cheng tuyên bố là ông có thể làm được việc này. Nghĩa Nhị chắp tay hướng lên trời cầu nguyện và chỉ cho vị sư phải vẽ theo như thế nào. Phải mất mười năm trời hai người mới hoàn tất xong bức họa này. Sau đó, vào khoảng năm 722, hai trăm bức tượng Bồ Tát đã được khắc tại Thành Đô, mỗi bức có 42 tay. Mười lăm cuộn sách hoạ hình miêu tả Bồ Tát cũng đã được hoàn thành. Tất cả đều được lưu hành tại kinh đô, và được dâng lên cho Hoàng đế Huyền Tông (713-756), người đã ban tặng cho Kao Li-shih. Nhà danh họa Ngô Đạo Tử cũng đã vẽ ba bức họa Đại Bi trong khoảng từ năm 713 dến 755. Khi ngài Chen-chen đến Nhật Bản vào năm 753, ngài đã mang theo bức tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Avalokitesvara bằng gỗ đàn hương trắng cùng với bức tranh lụa về Bồ Tát, và như vậy đã giới thiệu với Nhật Bản việc thờ phượng vị linh thần mới này. (Kobayashi 1983).

  5. Nghi lễ này được mô tả lần đầu tiên trong Quốc Thanh Bách Lục. Cả ngài Trí Lễ lẫn Tuân Thức đều đã viết cẩm nang về việc thực hành sám pháp này. Ngài Trí Lễ viết Kim Quang Minh Tối Thắng Sám Nghi (T no.1946) và Tuân Thức viết Kim Quang Minh Sám Pháp Bổ Trợ Nghi (T no. 1945).

  6. Bên cạnh địa điểm núi Bảo Đính danh tiếng thường lôi cuốn phần đông du khách và kẻ hành hương, còn có một chỗ ít biết hơn tọa lạc ở bên phía trái. Cái trước được gọi là Đại Bảo Đính, cái sau gọi là Tiểu Bảo Đính. Bức “Thập Luyện Đồ” của Lưu Bảo Tuân đều được khắc họa cả hai nơi. Angela Howard đã nghiên cứu kỹ lưỡng cả hai địa điểm này và đã viết một chuyên khảo về đề tài này. Theo bà, Tiểu Bảo Đính có chức năng như một mạn đà la của mật tông và chỉ mở ra cho những người đã được điểm đạo, được dùng như là kiểu mẫu cho việc xây dựng Đại Bảo Đính.

  7. Mặc dầu trong khung trang trí kèm theo những hoạt cảnh giải thích những hình thức hủy thân khác nhau mà Lưu thực hiện, tuy nhiên ông ta đã không được mô tả qua hình ảnh của một người không ngón trỏ trái, mắt phải, tai trái, cánh tay trái,... Nhà nghệ sĩ hoàn toàn đã không đụng chạm đến Lưu trong khi miêu tả. (Trao đổi cá nhân với Angela Howard, Tháng 4, 1999).

  8. Những nguồn tài liệu cung cấp về cuộc đời của ngài Trí Lễ có thể kể đến Tứ Minh Giáo Hành Lục của Tông Hiểu, vol. 1 và vol. 7 (100 :1012-1014), “Nien p’u”, HTC vol.100, pp.880-83 và Tứ Minh Pháp Trí Tôn Giả Thế Lục của người môn đệ, Tse ch’uan; Phật Tổ Thống Ký của Chí Bàn, vol. 8 (T49 :191c-194b).

  9. Quan điểm của ngài Trí Lễ đối với ba loại sám hối trung thành với truyền thống Thiên Thai. Trong Shih Ch’an p’o-lo-mi tz’u-ti fa-men (T no. 1916), một trong những kinh văn căn bản về sám pháp của Thiên Thai tông, đã xem việc sám hối qua những động tác trong nghi lễ nhằm hỗ trợ cho giới, hình thức quán tưởng hình Phật, Bồ Tát hỗ trợ cho định và vô sanh sám hối hỗ trợ cho huệ và phân loại hình thức thứ nhất là Tiểu Thừa và hai hình thức sau là Đại Thừa (T 46 :485c).

  10. Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, nhất-xiễn-đề là loại hữu tình thấp kém nhất trong sáu cảnh giới. Có hai trường phái giải thích, một cho rằng nhất-xiễn-đề vĩnh viễn bị giữ trong trạng thái này trong khi thuyết khác cho rằng ngay cả những loài chúng sanh sâu bọ cuối cùng cũng được cứu độ.

  11. Ngài Trí Lễ ở đây đã đề cập đến mười loại thập-tâm đưa con người vào vòng luân hồi sinh tử : (1) vô minh và u tối, (2) ảnh huởng bởi ác hữu, (3) không theo thiện trí thức, (4) tạo ác hành qua thân, khẩu, ý, (5) để cho ác tâm điều khiển mình, (6) để cho ác tâm tiếp tục kiểm soát không ngừng, (7) che dấu lỗi lầm của mình, (8) không sợ hãi bị tái sanh vào những cảnh giới xấu, (9) không bao giờ biết xấu hổ hay hối hận, và (10) phủ nhận luật nhân quả. Trong khi đó, thập tâm đi ngược lại giòng luân hồi sinh tử hoàn toàn đối nghịch lại với loại thập tâm trên : (1) Tin tưởng sâu xa vào luật nhân quả, (2) thành thật biết ăn năn và xấu hổ, (3) vô cùng kinh sợ bị tái sinh vào những cảnh giới xấu, (4) Tiết lộ hoàn toàn những lầm lỗi của mình, (5) cắt đứt ác tâm, (6) phát tâm bồ đề, (7) nuôi dưõng thiện hành, cắt bỏ ác hành, (8) hộ trì chánh pháp, (9) tưởng nghĩ đến mười phương chư Phật, và (10) thấy rõ bản chất không tánh của mọi tội lỗi. Xem Mo-ho chih-kuan, Phần 1, Chương 4 (T46 :39c-40b).

  12. Tsung-chien. Shih-men cheng-t’ung, vol.5; HTC vol.130, pp834-38; Lien-tsung pao-chien (T no. 1973).

  13. Quán Âm được nhắc đến một lần nữa trong công án 34: “Phổ Môn [Quán Âm] có hiện ra cho ngươi ?” (Yu 1989 :102).

  14. Trong khi phát biểu về Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi, Vạn Tùng cho rằng: “Tôi đã được đọc trong truyền thống cho rằng Đấng Đại Bi nguyên là Công Chúa Diệu Thiện. Điều này đã được báo cho Lu Đại sư Tao-hsuan, người được nghe chuyện này từ chư thiên. Tuy nhiên bởi vì Bồ Tát có đến 32 hoá thân cùng trăm ngàn cách hoá thân khác, tùy theo mỗi người mà có thể có những biểu hiện khác nhau. Mỗi xác tín như vậy đều có cơ sở của nó.” (T 48 :261c).

 

 

 

 

   

| LGT | CH1 | CH2 | CH3 | CH4 | CH5 | CH6 | CH7 | CH8 | CH9 | CH10 |

 

 
       

Copyright © 2005, Tam Ha Le Cong Da, All rights reserved.