Mục Lục
LỜI NGƯỜI DỊCH
Tâm Hà Lê Công Hà
LỜI NÓI ĐẦU
Steven D. Goodman
PHẦN THỨ NHẤT
Những Quán Tưởng Về Tân Thiên Niên Kỷ
PHẦN THỨ HAI
Tâm Linh và Chính Trị
PHẦN THỨ BA
Bất Bạo Động: Một Tâm Gương Để Noi Theo
PHẦN THỨ TƯ
Vượt Khỏi Giáo Điều
PHẦN THỨ NĂM
Duyên Khởi và Tánh Không
PHẦN THỨ NĂM
DUYÊN KHỞI
VÀ TÁNH KHÔNG
DUYÊN KHỞI:
KHOA HỌC, TÁNH, VÀ THỨC
Nhà bác học Albert Einstein, cha đẻ
của thuyết tương đối đă từng phát biểu: “Tôi chỉ dùng một nguyên tắc
duy nhất để xác định giá trị chân thực của một con người: Họ đă giải
phóng được ḿnh ra khỏi bản ngă đến mức độ nào và với mục đích ǵ.”
Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma,trong chừng mực nào th́ nguyên tắc này đối
với Ngài có thể được xem như là áp dụng những giáo lư của Đức Phật,
và tạo nên một tiền đề cho bất cứ một cuộc đối thoại hiệu quả nào
giữa con người?
Từ cốt lơi của đạo Phật, đặc biệt là
Phật giáo Đại thừa, sự phân tích thuần lư chiếm một vị trí rất quan
trọng. Quan điểm này cho rằng ta không nên chấp nhận giáo lư của Đức
Phật nếu như trong đó có ẩn chứa những điểm sai lầm thiếu sót hoặc
mang tính cách mâu thuẫn, không hợp lư. Bởi vậy bạn luôn luôn được
khuyến cáo là nên giữ một thái độ hoài nghi và một tinh thần cảnh
giác, ngay cả đối với những lời dạy của Đức Phật. Chính Ngài đă từng
phát biểu trong lời pháp cú sau đây: “Hỡi các Tỳ kheo, như vàng được
thử nghiệm bởi chà xát, cắt ra, và nung chảy, chỉ nên chấp nhận lời
dạy của ta thông qua đầu óc phân tích chứ không phải bởi ḷng kính
trọng.” Đây là một lời khuyên quan trọng cần nên được noi theo.
Trong bối cảnh như thế, đối với tôi không có vấn đề ǵ trở ngại khi
được thảo luận với các nhà khoa học thân hữu và tôi luôn luôn cảm
thấy cực kỳ hứng thú khi được hầu chuyện với họ.
Bây giờ xin được trở lại với nội dung
câu hỏi mà quư vị nêu ra. Khi chúng ta nói đến việc “kiềm chế bản
ngă,” chúng ta phải nhận ra được những mức độ khác nhau của sự kiềm
chế này. Thông thường tôi phân biệt ra hai lối suy nghĩ về cái ngă.
Trước tiên, ư niệm về cái “Tôi” vốn thường hiện ra trong tâm trí ta
một cách rất tự nhiên, không những là một ư niệm đúng đắn mà c̣n rất
cần thiết. Chẳng hạn như, để cảm thấy can đảm, chúng ta phải biết tự
tin vào chính ḿnh. Để có được một niềm tự tin vững chải, chúng ta
phải tin tưởng vào khả năng và sức mạnh của chính ḿnh, và như thế
ta lại cần phải có một ư tưởng mạnh mẽ về cái tôi, cái ngă. Thế nên
đây là một ư niệm tích cực và có tính xây dựng.
Một lối suy nghĩ khác về cái “ta,” cái
“Tôi,” thường dẫn đến sự coi thường kẻ khác. Đây là tinh thần ngă
chấp được đặt trên căn bản của một ảo tưởng quá cao về ḿnh vượt xa
thực tế, một nhận thức lầm lạc mà ta không thể đơn thuần xóa bỏ được
chỉ bằng cầu nguyện. Trong trường hợp này ta phải quán chiếu và
thiền định về vô ngă, phải thấy được mọi hiện tượng đều rỗng không,
không có cái ǵ hiện hữu một cách độc lập. Kiến chấp sai lầm về ngă
sẽ ngày càng mờ nhạt đi khi tâm trở nên quen thuộc dần với tinh thần
vô ngă.
Những luồng tư tưởng triết học Đông
phương cổ điển đă dành một vị trí quan trọng trong việc phân tích
khảo sát về cái bản-ngă. Triết học cổ Ấn Độ không nằm trong truyền
thống Phật giáo đă đề cập đến cái ngă này, được gọi là tiểu ngă,
atman, như là một thực thể tách biệt không dính líu ǵ đến ngũ
uẩn. Trong khi đó, giáo lư của Phật giáo trái lại cho rằng không hề
có một cái ngă khác biệt hay tách rời khỏi ngũ uẩn, từ đó ta có khái
niệm về vô ngă, atnaman. Phật giáo như thế đă bác bỏ quan
niệm cho rằng có sự hiện hữu của một cái ngă thường hằng, độc lập,
tồn tại như một cá thể tách biệt với ngũ uẩn. Tuy nhiên Phật giáo
không hề bác bỏ sự hiện hữu của cái ta, cái bản ngă, tức là cái tôi
ước lệ do năm uẩn cấu thành. Tất cả các trường phái triết học Phật
giáo đều công nhận sự hiện hữu của một cái ngă liên hệ chặt chẽ đến
năm uẩn, tuy nhiên không phải tất cả đều hoàn toàn đồng ư với nhau
trong việc giải thích về bản tánh của cái ngă này.
Trước tiên, một trường phái triết học
Phật giáo khẳng định rằng mỗi một yếu tố của năm uẩn cấu thành con
người đều là cái ngă. Một trường phái khác cho rằng ngă chỉ là thức
uẩn. Một quan niệm thứ ba cho rằng ngă là phần thẳm sâu nhất của
thức, được biết dưới tên gọi là “tàng thức” hay A-lại-da-thức theo
Phạn ngữ. Một trong những quan điểm của Trung quán tông - Quy mậu
biện chứng phái (Madhyamika-Prasangika) cho rằng có sự hiện hữu của
một cái ngă liên hệ chặt chẽ đến năm uẩn, thế nhưng ta không thể t́m
ra nó nằm ở chỗ nào, và đi đến khẳng định rằng ngă được hiện hữu một
cách đơn giản như là một thứ nhăn hiệu, một cách gọi tên đơn thuần
trên căn bản của năm uẩn cấu thành con người. Khi ta dùng cụm từ
“gọi tên đơn thuần”, điều này không mang ư nghĩa một cách đơn giản
là ngă không hiện hữu, nhưng nhằm loại bỏ ư niệm cho rằng ngă hiện
hữu như một thực thể mang phẩm chất, đặc tính riêng biệt. Như thế,
đă có sự hiện hữu của một cái ngă do duyên sinh.
Từ đây chúng ta gặp gỡ quan điểm của
Einstein: Một điều khá quan trọng trong truyền thống Phật giáo, là
không hề chấp nhận có sự hiện hữu của một cái ngă tuyệt đối, và
chính do nhờ nhận thức sâu xa về vô ngă mà con người có thể làm suy
yếu đi tác động mănh liệt của những yếu tố tâm thần thường mang lại
cho ta lắm phiền năo cụ thể như ḷng kiêu hănh, và ganh tỵ. Với
Phật giáo, không những một cá thể hiện hữu mà c̣n có thể tiến hoá từ
một con người b́nh thường tiến đến Phật quả. Câu trả lời của tôi có
đáp ứng phần nào phần nào sự mong chờ của quư vị?
Vâng, thưa Ngài.
Nếu quư vị không hiểu tôi có thể tiếp
tục cho đến khi nào vấn đề sáng tỏ hơn. Và nếu nó vẫn chưa sáng tỏ,
tôi sẽ cố làm cho nó sáng tỏ hơn nữa!
Ngài đă cho biết là rất thích thú khi
đối thoại với các nhà khoa học về các vấn đề khoa học nói chung cùng
với các tiến bộ trên lănh vực kỹ thuật. Phật giáo đang bắt đầu bám
rễ tại các quốc gia Tây phương, được coi như là chiếc nôi của khoa
học và kỹ thuật. Phải chăng Ngài chỉ đơn giản muốn nắm bắt những
thông tin trong lănh vực này hoặc chỉ để hội nhập vào nền văn hoá
của chúng tôi hay là Ngài nghĩ rằng nền khoa học hiện đại và tinh
thần Phật giáo có thể có những tác động hổ tương mà qua đó tiến
tŕnh khoa học có thể liên hệ với nhu cầu tinh thần?
Từ kinh nghiệm cá nhân của tôi cũng
như thông qua những cuộc tiếp xúc với một số các nhà khoa học mà tôi
được hân hạnh gặp gỡ, tôi nhận thấy rằng có rất nhiều vấn đề có thể
được trao đổi giữa hai bên trong một số lănh vực, cụ thể như vũ trụ
học, thần kinh sinh vật học, vật lư phân tử, và tâm lư học chẳng
hạn. Tôi tin rằng cách thức lư giải một số lănh vực vừa nêu trong
các kinh sách Phật giáo chắc chắn có thể cống hiến một phương thức
tiếp cận mới trong việc nghiên cứu những bộ môn khoa học này. Hơn
thế nữa tôi nghĩ rằng sự phát triển vượt bực thông qua các nghiên
cứu và các thành quả của khoa học kỹ thuật thực nghiệm có thể mang
lại rất nhiều điều hữu ích cho Phật giáo. Thế nên chắc chắn là hai
bên đều được hưởng những lợi ích hổ tương.
Điều này chỉ đơn thuần ở mức độ thu
nhận thông tin hoặc tiến xa hơn đưa đến sự áp dụng vào đời sống con
người hay không đều c̣n tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Tuy nhiên tôi
cũng xin được đánh bạo để phát biểu rằng, nếu không đề cập đến lănh
vực khoa học, một số người sẽ xem giáo lư Phật giáo sẽ không vượt xa
hơn mức độ của những kiến thức thông tin và như thế không thể áp
dụng được vào thực tiễn. Thiết tưởng những người nặng đầu óc tín
ngưỡng cũng cần nên được nhắc nhở rằng bất cứ những ǵ giúp cho ta
nhận thức đều là giáo lư. Nói cho cùng, hướng tiếp cận bao quát của
Phật giáo không ngoài xác định bản chất của thực tại và phân biệt
giữa chân lư và sai lầm. Một khi bản chất của thực tại được nhận
thức một cách thấu đáo, trên căn bản đó những phương tiện đưa đến sự
tiến bộ trên con đường tâm linh có thể được lư giải. Mặc dù sự hiểu
biết về bản chất của thực tại không quan hệ trực tiếp với sự tu tập
Đạo lư, chung cuộc lại mục đích của sự kiếm t́m, tự bản chất cũng đă
trở thành sự thực hành tu tập. Những lư giải khoa học như vậy có thể
là nguồn trợ giúp lớn lao cho chúng ta trong việc xác định bản thể
của thực tại và rất hữu ích trong vấn đề tu tập tâm linh.
Khi gặp gỡ tiếp xúc với những y sĩ ,
những nhà nghiên cứu y học Tây phương, Ngài có ấn tượng nào không về
cái mà chúng tôi gọi là phương pháp khoa học được họ sử dụng trong
các cuộc thí nghiệm, đặc biệt trên b́nh diện khảo sát thực tại sinh
vật và vi trùng học, cơ bản đă phản ảnh nguồn gốc văn hoá của họ, Cơ
Đốc hoặc DoThái-Cơ Đốc? Hay ngược lại Ngài có ấn tượng rằng họ đă
không bị ràng buộc chút nào bởi các tôn giáo và truyền thống triết
học Tây phương, và rằng phương pháp khoa học là một vấn đề phổ quát?
Tôi nghĩ rằng các nhà khoa học chắc
chắn đều áp dụng một nguyên tắc chỉ đạo chung là cố gắng khảo sát
thực tại một cách khách quan, mặc dầu vậy họ cũng không thể không bị
ảnh hưởng bởi môi trường văn hoá mà họ sinh sống. Người làm công tác
khoa học cũng chỉ là một con người, thế nên họ vẫn bị chi phối bởi
bầu khí văn hoá xă hội chung quanh; và do đó điều này cũng có một
ảnh hưởng quan trọng vào sự phân tích khách quan.
Phật giáo được biết đến ở phương Tây
như là một “tôn giáo thuần lư,” và sự lư giải này có vẻ như đủ khả
năng để chấm dứt một cuộc tranh luận khá cổ điển thường được thúc
đẩy bởi các tôn giáo dựa vào Thánh Kinh -Do Thái, Cơ Đốc, và Hồi
giáo- liên quan đến sự mâu thuẫn giữa đức tin và lư trí. Ngài có
nghĩ rằng một công thức như “tôn giáo thuần lư” có thể mang lại sự
ḥa hợp của các truyền thống tâm linh đa dạng, cũng như sự hiểu biết
phong phú hơn về một số mối quan hệ gần gũi giữa nền khoa học hiện
đại và Phật giáo, một con đường tâm linh -đúng hay sai chưa cần
biết- có vẻ như rất thực tiễn đối với chúng tôi trong xă hội Tây
phương?
Trong các kinh sách Phật giáo, đặc
biệt là trong A-t́-đạt-ma-câu-xá-luận của Ngài Thế Thân có đề cập
đến ba loại đức tin: là “tín thành,” tức là tin tưởng một cách triệt
để, “tín phục” tức là tin tưởng do sự tin phục, và “tín hành” tức là
tin tưởng và noi theo. Ta cũng có thể nói đến hai loại đức tin căn
bản. Loại thứ nhất đặt nền tảng trên lư trí, qua đó khi ta khảo sát
những nền tảng chân xác của đức tin này, được t́m thấy trong số
những người có trí thông minh sắc bén nhất. Loại thứ hai có tính
cách tự phát và đơn giản hơn được khai sinh do một số ước lệ trong
những người có khả năng tinh thần yếu kém hơn. Trong hai loại này,
loại đức tin được xây dựng trên lư trí là quan trọng hơn cả. Thế nên
ta có thể thấy được rằng trong Phật giáo, đức tin và lư trí quan hệ
rất mật thiết với nhau, bởi v́ đức tin được sản sinh trên căn bản
của lư trí hoặc nhận thức thuần lư.
Có rất nhiều cách để ta có thể tiến
hành sự phân tích hợp lư hóa, tuỳ thuộc vào ba loại đối thể mà ta
quán sát. Trong trường hợp đầu tiên, đối thể phân tích sẽ là một thể
tướng rơ ràng. Trong trường hợp thứ hai, đối thể được ẩn tàng và
trong loại thứ ba nó được ẩn dấu một cách vi tếơ hơn. Ba loại đối
thể này tương ứng với ba loại thể tướng. Ta nắm bắt loại thể tướng
biểu kiến do những nhận thức sơ khởi được biết như là trực giác;
thấu hiểu loại thể tướng ẩn tàng do những nhận thức suy luận đặt cơ
sở trên chứng cớ không thể bác bỏ được; c̣n loại thể tướng thứ ba
cũng do những suy luận đặt căn bản trên giá trị được công nhận trong
các kinh điển.
Ta khó có thể xác định ư nghĩa của thể
tướng ẩn dấu một cách vi tế ngay lập tức bằng luận lư thuần lư và
càng khó hơn nếu dùng cảm quan. Chúng ta chỉ có thể thấu hiểu được ư
nghĩa của nó dựa vào những ǵ được phát biểu bởi một nhân vật thứ ba
đáng tin cậy, tín nhiệm và không thể sai lầm mà những lời của họ, để
được tin tưởng, dĩ nhiên cũng phải hợp luận lư và không mâu thuẫn
lẫn nhau. Lư trí vốn không tham dự trực tiếp vào việc h́nh thành
loại thể tướng thứ ba, thế nhưng đă đóng một vai tṛ giúp ta xác
định độ tin cậy của một người trong việc khám phá ra loại thể tướng
này.
Tất cả đă cho ta thấy rằng lư trí luôn
luôn can dự vào việc h́nh thành đức tin có cơ sở. Tôi thường có rất
nhiều cơ hội để nói chuyện về lănh vực này. Nếu quan niệm tôn giáo
thuần túy được xây dựng trên cơ sở của đức tin “mù quáng” th́ Phật
giáo không phải là một tôn giáo, mà có thể được xem như là một khoa
học về tâm trí, một thể dạng của vô thần chủ nghĩa. Tuy nhiên nếu so
sánh với chủ nghĩa vật chất triệt để th́ không thể chối căi được
rằng Phật giáo là một con đường tâm linh, một tôn giáo. Tất cả đều
tùy thuộc vào quan điểm của mỗi người. Một cách tóm tắt ta có thể
nói rằng Phật giáo được phân biệt với hai đường lối tiếp cận vừa
tŕnh bày hay cũng có thể là một chiếc cầu nối liền chúng với nhau.
Người ta thấy trong những năm gần đây
giới vật lư đang gia tăng mối quan tâm của họ trong vấn đề t́m hiểu
về cái thực tại có vẻ như c̣n đang nằm ngoài tầm tay của các nhà
khoa học, cho dù với mức độ chính xác và khả năng dự đoán của các
học thuyết hiện đại như vật lư lượng tử chẳng hạn. Một cách tổng
quát, nhà vật lư học không những chỉ tường tŕnh về những sắc tướng
và một chuổi nhân quả của một sự kiện, nhưng đồng thời cũng cố gắng
hoàn hảo hóa việc lư giải cái mà chúng ta thường gọi là “bản thể”
trong một cung cách dễ hiểu nhất. Sự sáng tạo của chúng ta có vẻ như
tùy thuộc khá lớn vào vấn đề này. Để hoàn tất mục tiêu này chúng ta
đă khai sinh ra những khái niệm tiêu biểu như nguyên tử, phân tử,
lực, năng lượng, không gian, thời gian, v.v...
Một số lượng lớn kinh sách của truyền
thống Phật giáo đă đề cập đến bản thể của hiện tượng, thảo luận về
thực tại của nguyên tử, bản thể của thời gian và không gian. Ngài có
thể giải thích cho chúng tôi hiểu tại sao giáo lư Phật giáo lại quan
tâm đến vấn đề này? Ngài có nghĩ rằng trong các công cuộc nghiên
cứu của những nhà khoa học, có quan trọng và cần thiết cho họ khi
ghi nhận những lư giải trong Trung Quán Luận, vốn bác bỏ sự hiện hữu
của các hiện tượng?
Đây là lư do tại sao những người theo
trường phái này khi nói về thể không, họ bác bỏ những thể không
độc nhất mà chỉ chấp nhận những thể không danh sắc. Những người
theo trường phái Kinh-lượng-bộ (Sautrantika) cho rằng một số thể
tướng, ví dụ như thể không, chẳng qua chỉ là do những ư thức biện
biệt gán đặt hoặc định danh. Trong trường hợp này, cụ thể như chân
không, hay các thể tướng phức hợp không liên hệ với sắc tướng hay
tâm hoặc cá thể. Các từ “định danh” hay “gán đặt” được dùng ở đây có
ư nghĩa không khác xa bao nhiêu với trường phái Trung Quán vốn cho
rằng mọi thể tướng hiện hữu chỉ là một sự gán đặt, định danh đơn
thuần.
Theo trường phái Duy Thức
(Chittamatra), chẳng có ǵ khác nhau khi khi ta nói về căn bản duy
danh của sự định danh, về sự định danh “sắc tướng” được áp đặt cho
một sắc tướng, và cuối cùng về quan niệm cơ bản của nhận thức biểu
hiện xem sắc như là sắc; sắc được biết là không hiện hữu tự thân,
theo một cung cách ngoại hiện. Tuy nhiên nếu ta nh́n trở lại giai
đoạn sơ khai của truyền thống Kinh-lượng-bộ, quan niệm rằng sắc -
được nắm bắt bởi ư thức cơ sở của nhận thức biểu kiến - hiện hữu do
các phẩm chất và đặc tính của chính nó.
Đến đây tất cả các trường phái Phật
giáo đều đi đến khẳng định rằng mọi thể tướng đều có một hiện hữu
tuyệt đối. Thế nhưng những người theo trường phái Trung Quán tông
lại bác bỏ sự hiện hữu tuyệt đối của hiện tượng. Trong số này, chi
phái đầu tiên, Độïc-lập biện-chứng phái (Svatantrika) quan niệm rằng
hiện tượng hiện hữu một cách ước lệ, bởi chính nó. Một chi phái
khác, Quy-mậu biện-chứng phái (Prasangika) cho rằng ngay cả hiện
tượng ước lệ cũng không thể hiện hữu bởi những đặc tính của chính
nó. Nói chung tất cả mọi trường phái đều chấp nhận vô ngă, tuy nhiên
cách thức diễn đạt ngày càng trở nên vi tế hơn.
Đến đây một câu hỏi được đặt ra. Nếu
“thực tại” được quan niệm như là một đối thể khách quan có thể nhận
thấy được và tự nó là đủ để biện minh cho sự hiện hữu, th́ triết học
Phật giáo phủ nhận sự hiện hữu của một thực tại như thế. Tuy nhiên
thực tại chỉ hiện hữu nếu ta quan niệm nó như là một trạng huống, mà
mặc cho ta cất công t́m kiếm, vẫn không thể nào t́m ra một đối thể
khách quan như thế, ta cuối cùng chấp nhận sự hiện hữu của nó như
là một định danh. Trung Quán tông hay Trung Quán Luận đặt trọng tâm
vào việc loại trừ hai ư niệm cực đoan này.
Những ǵ trong Vật lư học gọi là
“không thể khám phá được” liên hệ đến lănh vực vô cực và giới hạn,
tương tự với khái niệm của Phật giáo về đặc tính “không thể nhận ra
được” của đối thể được quán sát. Đối với Phật giáo, chưa đủ để khẳng
định rằng sự chấp ngă là sai lầm bởi v́ ư niệm này sẽ tự tiêu tan
một khi ta hiểu được rằng đối thể của kiến chấp sai lầm của ta không
hề hiện hữu. Chúng ta cần loại trừ kiến chấp sai lầm về bản ngă, tức
là sự chấp thủ vào ngă chứ không phải sự nhận thức về ngă như là một
định danh đơn giản. Tại sao lại phải mang vào ḿnh những phiền hà
như thế?
Như tôi đă giải thích sơ lược trước
đây rằng, bắt nguồn từ kiến chấp sai lầm, một ảo tưởng phóng đại về
cái ngă -vốn xa ĺa với thực tại- sẽ xuất hiện; và khởi đi từ điểm
này chúng ta bắt đầu phân chia thế giới hiện tượng ra hai đối cực:
một bên là tất cả những ǵ thuộc về ta, và bên kia là những cái
khác. Thế rồi chúng ta chỉ gắn bó với cái thứ nhất và trở nên ác cảm
với cái thứ hai. Một điều hoàn toàn đúng đắn là để làm suy yếu sự
chấp trước và t́nh cảm thù ghét này, chúng ta phải cố gắng để loại
bỏ kiến chấp sai lầm về cái ngă.
Trung Quán loại trừ hai trạng thái cực
đoan của các học thuyết chấp thường và chấp đoạn. Nếu không loại trừ
được khía cạnh cực đoan của học thuyết chấp thường ta sẽ không có
những phương tiện để loại bỏ những kiến chấp sai lầm về cái ngă.
Ngược lại, học thuyết chấp đoạn (hư vô chủ nghĩa) hoàn toàn phủ nhận
sự hiện hữu của một cái ngă, nếu ta không loại trừ được khía cạnh
cực đoan này, ta sẽ không phân biệt được tính chất tích cực và tiêu
cực của một hành động trong đời sống ước lệ này, và như vậy chẳng
khác ǵ ta sẽ đi đến việc phủ nhận luật nhân quả, đó là điều khó có
thể chấp nhận được. Không chấp nhận tính cách cực đoan của học
thuyết chấp đoạn, ta khẳng định một điều rằng bất cứ ai gieo hay
tích lũy nhân ǵ chắc chắn sẽ phải gặt quả nấy. Bằng cách bác bỏ
tính cách cực đoan của học thuyết chấp thường, chúng ta tránh được
tinh thần chấp ngă quá lố. Đây là cách lư giải của Trung Đạo trong
Trung Quán Luận.
Một cách tóm tắt, ta phải loại bỏ tà
kiến sai lầm và củng cố chánh kiến về cái ngă mà không phải tự đặt
ḿnh đóng khung vào bất cứ tri thức thông thường nào về những ư niệm
này. Khi đă hiểu được như thế, ta cần phải tiếp tục quán chiếu,
thiền định trên đối tượng này để đi đến một sự chuyển hoá nội tâm
thực sự. Những ư niệm này càng ngày càng trở nên lợi ích cho ta một
khi tâm ta dần dần quen thuộc chúng.
Mới vài phút trước đây, Ngài có nói
rằng t́nh cảm có thể là nguồn gốc của khổ đau. Như thế Ngài có một
định nghĩa đặc biệt nào về bệnh tật theo cái nh́n Phật giáo? Phải
chăng bệnh tật là một dấu hiệu bất b́nh thường của một con người
trên b́nh diện tâm, sinh lư học, hay là sự rối loạn cơ thể cho thấy
một sự rối loạn về tâm lư? Có phải là điều b́nh thường khi trong một
giai đoạn nào đó của đời sống, con người phải bị bệnh tật ốm đau. Và
trong những t́nh huống như vậy, giới chuyên môn y khoa nên có thái
độ như thế nào; họ nên loại bỏ sự bất b́nh thường đó bằng mọi giá
hay là giúp con người sống và làm quen với nó?
Về những trạng thái của tâm đôi khi
được biết đến dưới tên gọi “t́nh cảm”, chúng ta cần nên phân biệt
những cái nào là tích cực và những cái nào là tiêu cực. Những t́nh
cảm như ḷng nhân ái, sự yêu thương, ḷng từ bi là những t́nh cảm
tích cực. Điều này cũng chẳng khác ǵ nói rằng những t́nh cảm đó tồn
tại trong ḍng ư thức của chư Phật, bởi v́ những phẩm chất như thế
bắt nguồn từ tâm của chư Phật. Ta cũng không nên hoang mang trước sự
khẳng định rằng chư Phật luôn quán tưởng về tánh không. Bởi v́ một
khi đă đạt đến Phật quả, sẽ không c̣n sự tồn tại của các ư thức biểu
hiện và biện biệt. Tất cả chỉ c̣n là sự trực nhận của tánh không.
Tuy nhiên khi các Ngài thiền quán trên trí huệ vốn bao gồm cả tánh
không, tất cả những phẩm chất như ḷng thương yêu và từ bi vẫn hiện
hữu trong tâm của chư Phật.
Khi nói về trạng thái tiêu cực của
tâm, ta liên hệ đến ba mối phiền năo chính, được biết dưới tên gọi
tam độc, đó là tham, sân và si. Trên quan điểm của một người tu tập
theo Phật giáo, những mối phiền năo hay độc dược tinh thần này chính
là những bệnh hoạn tâm thần thực sự. Tuy nhiên loại bệnh hoạn này sẽ
không bao giờ được chữa lành cho đến khi nào ta đạt đến trạng thái
giải thoát, giác ngộ. Thế nên trước khi đạt đến mức độ này, ta hăy
đề cập đến những loại bệnh tật ít vi tế hơn.
Tổng quát mà nói, trong xă hội mà
chúng ta đang sống, một người được coi là có sức khoẻ hoàn hảo khi
tâm của họ không bị rối rắm hay xáo động sâu xa bởi ba mối phiền
năo, cho dù những yếu tố tiêu cực này vẫn c̣n tồn tại ở trong họ.
Ngược lại, với một người mà tâm luôn bất an, không ngừng bị quấy
nhiễu và chịu ảnh hưởng nặng nề của tam độc, chắc chắn là họ sẽ rơi
vào t́nh trạng khủng hoảng. Đây chính là t́nh trạng của bệnh thái
tâm thần. Khi nói đến bệnh tâm thần ta phân biệt ra hai mức độ khác
nhau: thô và tế; cả hai đều cũng có thể liên hệ đến những bệnh hoạn
về thể chất. V́ lẽ đó, truyền thống y học Tây Tạng xem bệnh nhân là
một thể toàn diện, không những chỉ quan tâm đến thể chất mà c̣n lưu
ư đến cả lănh vực tinh thần của bệnh nhân. Đây là lư do giải thích
tại sao hiện đang có những người áp dụng việc trị liệu các bệnh tâm
thần bằng cách tổng hợp cả lối tâm lư trị liệu Tây phương và các
phương cách của Phật giáo. Tôi nghĩ rằng đây là một phương pháp rất
tuyệt diệu.
Bây giờ, ta sẽ ứng xử như thế nào đối
với bệnh tật? Một điều rất hiển nhiên là con người ai cũng khát khao
hạnh phúc, và t́m kiếm hạnh phúc là một thứ quyền chính đáng. Đồng
thời cũng không ai muốn bị khổ năo bởi bệnh tật vây bủa hoặc phải
chịu đựng bất cứ h́nh thái đau khổ nào. Chúng ta phải phấn đấu hết
sức ḿnh để ngăn ngừa khổ đau, và trên căn bản này, sử dụng thuốc
pḥng bệnh là một điều khôn ngoan. Ta phải cố gắng để pḥng ngừa
bệnh tật bằng đủ mọi phương cách có thể được. Nếu như ta đă cố gắng
hết sức ḿnh, nhưng bệnh hoạn và khổ đau vẫn xảy ra, ta phải cố gắng
chiêm nghiệm nó một cách sáng suốt để đừng tạo thêm mối lo lắng cho
những khổ đau có sẵn.
Cuốn phim “Tại sao Bồ Đề Đạt Ma Đă Đi
Về Phương Đông?”, thông qua những h́nh ảnh tuyệt vời của nó đă giúp
chúng ta gặt hái một số kinh nghiệm và hiểu biết về một phạm trù mà
qua đó sự giải phóng tâm linh hoà nhịp với sự giác ngộ của ư thức
được xảy ra do sự tác động hổ tương giữa con người và môi trường
thiên nhiên. Tuy nhiên Phật giáo lại lên tiếng phủ nhận sự hiện hữu
của thế giới hiện tượng có thật, thường được biết như là “thiên
nhiên”. Xin Ngài cho biết ư niệm về thiên nhiên đă chiếm một vị trí
như thế nào trong Phật giáo, và làm thế nào để chúng ta nhận thức
được tánh không của thế giới hiện tượng mà không làm thay đổi cái
nh́n của ta đối với môi trường thiên nhiên?
Các loài vô t́nh được biết là không có
sự hiện hữu tự thân mà chỉ có sự hiện hữu ước lệ. Điều này thật ra
không phải chỉ áp dụng cho các loài vô t́nh mà c̣n có thể cho các
chúng hữu t́nh, nghĩa là các sinh vật có ư thức. Nh́n trên khía cạnh
này, thế giới của loài vô t́nh cũng b́nh đẳng với thế giới hữu t́nh
của các sinh vật. Bao lâu mà chúng ta quan tâm đến sự liên hệ giữa
thế giới khách quan và thế giới nội tại (tâm), th́ theo một số
trường phái triết học Phật giáo, đặc biệt là Du-già-hành-tông (một
chi nhánh của Trung Quán tông) và Duy thức tông, thế giới hiện tượng
khách quan không hiện hữu; tất cả những ǵ hiện hữu thật ra chỉ là
bản tánh của tâm. Trong khi đó Quy-mậu biện-chứng phái, một chi phái
của Trung Quán tông, đặt trọng tâm vào việc giải thích về tính tương
đối. Theo trường phái này th́ thế giới hiện tượng khách quan hiện
hữu, nó không phải là bản tánh của tâm. Chúng không hiện hữu tự thân
hay như một cứu cánh, tuy nhiên bản tánh của chúng khác biệt với
tâm. Thế giới ngoại tại hiện hữu tùy thuộc vào tâm như là một sự
định danh bởi tâm. Bởi thế nó không hiện hữu một cách độc lập đối
với sự gán đặt của tâm, và đồng thời cũng không phải là bản tánh của
tâm. Thế cho nên thế giới ngoại tại có thể được khảo sát một cách
khách quan đă hiện hữu.
Một cách tổng quát, Phật giáo hiểu môi
trường được cấu thành bởi vô số lượng phân tử; đặc biệt quan niệm
con người là một bộ phận của thiên nhiên và lẽ tự nhiên, đă có một
mối dây liên hệ chặt chẽ giữa nhân loại và môi sinh. Hiển nhiên là
hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc phần lớn vào môi trường sinh sống.
Đó là lư do tại sao kinh điển Phật giáo luôn giải thích vấn đề con
người phải đối xử với thiên nhiên như thế nào. Cụ thể như, một trong
số những giới luật tu sĩ Phật giáo đă cấm đoán việc gây ô nhiễm hay
hũy diệt cây cối. Cuộc đời của Đức Phật cũng thế, h́nh như Ngài đă
gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Ngài không phải được sinh ra tại
hoàng cung nhưng mà trong công viên, dưới một cành cây sa-la. Ngài
chứng quả giác ngộ dưới gốc cây bồ đề và giă từ thế giới này để nhập
niết bàn, một lần nữa cũng dưới ba tàng cây sa-la. Ngài có vẻ như
rất yêu thích cây cối.
Những khám phá gần đây của khoa vật lư
không gian hiện đại và học thuyết “tiếng nổ lớn tạo nên vũ trụ” (big
bang), đă tạo nên một sức quyến rũ đặc biệt về vũ trụ cũng như một
sự tra vấn của tất cả thành viên thuộc thế hệ chúng ta về nguồn gốc,
thân phận và ư nghĩa về sự hiện hữu của ḿnh. Học thuyết “big bang”
quả là đă tạo nên một tác động có ư nghĩa trong cách nh́n của chúng
ta đối với sự vật và thiên nhiên; nó đồng thời cũng đưa ra nhữngï
đổi mới nhận thức rất đáng kể. Sự h́nh thành cấu trúc của vũ trụ,
vốn hoạt động một cách tương thuộc, và những công tŕnh nghiên cứu
được tiếp tục phát hiện là những nguồn ngạc nhiên vô tận đối với con
người. Giống như tất cả các truyền thống tâm linh, Phật giáo cũng
rao truyền một huyền thoại về vũ trụ. Thế nhưng Phật giáo đă bác bỏ
cái ư tưởng về một đấng sáng tạo. Tại sao ?
Hầu như các nhà khoa học phương Tây
đều đồng ư rằng đời sống và ư thức là kết quả vượt bực của sự tiến
hoá vật chất của vũ trụ, tuy nhiên họ không hiểu bằng cách nào và
tại sao sự vật đă xuất hiện theo một cung cách như thế, sự xuất hiện
có vẻ như để nhằm hoàn thành những điều kiện cần thiết cho sự sống
và ư thức được sản sinh. Điều mà họ biết được là những điều kiện này
rất chặt chẽ, và được hoàn tất ở trong vũ trụ này một cách khá ngạc
nhiên. Ngài chắc là có một quan điểm hoàn toàn khác biệt về vấn đề
này. Xin Ngài vui ḷng giải thích cho chúng tôi biết đôi điều về ư
thức trong mối tương quan của nó đối với sự vật và vũ trụ?
Tại sao theo quan điểm Phật giáo lại
không thể có một vị thần sáng tạo? Như ta được biết đă không cóbất
kỳ sinh vật nào ngay từ buổi đầu của vũ trụ bởi lẽ chính yếu là
nguyên nhân không thể có sự khởi đầu. Nếu vũ trụ có điểm khởi đầu
th́ ư thức cũng phải có điểm khởi đầu. Nếu chúng ta chấp nhận một
điểm khởi đầu cho ư thức ta đồng thời cũng phải chấp nhận rằng cái
nguyên nhân sản sinh ra nó cũng phải có điểm khởi đầu, tức là một
nguyên nhân đột biến cấu thành ư thức, và như vậy cuối cùng nó sẽ
dẫn ta đến không biết bao nhiêu là câu hỏi quan trọng khác. Nếu ư
thức phát khởi không do một nguyên nhân, hoặc bởi một cái nhân
thường hằng cố định, cái nhân đó phải luôn được hiện hữu trên một
căn bản thường hằng bất biến hay là chẳng bao giờ hiện hữu cả. Thực
tế cho thấy một hiện tượng hiện hữu một cách pha trộn chứng tỏ rằng
nó tùy thuộc vào nguyên nhân và điều kiện. Khi tất cả mọi điều kiện
chín mùi, một hiện tượng được khai sinh. Khi những điều kiện đó chưa
hoàn tất hay thiếu sót, hiện tượng sẽ không xuất hiện. Như nguyên
nhân không có điểm khởi đầu và có thể kéo lùi đến vô tận, tất cả mọi
sinh vật cũng thế. V́ vậy không thể có một đấng sáng tạo.
Bây giờ chúng ta hăy nh́n một hiện
tượng cụ thể, một tảng băng chẳng hạn. Chắc chắn là nó có điểm khởi
đầu. Nó được h́nh thành như thế nào? Thế giới bên ngoài xuất hiện
như là một hệ quả của những tác hành của con người đang sử dụng nó.
Những tác hành này, hay được gọi là nghiệp, được xuất phát từ những
ư hướng, động cơ thúc đẩy của những con người chưa hoàn toàn kiểm
soát được tâm ư ḿnh.
Tâm, trên căn bản là “người sáng tạo
nên thế giới”. Trong Kinh điển, tâm được mô tả như là một tác nhân.
Ở trên, ta đă biết rằng ư thức không có điểm khởi đầu, tuy nhiên ta
phải biết phân biệt giữa hai loại ư thức thô lậu và vi tế. Một số ư
thức thô lậu xuất hiện như là những bộ phận phụ thuộc của các sắc
uẩn, thể xác. Đây là chứng cớ khi ta khảo sát những trung khu thần
kinh khác nhau và chức năng vận hành của bộ óc, tuy nhiên khi đă hội
đủ tất cả các điều kiện sinh lư cũng không có nghĩa là đủ để sản
sinh ra ư thức. Để có được ư thức, nó cần phải có bộ phận để phản
ánh vàbiết được một đối thể xuất hiện, thế nên nó cần phải có một
cái nhân đồng thể chất với ư thức. Trong trường hợp này, để có thể
có được một cái quả có cùng thể chất, cái nhân đồng thể chất cơ sở
này trên căn bản sẽ phải là một ư thức vi tế. Chính cái ư thức hay
tâm vi tế này đă đột phá ra khỏi tế bào gốc ngay thời điểm mà ư thức
xuất hiện. Tâm vi tế v́ thế không thể có điểm khởi đầu. Bởi lẽ nếu
có điểm khởi đầu có nghĩa là tâm phải được sản sinh ra bởi một cái
ǵ đó không phải là tâm. Theo giáo lư của Mật tông Thời luân
(Kalachakra Tantra), ta phải đi lùi trở lại từ những phân tử của
khoảng không để t́m cái nhân đồng thể chất cơ sở này của thế giới
vật chất khách quan cũng như thể chất cuả mọi loài sinh vật.
Vũ trụ quan của Phật giáo được xây
dựng trên chu kỳ của vũ trụ thông qua bốn giai đoạn: thành, trụ,
hoại, không. Giai đoạn không là giai đoạn chuyển tiếp để từ đó h́nh
thành một vũ trụ mới. Trong giai đoạn không này, những phân tử của
chân không tồn tại, và từ những phân tử này một vũ trụ mới được
thành lập. Chính từ những phân tử này của chân không ta có cái nhân
đồng thể chất cơ sở của toàn bộ thế giới vật chất. Nếu ta muốn mô tả
sự h́nh thành của vũ trụ cũng như thân xác của con người, điều mà ta
cần làm là phân tích và thấu hiểu được cách thức qua đó tiềm lực
thiên nhiên của các hoá chất và các nguyên tố khác cấu thành vũ trụ
đă có khả năng tạo h́nh từ những phân tử chân không này. Chính trên
cơ sở tiềm lực đặc biệt của những phân tử này mà cấu trúc của vũ trụ
và thể xác của con người từ đó xuất hiện. Thế nhưng ngay từ thời
điểm mà những nguyên tố tạo nên thế giới bắt đầu dấy lên những kinh
nghiệm khác nhau về khổ đau và hạnh phúc giữa nhân sinh, ta không
thể không biết đến ư niệm về nghiệp lực -tức là những tác hành tích
cực hay tiêu cực mà con người gây nên và tích lũy từ quá khứ. Rất
khó có thể xác định được đâu là nơi mà sự biểu hiện tự nhiên của
tiềm lực của các yếu tố vật chất chấm dứt và đâu là nơi mà hệ quả
của nghiệp, tức là kết quả của tác hành quá khứ của ta bắt đầu. Nếu
bạn thắc mắc về mối liên hệ có thể xảy ra giữa nghiệp và môi trường
bên ngoài được h́nh thành do những định luật tự nhiên, đây chính là
lúc tốt nhất để giải thích nghiệp là ǵ.
Nghiệp trước tiên có nghĩa là hành
động. Ta phân biệt ra ư nghiệp tức là một loại nghiệp có gốc ở tâm,
mà yếu tố tinh thần gồm tác ư, hay ư hướng là chủ yếu. Ngoài ra c̣n
có thân nghiệp và khẩu nghiệp. Để hiểu mối quan hệ giữa thân, khẩu
và ư nghiệp với thế giới vật chất bên ngoài, thiết tưởng chúng ta
cần liên hệ đến các kinh sách mật tông. Mật tông Thời luân
(Kalachakra Tantra) giải thích rằng trong thể xác của ta, ở mức độ
thô thiển, vi tế và cực vi tế có đủ tất cả năm yếu tố cấu thành thế
giới vật chất. Thế nên trong bối cảnh này, tôi nghĩ rằng chúng ta
phải h́nh dung ra được mối quan hệ giữa thân, khẩu, và ư nghiệp của
ta với các yếu tố ngoại giới.
Với tư cách là một y sĩ , tôi có một
câu hỏi khác dành cho Ngài. Tại Pháp, đặc biệt là trong y giới,
chúng tôi thường nghe nhắc đến cuốn “Tử Thư của Người Tây Tạng.”
Những kỹ thuật y khoa hiện nay chẳng hạn như phương pháp làm kích
động trở lại, giải phẩu, ghép mô, và hóa học trị liệu trong việc
chữa trị ung thư, đều đưa đến ư niệm rằng cái chết của một bệnh nhân
là sự thất bại trên một lănh vực nào đó của y khoa. Cụ thể như tại
Pháp, 70 phần trăm tử vong đều xảy ra tại bệnh viện mà ở đó những
ngày cuối cùng của bệnh nhân thường được diễn ra tại pḥng hồi sinh.
V́ lẽ đó chúng tôi thường là không thảo luận với bệnh nhân về những
giây phút cận tử của họ; ngược lại mọi chuyện được làm như là để kéo
dài niềm hy vọng và ư chí cầu sinh của bệnh nhânï. Đồng ư rằng, điều
quan trọng là giữ cho niềm hy vọng không tàn lụi, tuy nhiên có một
số các nền văn hoá khác, nếu chúng tôi không lầm, kể cả truyền thống
Phật giáo, việc chuẩn bị cho người hấp hối là một phần nằm trong
quyền lợi và trách nhiệm của con người.
Theo quan điểm của Ngài th́ cái chết
là một sự kiện sinh vật học và y học , hay đơn thuần chỉ là một vấn
đề của cá nhân và tâm linh? Như vậy phải chăng là điều đúng đắn nếu
chúng ta làm đủ mọi cách trong năng lực của ḿnh nhằm cứu sống hay
tối thiểu là để kéo dài đời sống con người thêm vài ba năm? Hoặc
ngược lại, thật là bất công khi bỏ liều cho con người nằm chết trong
một khung cảnh kỹ thuật y khoa cao cấp, tách ĺa họ ra khỏi gia đ́nh
và bạn bè thân thuộc trong giờ phút cuối? Theo nội dung của một bản
báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới th́ đời sống không hẵn là tuyệt
đối tốt và cái chết cũng không hẵn là tuyệt đối xấu. Ngài có ư kiến
ǵ về vấn đề này? Và cuối cùng, những nỗ lực của giới y khoa Tây
phương nhằm ngăn ngừa cái chết là một vấn đề đáng nghi vấn đối với
Ngài? Ngược lại, nếu quan niệm rằng cái chết hoàn toàn thuộc về
người đang hấp hối cùng với bạn bè thân thuộc và gia đ́nh của họ,
th́ ở thời điểm nào người thầy thuốc nên rút lui? Và dưới những điều
kiện nào th́ chúng tôi phải thông báo cho bệnh nhân biết là họ sẽ
không tránh khỏi cái chết?
Điều trước tiên, chúng ta phải nhận
thức được rằng cái chết thực ra là một phần của đời sống và tự nó
không tốt mà cũng chẳng xấu. Trong cuốn “Tử Thư của Người Tây Tạng”
mà qúy vị vừa đề cập đến có nói như thế này: “Cái mà chúng ta gọi là
chết thuần tuư chỉ là một khái niệm.” Nói một cách khác, cái chết
tiêu biểu cho sự chấm dứt của ư thức thô lậu và cơ phận mà nó nương
tựa, tức là thể xác. Điều này chỉ xảy ra ở mức độ thô lậu của tâm.
Thế nhưng cả tử lẫn sinh không hề hiện hữu ở mức độ vi tế của thức,
được biết đến như là nguồn “linh quang trong suốt.” Dĩ nhiên, nói
chung chết là một cái ǵ đó làm cho người ta sợ hăi. Thế nhưng, dù
muốn hay không, chết là điều không thể tránh khỏi. Đó là lư do tại
sao trong lúc sống ta phải biết tập làm quen với cái chết, để đến
khi nó xuất hiện sẽ không làm cho ta bị kích động. Chúng ta không
thiền quán về cái chết một cách thường xuyên để hy vọng được chết
sớm; ngược lại, cũng giống như mọi người ta cầu mong cho thọ mạng
được kéo dài. Tuy nhiên như đă nói, chết là điều không thể tránh
khỏi, nếu ta biết bắt đầu chuẩn bị sớm, khi cái chết gần kề ta sẽ dễ
dàng chấp nhận nó.
Tôi nghĩ là không có một quy luật
tổng quát nào liên quan đến vấn đề săn sóc bệnh nhân trong pḥng hồi
sinh nhằm kéo dài đời sống của họ. Đây là một vấn nạn khá phức tạp,
đ̣i hỏi phải xem xét nhiều yếu tố trong khi nghiên cứu và tùy theo
từng t́nh huống, từng trường hợp đặc biệt để có những giải pháp
thích ứng. Cụ thể như nếu ta kéo dài đời sống của một người đang lâm
bệnh trầm trọng nhưng tinh thần của họ vẫn c̣n sáng suốt, chúng ta
đang giúp cho họ cơ hội được tiếp tục suy nghĩ theo cung cách mà một
con người có thể suy nghĩ. Chúng ta cũng nên quan tâm đến khía cạnh
nếu kéo dài đời sống có mang thêmlợi ích ǵ cho người bệnh hay
không, hay ngược lại chỉ làm cho họ khổ đau thêm cả thể xác lẫn tinh
thần, như gây thêm nỗi đau đớn hoặêc kinh hăi. Trong trường hợp
người bệnh đang hôn mê th́ lại là một vấn nạn khác. Ước muốn của gia
đ́nh bệnh nhân phải được cân nhắc tới cũng như gánh nặng tài chánh
gây ra do việc điều trị kéo dài. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn
cả là chúng ta cố gắng làm hết sức ḿnh để đảm bảo rằng người đang
hấp hối sẽ được ra đi trong yên tĩnh, với tất cả niềm thanh thản và
an b́nh nội tâm. Đồng thời cũng nên lưu ư đến khía cạnh người đang
hấp hối có hành tŕ theo một tôn giáo nào hay không. Nhưng cho dù
trường hợp nào đi nữa, có hay không có niềm tin tín ngưỡng, tôi tin
rằng con người tốt nhất vẫn là được chết trong an b́nh.
SẮC TƯỚNG VÀ
THỰC TƯỚNG
Chúng tôi đă có cơ hội may mắn được
nghiên cứu cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma về một số vấn đề liên quan
đến những cốt lỏi của khoa học thực nghiệm từ quan điểm của duyên
khởi. Trước khi chúng ta bắt đầu cuộc thảo luận này, xin Đức Đạt Lai
Lạt Ma vui ḷng giải thích vắn tắt cho chúng tôi về duyên khởi trong
triết học Phật giáo cũng như những ǵ Ngài hy vọng thu lượm được từ
hội nghị thảo luận khoa học này?
Thành thật mà nói tôi đă học hỏi được
rất nhiều điều qua những cuộc gặp gỡ với các nhà khoa học của đủ mọi
ngành cũng như đă gặt hái những lợi ích lớn lao từ những cuộc gặp gỡ
này. Một số những lư giải của Phật giáo cũng được chứng tỏ là rất
hữu ích đối với các nhà khoa học, tạo cơ hội để họ có thể nh́n vào
lănh vực chuyên môn của ḿnh từ một khung cảnh khác. Tôi tin chắc
hầu hết qúy vị ở đây đều có những kiến thức nhập môn về phương thức
tiếp cận của Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa, trước tiên
là ta nên giữ một thái độ hoài nghi, rồi kiểm chứng vấn đề, và cuối
cùng chỉ chấp nhận khi ta tin chắc là nó đúng sự thực. Ngay cả chúng
tôi -những người Phật tử, với ḷng kính ngưỡng vô biên với Đức Bổn
sư- cũng vẫn được quyền bác bỏ giáo lư của Đức Phật nếu t́m thấy
những mâu thuẫn ở trong đó. Như qúy vị thấy, chúng tôi được tự do để
có một tinh thần phê phán, ngay cả đối với giáo lư của ḿnh. Trong
một bối cảnh như thế, tôi thấy không có ǵ trở ngại khi có dịp được
đối thoại với các nhà khoa học hoặc ngay cả với những người duy vật
triệt để. Trái lại đây là một cơ may rất hữu ích.
Thêm vào đó, từ kinh nghiệm cá nhân,
qua những cuộc đối thoại như thế này phải nói là có một số ư tưởng
được chúng tôi đón nhận với sự biết ơn. Chắc chắn rằng tiến tŕnh
luận lư của chúng tôi vẫn không bao giờ được coi là đủ. Những chất
vấn gắt gao do đó sẽ giúp chúng tôi suy nghĩ sâu xa hơn về các chủ
đề được quan tâm và v́ thế rất là hữu ích. Đối với những người
trưởng thành trong môi trường văn hoá Phật giáo, một số khái niệm
đối với họ rất là hiển nhiên. Bởi v́ quá hiển nhiên chúng tôi đôi
lúc lơ đểnh không quan tâm đến sợi chỉ xuyên suốt tiến tŕnh luận lư
phức tạp đưa đến kết luận. Đó là lư do tại sao những chất vấn được
nêu lên từ những truyền thống đa dạng khác buộc chúng tôi phải nh́n
lại những vấn đề này trong một cách nh́n mới mẻ hơn.
Để bắt đầu, tôi xin được tŕnh bày vắn
tắt quan điểm của Phật giáo về duyên khởi. Chúng ta có thể hiểu
được nguyên lư này -c̣n được gọi là duyên sinh hay nhân duyên- trên
những mức độ khác nhau, bắt đầu bằng quan hệ nhân quả, hay là luật
nhân quả vốn được chấp nhận bởi Tứ Đại Thuyết Phái, tức là tất cả
bốn trường phái triết học lớn của Phật giáo (*). Một cách khác để
hiểu nguyên lư này khi ta nh́n vào mối dây quan hệ để thấy rằng cái
tổng thể luôn luôn tùy thuộc vào các thành phần của nó. Đúng như
vậy, tất cả mọi sự vật hiện hữu được coi như là một tổng thể, bao
gồm bởi nhiều yếu tố cấu tạo nên chúng. Bởi v́ chúng được cấu tạo
bởi nhiều thành phần, chúng phải lệ thuộc vào các thành phần đó. Sự
hiện hữu ban sơ của chúng tùy thuộc vào thành phần cấu tạo thế nên
chúng đă không hiện hữu một cách tự do, một cách độc lập.
(*) Chú thích của người dịch: Tứ đại
thuyết phái của Phật giáo được kể đến gồm: Kinh lượng bộ
(Sautrantika), Phân thuyết (Vaibhashika), Duy Thức học (Cittamatra)
và Trung Quán luận (Madhyamaka).
Để có thể có một sự giải thích rơ ràng
hơn về lư duyên khởi, thiết tưởng chúng ta nền đặt ḿnh vào khung
cảnh của những lư giải của Phật giáo về thực tại. Trước tiên, mọi
thể tướng có thể là thường hằng hoặc vô thường. Không thể có một khả
năng thứ ba. Trong các tướng vô thường, ta có sắc tướng hay c̣n được
gọi là “sắc”, và vô sắc tướng trong đó kể cả thể tướng thuộc về tinh
thần (tức là tâm), và các thể tướng trừu tượng, được biết như là
“phức tướng không liên hệ ǵ đến sắc và tâm.” Lư duyên sinh của sắc
tướng được xác định trong mối liên hệ với không gian, nói rơ hơn là
tùy thuộc vào chiều kích không gian. Lư duyên sinh của vô sắc tướng
được h́nh dung qua mối liên hệ với thời gian hoặc ngay cả với chiều
kích không gian. Tâm là một chuổi liên tiếp của các khoảnh khắc.
Chúng ta nói đến tâm tương tục. Chúng ta đề cập đến phức tướng không
liên hệ ǵ đến sắc và tâm, tuy nhiên chúng cũng lệ thuộc vào các
chiều không gian. Như về không gian vô phức tướng cũng thế, ta nói
đến phía nam, phía đông, v.v...
Tôi vừa tŕnh bày nguyên lư về duyên
khởi một cách tổng quát theo Trung Quán tông, tức Trung Đạo, bao gồm
cả hai chi phái, trong đó Quy-mậu biện-chứng phái (Prasangika) được
xem như là có tŕnh độ cao hơn. Trường phái này c̣n thêm vào những chú giải vi tế về những lư giải hiện hành liên quan đến lư duyên
khởi, nói đến tính chất không thể t́m thấy, “không thể phát hiện”
được của một số hiện hữu định danh. Nói một cách khác, thông qua
phương pháp phân tích ta đi t́m kiếm hiện tượng đằng sau sắc tướng,
điều chắc chắn là không thể t́m thấy được. Tuy nhiên nếu nói rằng
những hiện hữu này là không thể t́m thấy được sau khi trải qua một
tiến tŕnh phân tích, ta có nên đi đến kết luận rằng chúng không hề
hiện hữu? Để loại trừ kiến chấp theo lối hư vô chủ nghĩa này, câu
trả lời dứt khoát của ta là “Không.” Chúng -sắc tướng- hiện hữu,
nhưng không hiện hữu một cách độc lập mà trong mối quan hệ nhân
duyên với các sắc tướng khác, chẳng hạn như bằng cái tên gọi mà qua
đó chúng được định danh. Đây là phương thức căn bản nhất để hiểu rơ
nguyên lư về duyên khởi. V́ sắc tướng hiện hữu cho nên những danh
hiệu của chúng hiện hữu, và ngược lại. Tuy nhiên ta cũng nên lưu ư
rằng tất cả mọi sự vật được định danh bởi tâm không nhất thiết phải
hiện hữu. Thế nên điều khó khăn nhất là làm sao xác định được trong
số những vật do tâm gán đặt danh hiệu, cái nào là hiện hữu, cái nào
không. Ngay cả khi bác khước tính cách hiện hữu độc lập, tự do của
chúng, ta cũng phải tránh để không bị rơi vào chiếc bẩy sập của chủ
nghĩa tương đối cường điệu vốn quan niệm rằng tất cả mọi sự vật mà
tâm nhận biết được đều có thực. Vấn đề của chúng ta bây giờ là phải
xác định xem tiêu chuẩn nào có thể giúp ta nhận ra được những sắc
tướng, hiện tượng do tâm định danh là thực sự hiện hữu.
Giáo lư của Quy-mậu biện-chứng phái đề
ra ba tiêu chuẩn: Một hiện tượng do tâm nhận biết được xem là hiện
hữu, trước tiên nếu nó được chấp nhận ngay bởi trực giác, không biện
biệt; kế đó là, nếu trực giác này không mâu thuẩn với nhận thức
thông thường vốn tuân thủ các ước lệ; và cuối cùng, nếu sự hiện hữu
của nó không bị phủ nhận bởi óc phân tích vốn khảo sát thể dạng hiện
hữu cuối cùng của thể tướng. Căn cứ vào những tiêu chuẩn này mà ta
có thể xác định một thể tướng hiện hữu theo quy cách ước lệ hay
không. Những tiêu chuẩn này chỉ liên hệ đến cái tâm hiện đang nhận
biết đối thể mà thôi, và điều này nhắc nhở ta một lần nữa rằng không
có cái ǵ có thể hiện hữu một cách độc lập đối với cái tâm đang quán
sát nó.
Điều này buộc ta phải giới hạn khái
niệm về nhận thức thông thường. Tất cả mọi trường phái, ngoại trừ
Quy-mậu biện-chứng phái, quan niệm rằng nhận thức thông thường nắm
bắt đối thể của nó không hề sai lầm hay thiếu chính xác. Những
trường phái này không chấp nhận một sự thiếu chính xác nào đối với
nhận thức thông thường, trong khi đó Quy-mậu biện-chứng phái của
Trung Quán luận khẳng định rằng, mặc dù nhận thức thông thường không
thể bị sai lầm trong việc nhận ra đối thể được nắm bắt, thế nhưng
yếu tố thiếu chính xác vẫn có thể xảy ra ở một mức độ nào đó. Ta hăy
lấy thí dụ về trường hợp nhận thức thông thường liên quan đến tính
cách vô thường của âm thanh: kinh nghiệm này vốn chỉ xảy ra trong
mối liên hệ với đối thể được nắm bắt, tức tính cách vô thường của
hiện tượng âm thanh, đối với những người theo Quy-mậu biện-chứng
phái là thiếu chính xác, bởi v́ họ quan niệm đối thể của nó như vậy
đă được xác định như một hiện hữu tuyệt đối, độc lập. Tất cả các
trường phái khác đều chấp nhận sự hiện hữu tự thân của một thực tại
ước lệ. Thế nên đối với họ, sự nhận thức rằng hiện tượng được hiện
hữu theo cách thế như vậy là đúng đắn, chẳng khác ǵ nhận thức thông
thường là đúng đắn và chính xác từ mọi khía cạnh. Tuy nhiên đối với
Quy-mậu biện-chứng phái, chỉ có một nhận thức hoàn toàn chính xác,
không bao giờ sai lầm, là sự thực chứng trực tiếp và khả tín về tánh
không, tức là nhận thức không biểu kiến về bản thể tối hậu của hiện
tượng.
Như thế, tôi đă tŕnh bày một cách vắn
tắt về nguyên lư của duyên khởi.
Tôi xin được kể hầu Ngài một câu
chuyện có tính cách ngụ ngôn để so sánh giữa ngành vật lư cổ điển và
vật lư lượng tử. Câu chuyện như thế này, có một người thợ câu đang
câu cá trong một cái đầm nước rất đục. Theo cách nh́n cổ điển th́
đang có một con cá vô h́nh đang lội quanh đâu đó; nó vô h́nh bởi lẽ
đơn giản là nước quá đục. Dĩ nhiên anh ta có thể câu được nó và rồi
anh ta sẽ trông thấy nó mắc dính ở đầu dây câu. Trong cách nh́n này,
con cá đă được định vị một cách hoàn hăo và tác động hổ tương chỉ
xảy ra một cách cục bộ giữa nó và nước trong đầm. Tuy nhiên, cũng
con cá này, theo cách nh́n lượng tử, tan biến vào cả cái đầm và như
thế đă không c̣n được định vị một cách hoàn hăo. Tác động hổ tương
lúc này là với toàn bộ cái đầm, ở mọi thời điểm. Trong một vài
trường hợp nó có thể có một tác động hổ tương mạnh mẽ hơn, với toàn
thể đại dương chẳng hạn. Nếu người thợ câu t́m cách bắt con cá này,
một hiện tượng định vị hóa xảy ra, và rồi anh ta sẽ thấy một con cá
b́nh thường mắc dính ở đầu dây câu. Thế nhưng khi anh ta để con cá
lên bải cỏ, con cá một lần nữa lại tan biến đi ngay khi anh ta không
c̣n nh́n đến nó.
Ngài có tin rằng với cách nh́n lượng
tử này, qua đó mỗi phân tử cực nhỏ có được một nhận thức về toàn thể
không gian bao quanh ḿnh, như được mô tả bởi toán học cơ bản, là
phong phú hơn so với cách nh́n cổ điển? Ngài có nghĩ rằng nó có thể
làm sáng tỏ ư niệm về bộ phận và tổng thể đa hợp trong một cách nh́n
vi tế hơn là lối tiếp cận cổ điển? Chúng tôi rất thích thú được nghe
ư kiến của Ngài trên quan điểm lượng tử liên quan đến duyên khởi.
Tôi cảm thấy rằng, ở một mức độ rất
sâu sắc, đă có một vài điểm đồng quy giữa quan điểm lượng tử về thực
tại và giáo lư Phật giáo về duyên khởi, tuy nhiên thành thực mà nói,
tôi chưa hiểu rơ lắm về quan điểm lượng tử, dù rằng tôi đă cố gắng
hết sức nhưng vẫn gặp phải một số khó khăn! Thế nên tôi không cảm
thấy chắc chắn cho lắm để thiết lập một sự so sánh song song về
lănh vực này. Tuy nhiên theo cách diễn tả của bạn, h́nh như đă có
những điểm tương đồng giữa quan điểm lượng tử về thực tại và quan
điểm đặc biệt của một trong những trường phái triết học Phật giáo,
Duy Thức học.
Theo quan điểm của trường phái này,
thế giới khách quan, tức vũ trụ vật lư không được cấu thành ở bên
ngoài mà tất cả chỉ là do tâm tạo. Để bênh vực cho lư thuyết này, họ
đă dùng những lư luận về tính đồng thời giữa đối thể và nhận thức
nắm bắt nó. Nói một cách khác, bất cứ lúc nào bạn quan sát một sự
vật, sự quan sát đối thể và đối thể được quan sát cộng hưởng cùng
nhau. Như vậy, đối thể chỉ hiện hữu khi nào nó được nhận biết. Tuy
nhiên Quy-mậu biện-chứng phái đă không chấp nhận quan điểm này, cho
rằng thế giới khách quan bên ngoài chẳng là ǵ khác hơn một sự phóng
chiếu đơn giản của tâm, và từ đó đă đưa đến vô số những mâu thuẩn
trong triết lư lẫn luận lư.
Tôi nghĩ là chúng ta có thể thiết lập
lên một mối liên hệ song hành khá thích thú giữa ngành cơ học lượng
tử vốn cho rằng thực tại được mô tả như là ở thể lỏng thay v́ thể
rắn, với một lối thiền đặc biệt quán sát trên sự vật, qua đó người
hành thiền tập trung sự chú tâm của ḿnh vào bản thể của một đối
tượng ở một mức độ cực kỳ tinh tế như là một sắc tướng được cấu
thành bởi vô số lượng những phân tử. Sau một thời gian thiền quán,
sự nhận thức về những phân tử cấu thành đối tượng trở nên sắc bén
đến độ hành giả không c̣n cảm nhận thấy thể rắn chắc của đối tượng
ngay cả khi sờ vào nó, trong khi những người khác vẫn tiếp tục cảm
nhận sự rắn chắc của cùng một đối thể. Những người thực hành thiền
định thường có những thực chứng này đối với thế giới vật chất; đây
không phải là một sự miêu tả thuần lư thuyết.
Tiếp tục nói thêm một số kinh nghiệm
về thiền định, trong đó có khả năng là con người có thể di chuyển
trong không gian. Không gian được định nghĩa như là một khoảng chân
không, không thể sờ mó tiếp xúc, và không bị ngăn trở chướng ngại.
Mặc dù nó không được cấu thành bởi các nguyên tố vật chất thô lậu,
nếu hành giả tập trung thiền quán về vô lượng phân tử cấu thành
không gian -ví dụ như các bộ phận chiều kích, thể rắn chắc vi tế của
các phân tử này- và bởi v́ nó không thể trùng lặp, hành giả sau một
thời gian nỗ lực tinh chuyên tập luyện, có thể đạt đến khả năng bước
lên chúng. Ở đây chúng ta đang nói chuyện trên quan điểm thực chứng
của một hành giả tu tập thiền định và bởi v́ những sự kiện có vẻ như
bất thường này xảy ra trong cảnh giới của kẻ hành thiền, nên cũng sẽ
là một điều thích thú để được biết ngành cơ học lượng tử có thể giải
thích như thế nào về những hiện tượng như vậy.
Trong khi thực hành, nhà vật lư không
phải là một người máy và cũng không phải là một chiếc máy vi tính.
Cho dù chúng ta có thể sử dụng người máy để vận hành một cái
pít-tông và tính toán đủ mọi chuyện bằng một chiếc máy vi tính, nhà
vật lư học cũng chỉ là một con người. Một người nào đó đang cố gắng
t́m một phương cách đúng đắn để đương đầu với một vấn nạn chắc hẵn
là không ở trong t́nh huống hoàn toàn khách quan và hợp lư -họ chỉ
nhắm vào những ǵ cần phải được khám phá. Chúng ta luôn luôn có
những khát vọng, kể cả khát vọng t́m kiếm chân lư vốn can dự vào nỗ
lực khám phá lẽ phải và cách thức chúng ta đương đầu với hoàn cảnh,
mà thực ra nếu có thể được, ta muốn thực hiện công cuộc thí nghiệm
của ḿnh một cách vô tư như một người máy.
Câu hỏi đặt ra như thế này: Đối với
tôi h́nh như làm việc trong lănh vực vật lư đ̣i hỏi tinh thần của
một nhà tu khổ hạnh. Chủ nghĩa khổ hạnh theo chúng tôi quan niệm là:
nhắm đến việc kiểm soát những khát vọng để có thể phục vụ chân lư
một cách tốt hơn. Điều trước tiên xin hỏi Ngài, chúng tôi có thể
dùng chữ “chủ nghĩa khổ hạnh”, một từ ngữ có thể rất là Tây phương
để diễn đạt vấn đề này? Đồng thời xin Ngài vui ḷng cho biết ư kiến
về những ư niệm này đối với lư duyên khởi và cách thức mà chúng tôi
ứng xử.
Thực ra những vấn nạn mà qúy vị mô tả
trong các công cuộc thí nghiệm và khảo cứu của ḿnh về bản tánh của
thực tại cũng là những vấn nạn mà tất cả chúng ta phải đối đầu trong
cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta phải chờ đợi cho đến khi hiểu biết
cặn kẻ tất cả mọi yếu tố làm nên thực tại trước khi hành động th́ có
lẽ chúng ta chẳng bao giờ hành động cả! Thế nên chúng ta phải t́m ra
một sự thỏa hiệp.
Tôi có cái cảm giác rằng thật khó mà
đạt đến mức độ mà ta có thể có được một mô tả hoàn chỉnh và dứt
khoát về thực tại. Mặc dù tôi không hoàn toàn bác bỏ sự mô tả về
thực tại bởi ngành cơ học lượng tử, h́nh như đối với tôi ngay trong
cốt lơi của cái thực tại này, bản thể ở cái mức vi tế nhất vẫn không
thể tiên liệu được. Khi chúng ta cố gắng t́m kiếm những quy luật để
lư giải những tác động, chúng có vẻ như không có ư nghĩa ǵ cả. Có
những đổi thay đột biến không thể nào giải thích được, có vẻ như
xảy ra do sự t́nh cờ hay bởi những nguyên cớ nào đó mà ta không hiểu
nỗi. Bởi lẽ đó, với tư cách là một người Phật tử tôi tự hỏi để có
thể giải thích được cái yếu tố can thiệp vào những đổi thay đột biến
này có thể không phải là nguyên lư nghiệp lực hay là luật nhân quả.
Một cách chính xác hơn, h́nh như việc không thể tiên liệu được như
thế có thể được giải thích bởi sự hiện hữu của những yếu tố c̣n vi
tế hơn nữa đă ảnh hưởng lên tác động này thay v́ những yếu tố mà ta
đă từng quan sát, cũng như bởi nghiệp lực có thể đóng một vai tṛ
trong đó. Ta cũng nên biết rằng, hậu quả của nghiệp không thể đo
lường được về lượng cũng như về phẩm.
Loại thực tại nào, nếu quả có một thực
tại như thế, Ngài cảm thấy cần được nêu ra ?
Câu trả lời của Phật giáo về câu hỏi,
“Cái ǵ đúng là thực tại?” rất là giản dị và trực tiếp, đó là bản
tánh duyên sinh! Khi ta dùng chữ “thực tại” trong khung cảnh Phật
giáo, ta cũng cần phải nêu rơ mức độ thực tại nào mà chúng ta muốn
đề cập đến. Nếu chúng ta muốn nói đến mức độ của thế giới hiện
tượng, c̣n được gọi là thực tại tương đối hay thực tại ước lệ, ta có
thể mô tả thực tại này dưới những tên gọi rất phức tạp và rất chi
li. Tuy nhiên trên mức độ tổng quát, để mô tả những nét tổng quát
của thực tại và bản tánh rốt ráo của nó, ta có thể thấy rằng một bên
nó không được tạo thành do những đặc tính của chính nó tức không
phải là một hiện hữu tự thân hay tuyệt đối; c̣n một bên nó mang bản
tánh duyên sinh. Trong ngôn ngữ Phật giáo, cả không tánh (hay không
phải hiện hữu tự thân) lẫn duyên sinh là hai bề mặt của một đồng
tiền.
Khi chúng ta đề cập đến thực tại trên
mức độ của sự thật ước lệ, chúng ta bước vào một cảnh giới hết sức
phức tạp. Chẳng hạn như khi ta chất vấn những triết gia Phật giáo về
định nghĩa của một đối thể đặc biệt nào đó, họ sẽ cho ta một định
nghĩa rất chặt chẽ, khả tín về đối thể đó, kể vanh vách những yếu tố
phụ thuộc của nó. Họ sẽ cho ta biết những đặc tính chính yếu của đối
thể và không quên chêm vào câu, “trong số những thứ khác.” Thế nhưng
nếu ta chỉ ra cho họ thấy rằng cái danh sách mà họ nêu ra đó chưa
được đầy đủ lắm, họ sẽ trả lời rằng một danh sách như thế chắc là
phải bao gồm toàn bộ thế giới hiện tượng bởi v́ đối thể được hiện
hữu trong mối quan hệ với tất cả chúng.
Đối với chủ đề này, thiết tưởng một
điều khá quan trọng là ta phải hiểu được mối quan hệ giữa ngôn ngữ
và ư niệm đối với hiện tượng, sắc tướng. Đây là một vấn đề nói chung
khá phức tạp. Theo luận lư Phật giáo, ngôn ngữ và ư niệm nhận thức
thực tại thông qua một tiến tŕnh loại trừ những ǵ được coi là
không phải thuộc về đối thể. Ngôn ngữ và ư niệm xác định một đối thể
bằng một tiến tŕnh loại trừ hiện thể khác chứ không phải đưa ra một
khẳng định đơn giản.
Cụ thể như nhận thức biểu kiến -nhận
thức thông qua h́nh ảnh được ghi nhận ở trong tâm- về một cái b́nh
chẳng hạn, được xảy ra sau khi tâm đă loại trừ những ǵ không phải
là cái b́nh. Và như vậy để có một định nghĩa hoàn chỉnh về một đối
thể, điều cần thiết là ta phải kể ra toàn bộ các hiện tượng không
phải và không thuộc về đối thể, đó là điều không bao giờ có thể xảy
ra.
Những câu trích dẫn sau đây cho thấy
sự khó khăn như thế nào để phân biệt giữa cơ học lượng tử và nhận
thức Phật giáo. Trước tiên, từ kinh điển Phạn ngữ:
Vasha hỏi Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn,
Ngài khẳng định rằng linh hồn của bậc thánh nhân tồn tại sau khi
chết?”
“Ta không khẳng định rằng linh hồn của
bậc thánh nhân tồn tại sau khi chết.”
“Bạch Đức Thế Tôn, Ngài khẳng định
rằng linh hồn của bậc thánh nhân không tồn tại sau khi chết?”
“Ta không khẳng định rằng linh hồn của
bậc thánh nhân không tồn tại sau khi chết.”
“Bạch Đức Thế Tôn, bậc thánh nhân sẽ
được tái sanh ở đâu?”
“Không phải là điều thích hợp để nói
rằng bậc thánh nhân sẽ được tái sanh.”
“Bạch Đức Thế Tôn, như vậy bậc thánh
nhân sẽ không tái sanh?”
“Không phải là điều thích hợp để nói
rằng bậc thánh nhân sẽ không tái sanh.”
Bây giờ là một trích đoạn
từ cuốn “Khoa học và Nhận thức” của Oppenheimer:
Khi ta hỏi, ví dụ như, vị trí của các
hạt điện tử luôn luôn giống nhau, ta phải nói là không. Khi ta hỏi
phải chăng vị trí của các hạt điện tử luôn luôn thay đổi qua thời
gian, ta phải nói là không. Khi ta hỏi phải chăng vị trí của các hạt
điện tử luôn luôn ở thể tỉnh, ta phải nói là không. Khi ta hỏi phải
chăng vị trí của các hạt điện tử luôn luôn ở thể động, ta phải nói
là không.
Và cuối cùng, Maiyetri,
một vị hoàng hậu triết gia của Ấn Độ cổ, hơn 3,000 năm trước đây khi
đi t́m bản chất của thực tại, đă phát biểu:
Xin hăy dẫn dắt tôi từ chỗ hăo huyền
đến nơi chân thực.
Xin hăy dẫn dắt tôi từ chỗ tối tăm đến
nơi ánh sáng.
Xin hăy dẫn dắt tôi từ cái chết đến sự
sống đời đời.
Phải chăng những chân lư
khoa học đă vén màn bí mật về cấu trúc của vụ trụ mà những sự thật
được dấu kín của nó được khai quật giống như những kho tàng của tiền
nhân để lại? Hay chúng tôi, những nhà khoa học, cụ thể là những nhà
vật lư học, chẳng khác ǵ một ảo thuật gia móc những con thỏ được
chúng tôi dấu kín ra từ những chiếc nón của ḿnh? Một người Phật
giáo thứ thiệt có thể nói rằng cả chiếc nón lẫn con thỏ đều không
thật. Tôi có thể thêm vào rằng ảo thuật là thật. Ngài nghĩ như thế
nào?
Trong số những phẩm chất
của Đức Thế Tôn được mô tả lại trong kinh sách Phật giáo, có nói đến
khả năng toàn tri toàn giác. Vâng, chỉ có sự toàn tri toàn giác khi
nào ta có cái ǵ đó để tri và giác. Cũng trong những kinh sách này
có viết rằng những sự vật được nhận thức luôn có hai mặt: bản tánh
rốt ráo của chúng và thực tại tương đối hay ước lệ. Ta cũng t́m thấy
những lời khẳng định của các bậc đại sư Ấn Độ, cụ thể là Thánh giả
Long Thọ như thế này: “Chỉ thông qua nhận thức về nhị đế mà một
người có thể đạt đến sự giải thoát hoàn toàn. Nếu ta không lưu tâm
đến điều này, ta không thể đạt đến giải thoát.” Sự khác biệt giữa
giải thoát (Phạn ngữ: moksha), tức là t́nh trạng được giác ngộ, và
đối cực của nó, vô minh, tức là t́nh trạng ngu tối và nô lệ, chính
là sự hiểu biết hay u mê của ta về bản tánh rốt ráo của hiện tượng
-Không tánh.
Để diễn tả sự toàn tri toàn giác của
một vị Phật, ta nói đến hai mươi mốt loại trí tuệ căn bản và xuyên
suốt, được chi tiết hoá qua 146 loại trí tuệ siêu việt. Tất cả điều
này đều được đặt căn bản trên sự giả định rằng có một cái ǵ đó để
cho ta nhận thức, nếu không, ta không thể nào nói đến kiến thức hay
trí tuệ.
Đoạn trích dẫn ở trên được rút ra từ
một bản kinh có nội dung đề cập đến 14 câu hỏi được nêu ra mà không
có câu trả lời. Trong một tác phẩm của ḿnh, “Tuệ Căn Luận”
(Prajnamula), Thánh giả Long Thọ đă bàn luận khá sâu về chủ đề này
và đưa ra một số tiêu chuẩn để ta có thể hiểu được tại sao Đức Phật
đă không trả lời về một số câu hỏi. Trong số đó, Thánh giả Long Thọ
đă giải thích rằng khi đưa ra một câu trả lời khẳng định hay phủ
định cho một câu hỏi mà hậu quả là có thể dẫn dắt người đối thoại
đến chỗ chấp thường hay chấp đoạn, Đức Phật giữ thái độ im lặng.
Cũng như thế, ta có thể t́m thấy trong
luận lư Phật giáo, bốn cơ sở luận lư được áp dụng vào ư niệm về
không tánh có thể cho phép chúng ta đi đến kết luận rằng bốn tà kiến
được loại bỏ. Bốn biên kiến này là hiện hữu tuyệt đối, hoàn toàn
không hiện hữu, tuyệt đối lẫn hoàn toàn không hiện hữu, và không
hiện hữu tuyệt đối cũng không hoàn toàn không hiện hữu. Nếu một thể
tướng đă không hiện hữu ở mức độ ước lệ, th́ với lư luận như thế,
đặc biệt làtrên quan điểm của biên kiến về hoàn toàn không hiện
hữu,th́ nó hẵn là không phục vụ cho một mục tiêu nào cả. Câu trả lời
của tôi về câu hỏi này là, có sự hiện hữu của một thực tại của thể
tướng mà ta có thể nhận thức, tiếp cận được.
Đối với vấn đề hiện hữu và không hiện
hữu, Thánh giả Long Thọ đă phát biểu một cách rơ ràng ở một trong
những tác phẩm của Ngài rằng, phủ nhận sự không có hiện hữu tự thân
cũng giống như khẳng định có sự hiện hữu tự thân. Đây là một nguyên
tắc lư luận được áp dụng cho các thể tướng với bản thể mâu thuẫn
trực tiếp, qua đó không những sự phủ định một điều bao hàm sự khẳng
định điều ngược lại mà c̣n loại bỏ một khả năng thứ ba có thể được
hiện hữu. Ngài Liên Hoa Giới (Kamalashila), một đệ tử của đại luận
giả Shantirakshita đă bảo vệ quan điểm tương tự trong tác phẩm
“Trang Nghiêm Trung Luận.” Lập trường của Quy-mậu biện-chứng phái
thuộc Trung Quán tông về vấn đề bản tánh của thực tại phức tạp hơn.
Nó bác bỏ tự thân, độc lập tính thông thường được gán cho thể tướng.
Thể tướng hiện hữu nhưng là do duyên sinh , các sự gán đặt danh hiệu
cũng thế. Thế nên không thể căn cứ vào điểm này để kết luận rằng
bất cứ những ǵ do tâm h́nh dung ra đều hiện hữu. Không những không
thể có chuyện mọi sự được tâm nhận biết hiện hữu, mà ngay cả nghiệp
quả cũng chỉ có một tác động giới hạn. Nói một cách cụ thể, luật
nhân quả không can dự vào ở một mức độ nào đó của thực tại. Triết
học Phật giáo h́nh dung ra bốn nguyên tắc căn bản, kể cả về bản tánh
đặc biệt của một hữu thể. Lấy thí dụ về sự tương tục: sự kiện mà
những khoảnh khắc về trước đưa đến những khoảnh khắc tiếp theo là
một tiến tŕnh tự nhiên chẳng dính líu ǵ đến nghiệp lực cả.
Như thế ta đă nhận ra, theo Trung Quán
- Quy Mậu Biện Chứng phái, làm thế nào chúng ta phải thực hiện sự
“đi dây” và t́m ra một con đường trung dung giữa biên kiến chấp đoạn
cho rằng thể tướng không hiện hữu, và biên kiến chấp thường quan
niệm rằng thể tướng có một hữu thể mang tính chất độc lập và tuyệt
đối.
Vấn đề duyên khởi không phải chỉ đặt
ra cho t́nh trạng của những đối tượng của từng giới -ví dụ như những
đối tượng của giới vật lư- nhưng nói chung cũng là t́nh trạng của
mỗi một trong những giới này, mà trong một mức độ nào đó được xem
như là một kết quả thực tiễn của những cấu trúc tượng trưng, những
chiến lược luận đàm, những tác động hổ tương trong thực hành. Tôi đă
không có câu trả lời cho vấn đề này nên xin được nêu lên một câu hỏi
cùng Đức Đạt Lai Lạt Ma. Có hay không những điểm gặp gỡ giữa lư
thuyết bất nhị của tư tưởng Phật giáo, sự khẳng định của nó về tánh
không hoặc sự vắng mặt của nguyên nhân cơ bản với luồng tư tưởng
hiện đại, được chúng tôi đặc tính hoá như là sự nắm bắt tương đối về
đối thể, một sự nhận thức tương đối về chân lư, và sự chấp nhận tính
cách đa dạng của sự hợp lư hoá cũng như sự phong phú vô hạn của thế
giới ?
Trong khung cảnh của câu hỏi mà bạn
vừa nêu, trên quan điểm Phật giáo, tôi muốn khẳng định thêm một lần
nữa về sự cần thiết phải bảo tồn một con đường trung dung giữa hai
biên kiến chấp thường và chấp đoạn, một quan điểm trung dung khả dĩ
khẳng định sự hiện hữu của thể tướng như là một sự định danh nhưng
đồng thời cũng hoàn toàn bác bỏ sự hiện hữu tuyệt đối. Theo quan
điểm của Quy-mậu biện-chứng phái, cái nh́n triết học này được xem
như là khó thực hiện nhất. Nói một cách khác, sự khó khăn không phải
hoàn toàn nằm ở chỗ phủ định sự hiện hữu tự thân của thể tướng nhưng
đồng thời cũng là sự nhận thức về những ǵ c̣n lại ở đàng sau, cái
thặng dư.
Khi ư niệm về nhị nguyên tính được gợi
lên trong bối cảnh Phật giáo, những ư nghĩa khác nhau của từ này cần
phải được lưu ư. Chẳng hạn như, ta có thể nói đến một ư thức bất nhị
của sự nhận thức cả hai thứ chân lư, tương đối và rốt ráo trong cùng
một lúc; ta có thể nói đến một ư thức bất nhị bao hàm ư nghĩa như là
một trực giác về đối thể mà không qua trung gian của một h́nh ảnh
trong tâm trí; và cuối cùng, ta cũng có thể nói đến một ư thức bất
nhị mang ư nghĩa rằng đối thể của nhận thức không c̣n xuất hiện như
là một thực thể độc lập, tự do. Mức độ tột cùng của bất nhị là trí
tuệ siêu việt - là vô niệm, nhất như. Trí tuệ này xuất hiện như là
một phần của thực chứng thiền định, không hề liên hệ đến loại nhận
thức thông thường về một thực tại ước lệ.
Nhân đây tôi cũng rất hân hạnh được
phát biểu đôi điều về những ǵ tôi đă được lĩnh hội qua những cuộc
tranh luận của các thành viên trong hội nghị này. Tôi có cảm giác
rằng, có thể là tôi sai lầm, ư thức hệ Tây phương đang có khuynh
hướng chuyển từ một thái cực này sang một thái cực khác. Có vẻ như
những khuôn mẫu cổ điển của khoa học và kỹ thuật, trong quá khứ đă
phải chịu một sức ép của nhu cầu đi t́m kiếm những nền tảng vững
chắc và những sự thật tuyệt đối, một điều mà cho đến nay người ta
thấy chỉ là những cố gắng vô ích. Thế nên bây giờø có một tiến tŕnh
hoàn toàn đảo ngược, người ta hướng đến một cực đoan khác, chủ
nghĩa tương đối, cho rằng không có ǵ hiện hữu lâu dài, và kể cả có
thể không có cả một thực tại như thế! H́nh như đă không có một khu
vực tiếp cận trung gian nằm giữa hai trạng thái cực đoan này được
người ta quan tâm đến. Đó là những điều màtôi đă được mục kích.
Người ta cũng thường nói đến những khác biệt giữa nhận thức của ta
về thế giới bên ngoài và thực tại, ư niệm về sự mâu thuẫn giữa thái
độ một bên ta nh́n thế giới và một bên thể tướng hiện hữu cho phép
ta suy ra sự hiện hữu ở một mức độ nào đó của thực tại.
Xin tiếp tục câu hỏi kế tiếp!
Một sự kiện được ghi nhận là trong
truyền thống của Ngài có nói đến sự hiện hữu của t́nh trạng trong
suốt, và cũng đă có những tường tŕnh về trường hợp của những người
thực chứng được t́nh trạng vi tế này của tâm, câu hỏi của chúng tôi
gồm hai phần: Trước tiên, về mặt lư thuyết Ngài có nghĩ rằng trạng
thái vô thức của tâm như thế có thể được quán sát bởi những phương
tiện ngoại giới? Cụ thể như, nếu ta đặt một thiền giả trong t́nh
trạng đă đạt đến nguồn linh quang trong suốt vào một trong những
chiếc máy hiện đại của chúng ta với từ trường cộng hưởng, sử dụng kỹ
thuật năo -động-kư, chúng ta có thể ghi nhận được một cái ǵ đó như
là những dấu hiệu của t́nh trạng vi tế này? Có thể là chúng ta chưa
biết cách phải làm như thế nào, tuy nhiên trên mặt lư thuyết Ngài có
tin rằng điều này có thể xảy ra?
Nếu đúng như vậy th́ theo ư kiến của
Ngài, mối quan hệ giữa hai mức độ, thô và tế, trong phạm trù của
duyên khởi sẽ như thế nào? Dĩ nhiên là chúng tôi không muốn rơi vào
một chủ nghĩa nhị nguyên mới, của thô và tế. Chúng tôi muốn biết bản
chất của mối quan hệ nhân quả giữa hai mức độ này là cái ǵ?
Theo tôi nghĩ, có thể là điều rất khó
khăn để đo lường một hoạt động đặc biệt nào đó của tâm vừa bao gồm
cả sự phản ánh một đối thể đồng thời nhận biết nó. Tuy nhiên qua
những kinh nghiệm được biết về ư thức thô lậu xuất hiện trong hoạt
động của năo bộ và do đó có thể quan sát được, h́nh như người ta có
thể nghiên cứu được những biểu kiến vật lư về những trạng thái vi tế
hơn của tâm thức. Mức độ vi tế của thức, được biết dưới tên gọi là
“nguồn linh quang trong suốt”, xuất hiện đồng thời cùng với những
thứ khác ngay khoảnh khắc khi ta chết. Những người có tŕnh độ tu
chứng có thể kéo dài t́nh trạng này một cách tự nguyện nhiều ngày
sau khi chết và trong thời gian này thể xác của họ sẽ không bị thối
rửa. Các phương tiện khoa học tối tân hiện đại có thể quan sát được
hiện tượng này và thực ra đă được đem ra thực hiện tại Ấn Độ. Mặc dù
đối với tôi h́nh như quả là điều khó khăn khi sử dụng những phương
pháp này để quan sát toàn bộ t́nh trạng vi tế của tâm thức, thế
nhưng tôi nghĩ điều này có thể mang lại cho ta một ư niệm.
Để trả lời cho câu hỏi thứ hai liên
quan đến mối quan hệ giữa thô lậu thức và vi tế thức, thiết tưởng
bạn cần nên biết rằng mức độ vi tế của tâm thức tùy thuộc một phần
vào mức độ vi tế của bộ phận thể chất nâng đỡ nó cũng như vào các bộ
phận chức năng tương ứng, tức lục căn. Tuy nhiên cái bộ phận được
chia xẻ bởi tất cả ư thức -vừa phản ánh vừa nhận biết đối thể- có
xuất xứ từ vi tế thức. Bằng cách này ta có thể hiểu được mối liên hệ
căn bản giữa mức độ vi tế và thô lậu của tâm thức. Cảm thụ và ư thức
được sản sinh tùy thuộc vào những bộ phận chức năng tương ứng với
mỗi thành phần của lục căn: nhăn căn cho ta thị giác; ư căn cho ta ư
thức, v.v... Bởi v́ bộ phận nâng đỡ chúng ở trong t́nh trạng thô
lậu hơn, cảm thức xúc giác được coi như thô lậu hơn so với ư thức.
Tuy nhiên tất cả đều có khả năng phản ánh và nhận biết đối thể, một
khả năng được bắt nguồn từ nền tảng cơ sở là vi tế thức, tức là
nguồn linh quang trong suốt. Những kinh sách của Phật giáo Mật tông
có đề cập đến cách thức mà qua đó những mức độ của thô lậu thức được
nối kết với vi tế thức. Chẳng hạn như kinh sách đă giải thích rơ
bằng cách nào mà tám mươi t́nh trạng của ư thức tương ứng với bốn
cấp độ của việc thẩm thấu thô lậu thức vào vi tế thức được xảy ra
trong khi chết. Những sợi dây nối kết giữa những mức độ khác nhau
của tâm cũng đă được minh hoạ chi tiết, tuy nhiên đây là một chủ đề
khá phức tạp và rất khó khăn để có thể đi sâu vào trong lúc này.
Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến vấn đề
thực chứng giá trị của các thể tướng bởi ư thức, và qua đó những
điều kiện nhân duyên hợp nhất chúng. Tạm thời để qua một bên một số
những tương đồng -khá thích thú- giữa Phật pháp và nền khoa học hiện
đại, chúng tôi muốn biết Phật giáo có thể cống hiến thêm những ǵ cơ
bản hơn cho phương Tây. Đặc biệt chúng tôi đang nghĩ đến khía cạnh
thực hành thiền định: với một tâm thức rộng mở và ư thức về không
gian và thời gian được đổi mới có thể cho ta những thông tin khoa
học có khả năng mở cửa vào một “thực tại” thực sự có ư thức hơn, để
cho khoa học không c̣n thuần túy chỉ là chuyện “giả tưởng” đầy hấp
dẫn liên quan đến các đề tài vật chất/năng lượng, không gian/chiều
thời gian, sự vô thực thể của hiện tượng, v.v...
Tôi không có câu trả lời ngay lập tức
cho câu hỏi này, tuy nhiên có một số gợi ư sau đây xin được nêu lên
cùng qúy vị. Quả thật là một điều khá thích thú khi được liên hệ
những ư tưởng này với một số loại thể tướng được đề cập đến trong
một số kinh văn Phật giáo. Ta có các loại sắc tướng, danh sắc không
do các vật chất thô lậu cấu thành (một trong những đặc tính của nó
là rắn chắc) mà là những thể dạng vi tế, được sắp xếp vào năm loại
chính. Loại thứ nhất là những thể dạng bắt nguồn từ sự tập hợp của
vô số lượng phân tử cực kỳ nhỏ chẳng hạn như nguyên tử. Chúng được
mô tả là có h́nh cầu nhưng không thấy đề cập đến màu sắc. Kế đến là
loại thức tướng về khoảng chân không, mà theo nhận thức thông
thường, sự xuất hiện của chúng được biết như là bầu trời. Tôi nghĩ
rằng khoa học hiện đại có thể cung cấp nhiều lư giải về đề tài này
và đă thành công trong việc làm cho chúng trở nên dễ dàng lănh hội
hơn. Trong thực tế, nó sẽ là những phân tử của chân không hay của
ánh sáng? Hai loại thể tướng vi tế này được hầu hết mọi người chấp
nhận và không phải là những sản phẩm do tâm tạo.
Loại thể dạng vi tế thứ ba bao gồm
những ǵ mà ta có thể h́nh dung ra và chỉ có thể xuất hiện trong khi
đang hành thiền, tuy nhiên chỉ có hành giả là có thể thấy được chúng
cũng như chúng không có khả năng thực hiện các chức năng thông
thường. Loại kế tiếp là những thể dạng được sáng tạo do năng lực của
chỉ quán; đây là những thể tướng có xuất xứ từ các yếu tố của tứ đại
(đất, nước, gió, lửa,) thông qua công năng tu tập thiền định, những
người hành tŕ đă thành công xuất sắc trong việc khai phá được năng
lực tập trung tư tưởng của họ. Những thể tướng này không những được
thể nghiệm bởi chính người hành thiền mà c̣n cả với những người
khác. Chẳng hạn như với lối thiền định này, hành giả có thể tạo ra
lửa -lửa với đầy đủ chức năng của nó là đốt cháy và phát nhiệt. Có
vẻ như là một điều lạ kỳ khi thể dạng này được tạo ra bằng thiền
định. Tôi không biết được một cách chắc chắn làm thế nào để lư giải
hay hiểu được chuyện này. Tuy nhiên tôi biết là chúng không hiện hữu
lâu dài sau khi được tạo nên, có thể chỉ kéo dài trong khoảng thời
gian hành thiền. Các loại thể dạng thứ ba và thứ tư vừa được đề cập
ở trên xin được gởi đến cho các nhà khoa học để họ quán chiếu! Nếu
những thể tướng này hiện hữu, như vậy chúng đă được tạo ra bằng cách
nào?
Từ trước đến giờ ta chỉ đề cập đến
những thông tin được chứa đựng trong các kinh điển Hiển giáo. Bên
cạnh đó chúng ta cũng có thể khảo sát chúng dưới ánh sáng của Mật
tông, một tông phái của Phật giáo có khả năng đối trị một cách đầy
đủ về bản thể của những khí lực ít hay nhiều vi tế.
THỰC TẠI VÀ ẢO ẢNH
Xin Ngài cho biết ư niệm về thời gian
trong Phật giáo?
Xin lỗi, tôi hiểu lầm sự chuyển ngữ
Tây Tạng của câu hỏi; trong ngôn ngữ của chúng tôi hai tiếng “ma
qủy” và “thời gian” phát âm từa tựa nhau, và thế là tôi đang sắp sửa
chuẩn bị nói chuyện cùng qúy vị về vấn đề ma qủy theo quan điểm Phật
giáo!
Giáo lư của Phật giáo đă đưa ra nhiều
luận điểm về thời gian. Trường phái Kinh Lượng Bộ (Sautantrika,) c̣n
được gọi là “Kinh Thủ” khẳng định rằng tất cả mọi thể tướng và sự
kiện chỉ hiện hữu ngay trong khoảnh khắc hiện tại. Đối với trường
phái này, quá khứ và tương lai không ǵ khác hơn là những khái niệm,
những cấu trúc tinh thần đơn giản. C̣n đối với Trung Quán - Quy Mậu
Biện Chứng phái, Hệ Quả Biện Chứng phái của Trung Đạo th́ giải thích
thời gian theo tính cách tương đối, xem đó như là một thực thể trừu
tượng dùng để mô tả sự tiếp nối của một sự kiện hay một hiện tượng
do tâm khai triển ra trên căn bản của sự gán đặt. Quan điểm triết
học nàynhư thế đă mô tả thời gian như là một khái niệm trừu tượng mà
chức năng của nó tùy thuộc vào tính tương tục của hiện tượng. Từ
quan điểm này, việc cố gắng giải thích thời gian như là một thực thể
độc lập, không tùy thuộc vào một hữu thể nào là không có cơ sở chứng
minh. Như vậy một điều khá rơ ràng rằng thời gian là một thể tướng
tương đối và không thể ở trong t́nh trạng độc lập; Tôi thường hay
nêu thí dụ về những đối thể ngoại giới có thể được dễ dàng nhận ra
khi đặt chúng trong bối cảnh quá khứ hay tương lai, thế nhưng đối
với khoảnh khắc hiện tại th́ có vẻ như khó mà nhận thức được chúng.
Chúng ta có thể chia thời gian thành từng thế kỷ, thập niên, năm,
tháng, ngày, giờ, phút, giây. Thế nhưng giây lại cũng có thể được
chia ra thành nhiều phần nhỏ hơn, một phần triệu giây chẳng hạn, và
như vậy ta có thể đánh mất đi sự nắm bắt ư niệm về quảng thời gian
hiện tại một cách dễ dàng!
Ư thức cũng thế, nó không có quá khứ
và tương lai mà chỉ biết đến những khoảnh khắc hiện tại; đó là sự
tương tục của một khoảnh khắc hiện tại này được biến thành một
khoảnh khắc hiện tại khác, trong khi đó với những đối thể ngoại
giới, hiện tại biến mất nhường chỗ cho các ư niệm về quá khứ và
tương lai. Tuy nhiên nếu theo đuổi luận lư này xa hơn sẽ dẫn ta đến
chỗ phi lư, bởi v́ để mở cánh cửa vào quá khứ hay tương lai ta lại
cần một cái khung bản lề, trong trường hợp này, tức là hiện tại, mà
ta đă mất hết dấu vết của nó khi chia nhỏ ra thành từng phần triệu
giây...
Nếu ư thức không có điểm khởi đầu cũng
như chung cuộc, và nếu nó vô thường, phải chăng nó cũng bị lăo hoá
như một ngôi nhà cũ, đổi thay trong từng khoảnh khắc? Và nếu như
nó không có sắc tướng, màu sắc, mùi vị, làm thế nào nó lại có thể
biến đổi được?
Trước tiên, chúng ta cố gắng đồng ư
cùng nhau trên khái niệm c̣n mơ hồ về ư thức, về tâm. Ta chỉ mới có
một tri kiến rất thô thiển và hạn hẹp về ư thức. Tham vọng muốn hoàn
hảo hóa tri kiến này thông qua quá tŕnh nghiên cứu phân tích đưa ta
đến sự khám phá về nguồn linh quang trong suốt và nhận biết được bản
thể của ư thức. Một vấn đề cực kỳ quan trọng là phải biết cách làm
thế nào để nhận ra đối tượng mà ta đang phân tích, trong trường hợp
này tức là bản thể của ư thức. Một khi chúng ta nhận biết được bản
thể của ư thức mà đặc tính chính là vô h́nh và vô ngại, chúng ta có
thể dùng nó để đối chiếu với các đối thể ngoại giới và một loại thể
tướng thứ ba, những khái niệm trừu tượng, như ư niệm về thời gian và
thay đổi vốn không mang cùng bản thể của ư thức cũng như không phải
là những vật thể. Ghi nhớ kỹ ba hạng mục này -những vật thể, tâm, và
những ư niệm trừu tượng- ta có thể nhận diện được ư thức bằng cách
so sánh nó với hai loại thể tướng khác. Một khi chúng ta có một tri
kiến rơ ràng về bản thể của nó, không những ta sẽ có được một kinh
nghiệm rất tỉnh thức về tiến tŕnh đổi thay xuất hiện ngay chính
trong ḷng ư thức mà c̣n có khả năng hiểu được bằng cách nào ư thức
và kinh nghiệm về ư thức hoàn toàn tùy thuộc vào khoảnh khắc trước
nó. Chỉ có khoảnh khắc ư thức trước nó mới có thể dẫn đến khoảnh
khắc ư thức tiếp theo -ngoài ra không có ǵ khác có thể có được tính
năng đó.
Tôi nghĩ là chúng ta không thể bàn về
sự tương tục của ư thức khi chỉ thuần túy dựa trên khái niệm về niên
đại học. Khái niệm về niên đại học mà qua đó là sự lăo hoá chỉ có ư
nghĩa đối với thế giới vật chất, chẳng hạn như thể xác con người.
Trên mức độ của các ư thức cá biệt chẳng hạn như các tính năng cảm
giác, ta có thể dùng từ “lăo hoá” này để liên hệ đến b́nh diện sinh
lư, tức là xác thân con người; trong trường hợp những ư thức cảm
giác, sự lăo hoá phần lớn tiến triển đồng bộ với điều kiện sinh lư
hoá của từng cá nhân. Cả hai sự tiến triển này không mang tính độc
lập. Thế nên ta chỉ có thể nói đến “sự lăo hoá của ư thức cảm giác”
nếu ta liên hệ sự khẳng định này với tiến tŕnh sinh học, sinh lư
học, tức là những việc không thể áp dụng được đối với tâm thức.
Một điều quan trọng đối với tôi là hăy
quán chiếu trên bản thể của ư thức, phân biệt được các loại ư thức
khác nhau cùng bản thể của chúng. Kinh điển Phật giáo quan niệm rằng
những tưởng uẩn về cảm thụ, chẳng hạn như nhăn thức, là trực tiếp
chứ không phải nhận thức; nhăn thức thâu nhận trực tiếp sắc tướng mà
không hề phân biệt rằng nó xấu hay tốt, thích hay là không thích.
Sự phân biệt xảy ra ở mức độ nhận thức, bao gồm một tiến tŕnh lư
giải phức tạp hơn là một cảm thụ đơn thuần.
Theo tất cả những điều mà người ta
quan tâm về tâm thức, thế giới của nhận thức tư tưởng, ta có thể
phân biệt chúng ra nhiều mức độ vi tế khác nhau, từ thô lậu cho đến
cực kỳ vi tế, đều được dẫn chứng bằng các tư liệu cụ thể trong hệ
thống mật tông. Năo bộ, các đường dây thần kinh, các khớp thần kinh,
v.v... đều có quan hệ với ư thức, và điều này đă mở ra một địa bàn
rộng lớn để cho ta nghiên cứu khi liên hệ chúng với những ǵ mà ngôn
ngữ mật tông gọi là khí lực (Tây Tạng: lung; Phạn ngữ: prana).
Nghiên cứu về bản chất đúng đắn của
mối liên hệ giữa năo bộ, ư thức, và khí lực là một vấn đề khá thích
thú. Khi tất cả mọi chức năng của năo bộ ngưng hoạt động và tất cả
mọi điều kiện sinh lư biến mất, h́nh như tiến tŕnh của ư thức vẫn
c̣n tiếp tục hiện hữu dưới một dạng nào đó. Điều này đă được quan
sát qua kinh nghiệm của một số vị lạt ma đă chứng đắc mà xác thân
của họ, mặc dù đă được xác nhận lâm sàng là chết, vẫn giữ được vẻ
tươi nhuận không hề bị thối rửa sau nhiều ngày hoặc nhiều tuần. Ở
giai đoạn này, quan điểm Phật giáo cho rằng cá nhân đó chưa hoàn
toàn chết hẵn mà đang tiếp tục diễn tiến qua một tiến tŕnh lâm tử
và đang ở trong t́nh trạng của ư thức vi tế. Tôi nghĩ là các nhà
khoa học nên có một lư giải hợp lư cho những trường hợp như thế khi
thể xác không bị thối rửa mặc dù tất cả mọi chức năng của năo bộ và
thân xác đă ngưng hoạt động.
Kinh sách cũng đă nêu ra những trường
hợp của các hành giả tu thiền đă học được cách khai mở những khả
năng siêu nhiên để có thể dùng tâm của ḿnh tạo nên những vật thể
hay những nguyên tố của tứ đại như gió, lửa, không phải chỉ riêng
ḿnh họ mà các người khác cũng có thể nhận biết được. Ngoài ra cũng
có một số loại đối thể khác do tâm tạo chỉ riêng hành giả mới nhận
biết mà thôi. Như vậy, nếu đă có một kết quả - vật thể do tâm tạo
ra- tức là phải có nhân và duyên cùng chung bản thể. Tôi cũng tự hỏi
là phải chăng những đối thể này chỉ hiện hữu trong khi hành giả
đang thiền định, và chấm dứt ngay sau giai đoạn hành thiền. Tôi cũng
không thể biết được nguyên liệu vật chất của vật thể do tâm tạo này
thuộc loại ǵ. Đó là một câu hỏi mà tôi xin được nêu lên cùng cộng
đồng tăng lữ: Có thể nào ư thức lại biến thành nguyên liệu vật chất
của các vật thể? Mật tông, cụ thể là phái Guyasamaja, có nói đến ảo
thân do nguyên liệu vật chất cấu thành, hàm ư rằng đó là khí lực
thuộc dạng vi tế mà họ xem như là một phần của thế giới vật chất.
Có thể nói là tôi rất hoang mang trước vấn nạn này.
Ảo giác đă được bắt đầu như thế nào?
Cũng giống như sự tương tục của tâm
không có điểm bắt đầu, th́ vô minh cũng thế. Bởi v́ nếu nó có điểm
khởi đầu, ta phải t́m ra được ngay từ bên trong một trạng thái của
ư thức xảy ra trước vô minh và khác với chính nó -trong một tâm thức
giác ngộ- tức là một cái nhân tạo nên cái quả là vô minh này. Điều
đó không hợp lư một chút nào cả.
Thưa Ngài, có hay không một cái nhân
đầu tiên cho tất cả mọi nguyên nhân?
Tuyệt đối không. Một cách tổng quát,
nhân không có gốc nguồn và bởi lẽ đó, quả cũng thế. Tuy nhiên ta
cũng có thể nói rằng, trong một khung cảnh rất đặc biệt nào đó, một
số trường hợp nhân và quả có điểm khởi đầu. Khi ta thiết định rằng
sự tương tục của tâm không có điểm khởi đầu, lại muốn t́m cho ra một
điểm khởi đầu của nhân th́ hiển nhiên là một chuyện rất mâu thuẩn!
Như bạn biết, luận lư của Phật giáo khá chặt chẽ. Ngay từ khi chấp
nhận rằng tâm không có điểm khởi đầu, ta có thể khẳng định một cách
hợp lư và quả quyết rằng nhân và quả cũng thế.
Sự nhận thức của con người về thế giới
bên ngoài chắc chắn là khác xa với những tạo vật khác, như côn trùng
chẳng hạn. Như vậy có hay không một thế giới hiện hữu một cách độc
lập đối với những nhận thức khác biệt này? C̣n một vị Phật th́ nhận
thức điều ǵ về thế giới? Phải chăng thế giới được nhận biết hoàn
toàn tùy thuộc vào các dạng ư thức khác nhau, hay là nó chỉ được
hiện hữu qua các kinh nghiệm cảm thụ?
Đây là một vấn đề khá phức tạp. Chúng
tôi sẽ cố gắng trả lời câu hỏi này trên quan điểm nhận thức của con
người bằng cách dùng thí dụ về một đối thể. Mỗi người đều có một
nhận thức mà trong thực tế cho thấy là không được hoàn chỉnh lắm,
bởi v́ đương sự không thể nh́n thấy đối thể từ mọi góc cạnh; súc vật
cũng gặp những hạn chế như vậy. Thế nhưng ta vẫn có thể xác nhận là
ta đă nhận thấy đối thể. Một điều khá quan trọng cũng cần nên ghi
nhớ là nhận thức của ta về thế giới hiện tượng thường bị ảnh hưởng
bởi kiến chấp sai lầm về thực tướng của hiện hữu.
C̣n về nhận thức của một vị Phật th́
quả thật là không biết phải nói như thế nào. Tuy nhiên một điều chắc
chắn là: Nhận thức của một vị Phật về thế giới hoàn toàn không bị
vướng mắc bởi bất cứ phóng chiếu nào mà thế nhân mắc phải -không bị
ràng buộc bởi tâm nắm bắt về thế giới, về thể tướng, và tất cả mọi
sự việc, bởi v́ nó được hiện hữu một cách độc lập và tự do đối với
cái tâm đang nhận biết nó. Việc nghĩ đến một đối thể của nhận thức
độc lập đối với tâm đang nhận thức nó sẽ đưa ta đến một vấn đề là
chúng ta nên chấp nhận hay không một thực tại ngoại giới tách biệt
đối với tâm. Đề tài này đă được đào sâu trong học thuyết Phật giáo.
H́nh như không có chuyện sự hiện hữu của một đối thể đặc biệt nào đó
lại cần phải được đi kèm theo một nhận thức về nó. Lấy một thí dụ cụ
thể, ta hăy tưởng tượng rằng trong pḥng này không có ai cả và cuốn
sách này đang nằm ở trên bàn. Như vậy cuốn sách này vẫn hiện hữu ở
đây cho dù không có ai nh́n thấy nó.
Dĩ nhiên chúng ta cũng có thể thảo
luận về rất nhiều hiện tượng mà ta khó có thể t́m hiểu ngọn ngành
cũng như không có được một hiểu biết rơ ràng về chúng. Tuy nhiên
thật khó mà đi đến một khẳng định chặt chẽ rằng một thể tướng lại có
thể hiện hữu một cách hoàn toàn độc lập, không lệ thuộc vào nhận
thức và tâm. Một quan điểm như thế, theo tôi, thật khó mà bảo vệ.
Trên quan điểm Phật giáo, không có một thể tướng nào hiện hữu mà
không thể được nhận biết bởi tâm của một vị Phật. Hăy để qua một bên
cái tâm toàn tri toàn giác của Đấng Giác Ngộ, một phạm trù có thể
nói là bấy khả tư nghị, ta hăy lấy một trường hợp cụ thể là trước
cùng một sự kiện hay hiện tượng, thế nhưng có người có thể hoàn toàn
không hiểu ǵ cả, người khác th́ hiểu một cách lờ mờ, nhưng đối với
người thứ ba th́ lại rất rơ ràng, hiển nhiên. Thí dụ này là một h́nh
dung rơ nét về ư tưởng cho rằng một thế giới ngoại tại hoàn toàn độc
lập với nhận thức hoặc tâm thức là điều không thể xảy ra.
Tôi xin được kể một câu chuyện về hai
tăng sinh đang sống tại Tây Tạng. Một người nói với người kia rằng y
có một câu hỏi liên quan đến bản chất triết học muốn nêu lên: “Phải
chăng cái cột của ngôi chùa này là một cấu trúc của tâm? Nếu không
có ai ở trong pḥng này, cái cột có tiếp tục c̣n là một sự gán đặt
của ư thức? Tôi luôn luôn hoài nghi về đề mục này.” Người tăng sinh
thứ hai trả lời rằng anh ta đă nêu lên một vấn đề tương đối khó
khăn, thế nhưng ta có thể suy nghĩ rằng nếu cái cột là một cấu trúc
do tâm tạo, cái ư thức định danh không nhất thiết là phải luôn gắn
liền với vật được định danh, bởi v́ cái cột vẫn luôn luôn là cái
cột. Cũng tương tự như thế, những ai đang nghiên cứu, học tập những
kinh sách đó đều được gọi là tăng sinh. Tuy nhiên họ không cần thiết
phải tối ngày ngồi kế bên những cuốn kinh này để tiếp tục được gọi
bằng danh hiệu như thế; cho dù là họ đang ngủ, đang ăn, đang thiền
hành, nhăn hiệu “tăng sinh” vẫn gắn chặt với họ.
Nếu ta kiến tánh, ta có c̣n nhận thức
về nhị nguyên tính? Nói một cách khác, làm thế nào mà một cái tâm
bất nhị nhận thức được sự hiện hữu của nhị nguyên đối đải, cụ thể là
giữa những người đang mang gánh nặng khổ đau?
Nhị nguyên tính có thể được hiểu qua
nhiều mức độ khác nhau: Nhị nguyên tính về chủ thể và đối thể, nhị
nguyên tính về phân biệt, và nhị nguyên tính về các sắc tướng ước
lệ, tức là về thế giới tương đối. Tâm của một vị Phật đă hoàn toàn
không c̣n vướng mắc vào các nhận thức h́nh tượng, thế nên cũng không
c̣n bị ràng buộc vào các phóng chiếu nhị nguyên. Mặc dù nó cũng
không c̣n bị vướng mắc bởi ư thức phân biệt giữa chủ thể và đối thể,
nhận thức của một vị Phật về thế giới ước lệ này không phải là hoàn
toàn biến mất. Bao lâu mà một vị Phật c̣n an trú trong mức độ nhị
nguyên, tách biệt thế giới hiện tượng của sắc tướng với tánh không
chân thật của nó, ngài vẫn sẽ có những nhận thức và kinh nghiệm của
thế giới tương đối. Tuy nhiên v́ đây là tuệ giác của Phật nên nó vẫn
hoàn toàn khác biệt với nhận thức thông thường của con người chúng
ta. Nhận thức thông thường của chúng ta về các thể tướng và sự
kiện như là những hữu thể độc lập, xem chúng như đang sở hữu một
chân thân và tự tánh. Mặc dù một vị Phật đă không c̣n vướng mắc vào
sự vô minh cơ bản này, tâm toàn tri toàn giác của Ngài dĩ nhiên vẫn
hiểu được tâm của một con người b́nh thường vốn bị che lấp bởi các
ảo ảnh, xem thể tướng của hiện tượng cùng các sắc tướng mà họ nhận
thức đều là thực tại.
Thế giới ước lệ có thể được phân ra
làm hai loại -nhiễm và bất nhiễm- và có thể được lư giải bởi nhiều
cách khác nhau. Chúng ta có thể khẳng định rằng bất cứ loại h́nh
kinh nghiệm nào bị tập nhiễm bởi tập quán bản năng của vô minh và
bởi sự nắm bắt thực tại như là một thực thể tự thân và độc lập đều
được coi như là bị tập nhiễm, hay ô nhiễm. Đây là cách thức thông
thường mà con người nhận thức hầu hết các thể tướng của thế giới ước
lệ. Trái lại, những nét đặc biệt của một vị Phật, cụ thể như tám
mươi tướng chính và phụ của Ngài, được gọi là thể tướng bất nhiễm
bởi v́ đây là những đặc tính thuần khiết của tâm giác ngộ, nhất tri
kiến. Chúng được xem là thuần khiết bởi v́ ngay từ căn nguyên chúng
cũng đă không hề bị tập nhiễm. Khi một thân tướng biểu kiến của một
vị Phật xuất hiện trong cơi người, ta không thể t́m ra ở Ngài một
dấu vết bất tịnh nào mà ta thường thấy do nhận thức thông thường của
con người, ảnh hưởng bởi kiến chấp vô minh về sự hiện hữu tự thân và
độc lập của sự vật, sự kiện, sẽ tiếp tục phóng chiếu kiến chấp sai
lầm này lên những phẩm chất thực sự của một vị Phật.
Về vấn đề những tri kiến của con người
thế gian, những sản phẩm đơn thuần của một cái tâm bị che mờ, có thể
xuất hiện ở chư Phật hay không, tôi xin trả lời ngay là không: một
Đấng Giác Ngộ biết rằng con người bị ảnh hưởng bởi tà kiến, tuy
nhiên bản thân Ngài không bao giờ mang những nhận thức lầm lạc đó.
Đối với câu hỏi, “Một vị Phật có thể c̣n thể nghiệm khổ đau hay
không?”, tôi xin được trả lời thêm một lần nữa là không, bởi v́ đạt
thành Phật quả tức là giải phóng ra khỏi mọi khổ đau, chấm dứt mọi
khổ đau; tuy nhiên điều này không có nghĩa là một vị Phật không có
khả năng nhận thức khổ đau. Ngài đă thực chứng được tâm đại từ bi và
luôn luôn thương xót cho nỗi khổ đau của mọi loài chúng sinh. Để kết
luận, chúng ta cần phải biết phân biệt giữa tri kiến về tri kiến của
một vị Phật và kinh nghiệm cá nhân của chúng ta.
Bằng cách nào chư Phật có thể hiện hữu
khi họ đă loại bỏ hoàn toàn mọi nhân duyên dẫn đến luân hồi sinh tử
và niết bàn? Có thể nào tất cả họ đều là một và hoàn toàn giống
nhau?
Trường phái triết học Kỳ-Na giáo cho
rằng những ô nhiễm tâm linh chiếm lĩnh bản tánh của tâm và cho đến
khi nào sự tương tục của tâm chưa chấm dứt, những dấu ấn này vẫn
tiếp tục tồn tại. Phật giáo đă đưa ra một giải đáp cho vấn đề này,
cho rằng bản tánh chân thật của tâm không hề mang vết nhơ, thói xấu;
những loạn động liên quan đến những tập nhiễm do hoàn cảnh ngoại lai
có thể tạo nên những đau buồn, phiền năo. Một khi đă thực chứng Phật
quả, cá thể của một con người vẫn tiếp tục hiện hữu; trong trường
hợp này ta gọi là cá thể đồng nhất tính của một vị Phật.
Tuy nhiên Kinh điển Phật giáo nhấn
mạnh một sự kiện rằng tất cả chư Phật đều “đồng vị cảnh” trong cảnh
giới của tánh không. Điều này có thể được hiểu qua ư niệm về sự b́nh
đẳng, chẳng hạn như b́nh đẳng trong phẩm chất của tâm, b́nh đẳng
tánh trí, v.v... Tất cả chư Phật đều ngang hàng và tương đương trong
tận hư không biến pháp giới. Trong phối cảnh chung của chư Phật, tất
cả đều có cùng những năng lực giúp đỡ mọi loài chúng sinh. Tuy nhiên
đối với hai vị Phật lịch sử, Ca Diếp và Thích Ca Mâu Ni, trong phối
cảnh của con người b́nh thường với những nghiệp lực khác nhau, chúng
ta có những mối liên hệ nghiệp quả gần gũi với Đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni hơn là Phật Ca Diếp, sống xa cách chúng ta hằng bao nhiêu kỷ
nguyên.
Nhĩ thức có chú ư đến khoảng im lặng
giữa nhận thức về hai âm thanh?
Có thể. Bởi v́ ta có thể nhận ra được
sự vắng mặt của âm thanh. Tuy nhiên cái ǵ là tánh nghe thực sự?
Phải chăng có một nhĩ thức thực sự nhận biết sự im lặng?
Ngài có thể cho chúng tôi biết sự khác
nhau giữa thực chứng tánh không và bản lai diện mục?
Tánh không được mô tả trong Hiển giáo
và Mật giáo hoàn toàn không giống với bản tánh của tâm. Trong bối
cảnh của mật tông, bản tánh của tâm có vẻ như hoàn toàn khác xa với
tánh không của tâm. Các học giả Tây Tạng đă bất đồng ư kiến trên hai
quan điểm khác biệt. Về tánh không, một trường phái cho rằng cả Hiễn
giáo lẫn Mật giáo đều có quan điểm giống nhau. Lập trường này phát
xuất từ sự đánh giá cao về tánh không khách quan, tức là tánh không
của một đối thể. Trường phái thứ hai xác minh sự hiện hữu của những
khác biệt trong kinh nghiệm chủ quan về tánh không. Một sự thật cho
thấy là từ quan điểm của nhận thức chủ quan về tánh không, khi ta
đối đầu với sự nhận biết về bản tánh của tâm, Mật giáo khác biệt sâu
xa với truyền thống của Hiễn giáo.
Có thể nào cho rằng Phật an trụ trong
trạng thái thường hằng bất biến của Phật quả trong khi mọi sự đều
luôn luôn biến chuyển, đổi thay?
Một cách tổng quát, khi nói đến Phật
quả, ta nói đến Pháp thân, tức là thân uyên nguyên của một vị Phật.
Một trong vô số những khía cạnh khác là thân tướng biểu kiến của
ngài, tức là Hóa thân. Phật quả mang cả hai tính chất thường và vô
thường; nó là những hệ quả của một sự gắn bó với con đường tâm linh,
tương quan với một tiến tŕnh của tịnh hoá và viên măn. Bạn quan
niệm như thế nào về “thường?” Đôi khi người ta dùng sự bất tử đánh
giá Phật quả. Ta cũng gọi đó là thường. Hăy để ư đến những tác hành
của một vị Phật: không ngưng nghỉ và có mặt khắp nơi. Một vị Phật
hành động một cách tự phát, không một mảy may gián đoạn hay ngừng
nghỉ. Trên b́nh diện này ta có thể xem Phật quả là thường hằng.
Nguồn linh quang trong suốt của tâm, hay ư thức uyên nguyên (Tạng
ngữ: rigpa), đôi khi cũng c̣n được gọi là nguồn thanh quang
tự phát (lhundrup). Sự biểu thị này mô tả Phật quả mang tính
chất không cỗi nguồn, vô thủy. Mặc dù tập nhiễm và loạn động có thể
tác động lên tâm, thế nhưng yếu tánh của tâm vẫn luôn luôn thuần
khiết. Điều này cũng bao hàm rằng đă không có một sự khác biệt rốt
ráo nào giữa luân hồi sinh tử và niết bàn.
Đạo sư Jigmed Tenpe Nyima cho rằng
Phật quả -trong t́nh trạng vô thuỷ- nên nó làvô sinh và vô cấu. Tuy
nhiên nói như vậy không có nghĩa rằng nó không phải là sản phẩm của
nhân duyên; chỉ nhấn mạnh cho ta thấy tính chất tương tục của nó là
bất biến và vô sinh. Từ quan điểm này, ta có thể nói rằng nó thường
hằng và không bao giờ bị gián đoạn, cho dù ở trong bất cứ trạng thái
nào.
Ngài vừa cho rằng chân lư rốt ráo vượt
ra ngoài tầm tri thức. Nếu tri thức không thể nắm bắt được nó th́
cái ǵ có thể làm được việc này? Làm thế nào để có thể nhận ra nó?
Điều trước tiên, chúng ta hăy làm sáng
tỏ ư nghĩa của hai tiếng “tri thức”. Ngài Tịch Thiên trong Nhập Bồ
Đề Hành Kinh cho rằng chân lư rốt ráo không hề là đối tượng của tri
thức. “Chân lư rốt ráo” ở đây có nghĩa là tánh không, và “tri thức”
tức là nhị nguyên đối đải. Một số đoạn trong tác phẩm Nhập Trung
Luận (Madhyamakavatara) của ngài Nguyệt Xứng (Chandrakirti), khi nói
về sự đ́nh chỉ của ư thức trong trạng thái Phật quả, cũng có những
luận điểm tương tự với sự khẳng định này. Thế nên chúng ta phải biết
phân biệt giữa tri thức như là một t́nh trạng thô lậu của ư thức và
một thể dạng vi tế hơn. Tri thức, tiếng Tây Tạng là lo, chủ
yếu nhằm liên hệ đến một số loại ư thức. Lời khẳng định c̣n mang một
ư nghĩa rộng hơn; khi nói rằng chân lư rốt ráo không phải là một đối
thể của tri thức, chúng ta không nên tưởng tượng rằng chân lư rốt
ráo không thể bị nắm bắt bởi một thể dạng nào đó của tri thức, mà
muốn liên hệ đến ư thức nhị nguyên đối đăi-tức ư thức phân biệt. Một
cách chính xác hơn, tôi muốn nói thêm rằng, chân lư rốt ráo không
thể được nhận thức một cách trực tiếp bởi ư thức nhị nguyên, bởi lẽ
ư thức phân biệt vốn hoạt động trên căn bản của h́nh ảnh và khái
niệm.
Sau đây là một thí dụ khác có thể giúp
qúy vị hiểu thêm về lời phát biểu của Ngài Tịch Thiên: Lạt ma Kunu
Rinpoche thường có thói quen trích dẫn những câu nói của Đại sư
Pandit Rong Zompa thuộc Ninh Mă phái, khẳng định rằng trong trạng
thái Phật quả không hề có sự hiện hữu của ư thức, trí tuệ, cũng như
kiến thức siêu việt. Thế nhưng cũng một vị Đại sư khác của Ninh Mă
Phái, ngài Longchenpa lại có một quan điểm hoàn toàn trái ngược. Thế
nên trường phái này đă chia rẽ nhau trên hai quan điểm bất đồng liên
hệ đến sự hiện hữu của ư thức và trí tuệ trong Phật quả. Trong một
tác phẩm của ḿnh, Đạo sư Jigmed Tenpe Nyima đă trích dẫn một câu
nói của Terton Kepo thuộc truyền thống Đại Du Già, cho rằng tâm
(Tạng ngữ: sem) hiệnhữu ngay cả trong trạng thái Phật quả.
Như vậy tâm, từ quan điểm cho rằng nó tách biệt với ư thức uyên
nguyên (Tạng ngữ: rigpa), có hiện hữu trong trạng thái giác
ngộ hay không? Đây là một vấn nạn mà chúng ta hiện nay cần nên lưu
tâm đến. Mặt khác, tâm -được hiểu theo khái niệm thông thường như là
sự bao gồm tất cả các loại ư thức và tri thức- chắc chắn hiện hữu
trong trạng thái Phật quả. Thế nên điều quan trọng là ta cần phải
lưu ư về ư nghĩa của những từ được dùng tùy thuộc vào ngữ cảnh của
nó.
Hăy lấy thí dụ về từ rigpa
chẳng hạn, Phạn ngữ gọi là vidya, tức là minh, nhưng đồng thời nó
cũng có thể có những ư nghĩa khác nhau, đôi khi được hiểu một cách
tổng quát như là ư thức, một từ ngữ bao gồm chung các trạng thái của
ư thức, biểu kiến cũng như không biểu kiến; có lúc ư nghĩa của nó
chân xác và chuyên biệt hơn khi chỉ về t́nh trạng uyên nguyên của ư
thức. Trong câu hỏi của qúy vị, rigpa được hiểu như là tri
giác hay là minh, được dùng trong ư nghĩa của tuệ giác vốn đối
nghịch với trạng thái vô minh của tâm. Và bởi v́ vô minh, trong một
khía cạnh nào đó, cũng là một khía cạnh của ư thức -một cách nh́n,
cách hiểu vấn đề- thế nên ta dễ dàng khẳng định rằng nó cũng là một
thể dạng của rigpa, hăy lưu ư đến sự tương phản đối nghịch
giữa tuệ giác của ư thức uyên nguyên với tâm vô minh.
Những điều trong Trung Quán nói về ư
nghĩa của ngôn từ thật chính xác biết bao! Họ khẳng định rằng ta
phải cảnh giác không nên lúc nào cũng bám víu vào ư nghĩa của văn
tự, bởi v́ nó luôn luôn liên hệ chặt chẽ với ư hướng của người sử
dụng, ư hướng này hoàn toàn tùy thuộc vào vị thế và khung cảnh mà nó
muốn liên hệ. Đó là lư do tại sao rigpa không nhất thiết luôn
luôn phải mang cùng một ư nghĩa, nhưng tùy thuộc vào người sử dụng,
ngữ cảnh và thời điểm mà nó được dùng. Chúng ta không nên quá mù
quáng chú trọng vào văn mà quên nghĩa!
Trở lại câu hỏi của qúy vị, một điều
quan trọng khác là ta cũng cần nên hiểu rơ ư nghĩa của từ “rốt ráo”.
Trong tác phẩm “Nhận thức rơ về Trung Đạo từ Biên Kiến” (Uta Namche)
Ngài Di Lặc sử dụng từ này theo ba cách khác nhau: ư nghĩa rốt ráo
nhằm liên hệ đến tánh không; mục tiêu rốt ráo tức là niết bàn, và
những phương tiện rốt ráo tức là Đạo. Trong một bối cảnh khác, nó có
thể được hiểu theo một cách khác. Rốt ráo, trong câu hỏi của quư vị,
liên hệ đến những ǵ cần phải được loại trừ. Khi ta khẳng định rằng
mọi hiện tượng đều không có hiện hữu rốt ráo, ta đang nghĩ đến tính
cách chủ quan, t́nh trạng độc lập của chúng do sự nắm bắt bởi vô
minh. Rốt ráo cũng có thể được dùng trong khung cảnh làm thế nào để
ta có thể nắm bắt trí tuệ, tức là tuệ giác thực chứng tánh không.
Chúng ta cũng thỉnh thoảng cho rằng đạt đến tri kiến không tánh tức
là đạt đến tâm rốt ráo.
Thưa Ngài, ư niệm về tánh không có thể
đưa con người đến tâm trạng sợ hăi bị rơi vào nỗi cô đơn, một cảm
giác hoàn toàn bị cô lập. Chẳng c̣n ǵ nữa cả -không c̣n đối thể,
không có ai để bám víu, không có ai để yêu thương. Làm thế nào để ta
có thể loại trừ được nỗi sợ hăi này và đi đến sự thực chứng về tánh
không?
Tôi nghĩ là bạn c̣n đang mơ hồ chưa
phân biệt được giữa tánh không với hư không và hư vô. Tôi khuyên bạn
nên t́m hiểu ư nghĩa của tánh không trong khung cảnh duyên sinh của
mọi hiện tượng. Thông thường ta nương tựa nặng nề vào nguyên lư
duyên sinh để hiểu biết về tánh không. Tại sao ta lại không thể đảo
ngược thủ tục này? Bởi v́ nếu các hiện tượng, sự kiện không có sự
hiện hữu tự thân, ta gọi chúng là rỗng không. Nếu như sự hiện hữu
của chúng h́nh thành do các điều kiện nhân duyên, ta gọi chúng là
duyên sinh. Mặc dù thực chứng tánh không trong khung cảnh duyên sinh
được biết là rất khó khăn, chắc chắn là bạn sẽ phải t́m cách vượt
qua nỗi sợ hăi bằng cách đặc biệt chú ư đến khía cạnh này.
Lấy trường hợp những người tu tập
thiền định theo lối linh ảnh du già (hay bổn tôn du già); một trong
những nét đặc biệt của phái này là đạt đến sự tan biến của mọi thể
tướng vào tánh không, và một điều xảy ra là, ở mức độ đại định này
chúng ta có thể cảm thấy bị cô lập bởi v́ lúc đó mọi sắc tướng đă
biến mất hoàn toàn, thể nhập vào t́nh trạng hư không, rất gần giống
với hư vô. Tôi không biết chắc là nỗi sợ hăi mà bạn vừa đề cập đến
đă xuất hiện như là kết quả của những quán tưởng của linh ảnh du
già, khi mọi sắc tướng đă tan biến vào thể không, hay là cảm thức cô
lập này bắt nguồn từ những thiền quán về tánh không, sự trống rỗng
của hiện hữu tự thân. Hiểu rơ sự khác biệt giữa hai vấn đề này là
một điều cực kỳ quan trọng, từ đó mới có thể xác định được một cách
rơ ràng nguồn gốc nỗi sợ hăi của bạn. Nếu nỗi sợ hăi này xuất hiện
trong khi bạn đang thiền quán về tánh không, có thể bạn sẽ rơi vào
một trong hai loại sau đây: thứ nhất, bạn cảm thấy như bị kích động,
giống như trải qua một đột biến bất ngờ. Nỗi hoảng kinh này là hoàn
toàn tự nhiên và dễ hiểu, nếu không nói là đúng như ta mong đợi. Tại
sao? Bởi lẽ trước đó, khi kinh nghiệm này chưa xảy ra, tất cả những
khái niệm của bạn về mọi thể tướng hiện hữu đều vững chắc, cứng rắn;
xem chúng như là những hiện hữu độc lập, tự thân. Một nhận thức đúng
đắn về tánh không sẽ giúp bạn loại bỏ được nỗi sợ hăi này một cách
tự nhiên. Nếu như trường hợp vừa nói không xảy ra, bạn sẽ rơi vào
loại sợ hăi thứ hai liên hệ tới tà kiến sai lầm của chủ nghĩa hư vô,
của cảm giác cho rằng không có ǵ hiện hữu, không có ǵ đáng phải
quan tâm.
Làm thế nào và tại sao chúng ta lại có
thể tiếp tục sống ngày này qua ngày khác trong một thế giới không có
ǵ hiện hữu thực sự, ngay cả mục tiêu mà ta vươn tới là Phật quả
cũng không hiện hữu? Tại sao chúng ta lại phải bận tâm đến chuyện đi
theo con đường tu tập, và nói cho cùng, cuộc sống có ư nghĩa ǵ?
Trong chuyến thăm viếng Anh Quốc vừa
rồi, sau những buổi nói chuyện và thuyết pháp tại đây, một số người
cũng đă nêu lên một câu hỏi tương tự: “Nếu như mọi thể tướng và sự
kiện đều không hiện hữu hoặc không có bản sắc tự tánh, một điều hiễn
nhiên là ta không có lư do ǵ để bàn về bản sắc cả. Như vậy vấn đề
đặt ra là ta phải làm ǵ để tạo nó ra một cách chắc chắn?” Nghe qua
điều này tôi nhận ra rằng vị này chắc đă suy nghĩ về vấn nạn này rất
sâu sắc, bởi v́ nó phản ánh điểm then chốt nhất trong triết học
Trung Quán. Khi trường phái này dùng cụm từ như “cái tên đơn giản”
hay là “sự định danh đơn giản,” từ “đơn giản” được dùng ở đây không
mang ư nghĩa chối từ thực tại của thể tướng hay sự hiện hữu của nó
bị tách ra khỏi cái tên gọi. Đồng thời nó cũng không hề mang ư nghĩa
rằng chẳng có ǵ hiện hữu ngoài cái tên gọi hay là sự định danh. Khi
ta nói đến một cái tên đơn giản, một sự gán đặt đơn giản hay là một
sự định danh đơn giản không có nghĩa là ta phủ nhận những đối thể
ngoại giới. Bởi v́ một thể tướng là một sản phẩm của nhân duyên, nó
phải hiện hữu. Khi nói đến tánh không của một thể tướng tức là ta
h́nh dung ra cái bản tánh rốt ráo của nó; bởi thế nó cũng phải hiện
hữu nếu như ta có được những tri kiến về thực tại rốt ráo của thể
tướng này. Ngược lại nếu ta chỉ chạy đi t́m cái vật ám chỉ thực sự
ẩn dấu đằng sau từ ngữ, tức là cái khái niệm, ta sẽ chẳng t́m thấy
được ǵ cả. Sẽ chẳng bao giờ t́m ra được đối thể mà bạn t́m kiếm.
Thế cho nên, sự hiện hữu của nó chỉ có thể được h́nh dung ra ở mức
độ hiện tượng, tương đối và ước lệ; không bao giờ ở t́nh trạng rốt
ráo hay tuyệt đối.
Nếu chúng ta khẳng định rằng mọi thể
tướng đều chẳng có ǵ khác hơn là những cấu trúc do tâm tạo, dưới
dạng của những định danh đơn giản -những giả danh-, điều này không
bao hàm ư nghĩa rằng mọi vật mà tâm có thể tạo ra đều biến thành
thực tại, bởi v́ nói như thế tức là ta lại rơi vào kiến chấp của chủ
nghĩa tương đối cực đoan, khác biệt khá xa với triết học Trung Quán.
Ta phải loại bỏ bất cứ sự xác nhận cực đoan nào cho rằng mọi thứ do
tâm tạo đều có một thực tại khách quan. Đồng thời cũng không nên đi
đến kết luận rằng tâm không tạo ra ǵ cả. Dĩ nhiên có một mối quan
hệ nào đó giữa thể tướng và tâm, thế nhưng do sản phẩm của tâm không
tương ứng với thực tại đúng đắn của thể tướng, điều này đă tạo nên
những ảo giác và sắc tướng sai lầm. Và rồi đến lượt tâm -hay nói rơ
hơn, ư thức- khi tạo ra những phóng chiếu sai lầm như thế cũng đi
vào con đường sai lầm nốt, v́ đă không phù hợp với thực tại.
Bây giờ ta hăy lấy một thí dụ cụ thể.
Hăy nh́n cuốn sách trước mặt tôi. Đây là nước Pháp vốn có một loại
bánh ḿ nổi tiếng gọi là baguette; nếu bạn đứng từ xa nh́n
vào cuốn sách này và tưởng tượng rằng đó là một cái bánh ḿ
baguette, cho dù ḷng tin của bạn có mạnh mẽ đến cách mấy đi nữa
cũng chẳng làm thay đổi được ǵ -bạn không thể biến bản thể của cuốn
sách thành bánh ḿ. Bạn không bao giờ có thể thay đổi được thực tại
của cuốn sách. Nếu bạn cứ khăng khăng cho rằng bạn chỉ thấy cái bánh
ḿ baguette, điều này được gọi là ảo ảnh của một tiến tŕnh
h́nh tượng hoá, một h́nh ảnh giả tưởng do tâm tạo chẳng có mảy may
dính líu ǵ với cơ sở thực tế. Tuy nhiên trong trường hợp này, nhận
thức của người trông thấy cuốn sách là có cơ sở vững chắc, bởi v́ nó
tương ứng với thực tại. Có một sự tương ứng giữa đối thể trước mặt
tôi và cái tánh biết do ư thức tạo nên. Bây giờ chúng ta đang đối
diện với hai loại nhận thức, tất cả đều thuộc phạm trù sắc tướng.
Cái thứ nhất nắm bắt sắc tướng của cái bánh ḿ baguette, cái
kia là cuốn sách. Một cái đă bị biến đổi, sai lạc, cái kia th́ có
giá trị, đúng đắn. Tuy nhiên nếu ta hỏi đến một người thứ ba để nhờ
họ xác minh vật thể đang nằm trên bàn là cái ǵ, người này có thể
dẹp bỏ tất cả mối nghi hoặc và loại trừ sự hiểu lầm, vô hiệu hóa cái
nhận thức cho rằng đó là bánh ḿ nhằm khẳng định cái nhận thức sách,
bằng cách đi thẳng đến cái bàn, sờ vào đối thể và tuyên bố rằng:
“Đây không phải là bánh ḿ, đây là cuốn sách.” Nhận thức này không
thể bị vô hiệu hoá, nó vẫn luôn có giá trị trong khung cảnh của sự
thật ước lệ: tâm nhận biết có sự hiện diện của cuốn sách ở đằng kia,
trên cái bàn. Một sự nhận thức như thế dĩ nhiên không phải là hệ quả
của một cung cách suy nghĩ triết học rốt ráo và đó là lư do tại sao
ta không thể vô hiệu hoá thực tại tương đối của nó thông qua sự phân
tích rốt ráo. Tuy nhiên cái nhận thức cho rằng đó là bánh ḿ th́ rất
dễ dàng bị phủ nhận và vô hiệu hoá bởi nhận thức đúng đắn về cuốn
sách.
Đây là một thí dụ khác: Trường phái
Duy Thức học xác định rằng sự hiện hữu cơ bản của tàng thức là nền
tảng của tất cả mọi tri kiến của con người. Bởi v́ nó không phải là
một bản thể ước lệ, một sự phân tích rốt ráo về cái thức này có thể
vô hiệu hoá sự khẳng định đó. Như thế, một quan điểm triết học rốt
ráo về thực tại có thể bị bác bỏ bằng một sự phân tích mang tính
triết học về bản tánh uyên nguyên của thực tại đó.
Trở lại vấn đề cuốn sách trên cái bàn,
người ta có thể xác minh sự hiện hữu của nó bằng một tiêu chuẩn
khách quan có giá trị một cách ước lệ, một nhận thức mà không thể
nào bị vô hiệu hoá bởi một kinh nghiệm có giá trị ước lệ khác hay là
bằng sự phân tích rốt ráo. Tuy nhiên nếu ta muốn t́m hiểu một cách
chính xác cuốn sách là cái ǵ -phải chăng đó là tập hợp của những
trang sách, phải chăng mỗi trang sách cũng là cuốn sách, v.v...- ta
sẽ đi đến kết luận là cuối cùng cái khái niệm nguyên thủy về cuốn
sách cũng biến mất. Nếu cứ tiếp tục phân tích mổ xẻ cuốn sách ra
thành từng phần, từng trang, h́nh dáng, màu sắc, cho đến các thành
tố cơ bản nhất của nó -nguyên tử và phân tử, v.v...- khái niệm ban
đầu của một cuốn sách bằng xương bằng thịt sẽ không c̣n hiện hữu. Ta
sẽ đi đến một điểm là tạo ra thêm một từ ngữ mới, có thể tạm gọi là
“bất khả tầm” về một cuốn sách như ta đă từng được biết. Thế nhưng
một điều chắc chắn là cuốn sách đă hiện hữu. Chúng ta không thể phủ
nhận thực tại này cho dù sự phân tích rốt ráo về những ǵ cấu thành
sự vật trung thực được ám chỉ, núp bóng đằng sau danh từ “cuốn sách”
không mang lại một cái ǵ cả, và do đó ta không thể định vị hoá được
nó. Như thế, kết luận được rút ra từ những dẫn giải vừa rồi là,
cuốn sách hiện hữu -cho dù ngay cả việc ta chứng minh là không thể
t́m ra một cuốn sách như thế ngay từ khi bắt đầu một cuộc t́m kiếm
rốt ráo- tuy nhiên hiện hữu này chỉ là giả danh, ước lệ, và tương
đối.
Ta chỉ có thể phân biệt được sự hiện
hữu và hiện hữu tự thân qua từng mức độ thực chứng, và tuệ giác của
chúng ta về tánh không tăng trưởng với thời gian. Càng tiến bộ bao
nhiêu về tuệ giác và sự thực chứng trực tiếp, chúng ta càng có khả
năng hơn để phân biệt giữa cái ǵ là hiện hữu tự thân và cái ǵ
không phải. Đó là cốt tuỷ của vấn đề. Ở một thời điểm, hiện tượng có
thể xuất hiện trước mắt ta có vẻ như vững chăi, rắn chắc, như là
chúng đă mang sắc tướng của một thực tại khách quan; thế nhưng điều
này lại mâu thuẫn trực tiếp với một thực tại khác, đó là sự vắng mặt
của một hiện hữu độc lập. Tuệ giác về tánh không của ta càng viên
măn, ta sẽ càng có khả năng đạt đến việc phủ nhận sự hiện hữu tự
thân, mà những hệ quả của sự phủ định này sẽ đưa ta đến một t́nh
trạng được gọi là điều kiện hoá giản đơn, và ở mức độ tri kiến này,
chỉ qua sắc tướng đơn thuần của một vật thể là một điều kiện đủ để
ta nhận ra ngay tánh không của bản thể của sự vật, sự trực nhận tánh
không này mang theo cùng với nó niềm tin vững chăi hơn vào sự hiện
hữu hiển nhiên của đối thể.
Tôi quan niệm rằng mức độ của thực tại
này chỉ có thể được xác định bằng thực chứng, sau khi ta đă thành
công bác bỏ sự hiện hữu độc lập, tự thân của mọi thể tướng. Tôi chưa
chứng đắc đến tŕnh độ này nên rất khó để nói về nó. Không có một
phương pháp nào khác hơn là quán chiếu và thiền định về tánh không
sẽ đưa ta đến sự thực chứng này, tŕnh độ thực chứng nh́n thấy thực
tại đúng như là thực tại. Bằng con đường này mà thực tại được tri
kiến: ở mức độ của cái tên đơn giản, sự định danh đơn giản, và sự
vắng mặt của một hiện hữu tự thân, độc lập, hoàn toàn tự do. Đây là
tất cả những ǵ được triết thuyết Phật giáo Trung Quán chấp nhận.
Để kết luận, khi ta phân biệt giữa ta
và người khác, giữa sinh tử luân hồi và niết bàn, giữa những phân
cực mà ta thiết định nên, ta đang nhận thức chúng y như là chúng đă
thuộc về một loại hiện hữu khách quan, độc lập có thể được mô tả như
là sự ám chỉ trung thực của những danh từ “ngă” “tha nhân”, “luân
hồi”, “niết bàn,” v.v... Tính cách nhị nguyên của những phân cực này
cho thấy một điều là chúng ta đă gán cho hiện tượng một sự hiện hữu
độc lập và tự thân, sự hiện hữu mà ngay chính bản thân nó cũng đă là
đối tượng đầu tiên bị bác bỏ khi ta thiền định về tánh không.
Ngài vừa phát biểu rằng tâm của con
người không thể tự khảo sát chính nó, giống như một lưỡi gươm không
thể tự cắt ḿnh. Thế nhưng kinh nghiệm cho thấy tâm có thể khảo sát
một đối thể ngoại giới dễ dàng cũng như nó có thể nắm bắt chính nó.
Tâm có thể t́m cách để hiểu chính ḿnh, hiểu phẩm chất và bản tánh
của ḿnh. Chẳng hạn như tâm của ta quán sát được rằng nó không phải
là vật chất, nó được phú cho có ư thức và mục đích của nó là mưu cầu
nhận thức vàhiểu biết cũng giống như mắt để nh́n và tay để sờ mó.
Đem so sánh sự tương đồng giữa tâm và lưỡi gươm là không đúng đắn v́
lưỡi gươm là một vật thể khái niệm, tự nó không có chức năng. Thế
nhưng, tay có thể sờ chính nó và như thế có thể tự nắm bắt sắc tướng
của chính nó. Ngài quan niệm như thế nào về vấn đề này?
Dĩ nhiên chúng ta có thể thiền định về
tâm tịch tĩnh bằng cách dùng tâm như là một đối thể của chỉ quán.
Tâm cũng nhận ra được bản thể của chính ḿnh. Thế nhưng chúng ta
hiện đang đối diện với nhiều loại tâm khác nhau. Tính năng tự tri
của tâm là một chuyện khác nữa, tuy nhiên một sự phân loại ư thức
hầu như đă được các trường phái triết học Phật giáo nghiên cứu một
cách thấu đáo. Khi đại sư Yeshe Nyingpo đưa ra lời b́nh phẩm về
chương chín của tác phẩm Nhập Bồ Đề Hành Kinh, đă hoàn toàn bác bỏ
khái niệm về tính năng tự tri, svasamvedana, yếu tính khác
biệt đă trở nên rơ ràng. Những người ủng hộ sự hiện hữu của
svasamvedana chia tâm ra thành hai phạm trù chính; một cái tâm
chỉ nhắm vào các đối thể ngoại giới, c̣n cái kia có tính năng tự tri
mang tính chất tổng giác và bất nhị, không có khả năng nhận biết bất
cứ thực tại ngoại giới nào. Tác phẩm của ngài Thánh Thiên
(Shantideva) cũng phủ nhận tính năng này tuy nhiên không loại trừ
khả năng là tâm có thể nhận biết cái tâm khác hoặc chính bản tánh
của nó. Như vậy, qua những điều đă được tŕnh bày, nếu bạn chấp
nhận có một cái tính năng tổng giác của tâm, sau khi quán sát kỹ
lưỡng vấn đề bạn sẽ thấy đây chỉ là một loại tâm đặc biệt có khả
năng nhận biết chính nó. Đó là lư do tại sao chúng ta không thể
chứng minh một cách chặt chẽ rằng một cái tâm như thế có một chức
năng nào đó.
Phải chăng tâm là một bộ phận nội quan
của cơ thể? Như thế phải chăng nó cần phải có thể xác để hiện hữu?
Các ư niệm về hư không tạng và phổ thân có thể được xem tương tự như
một cái thân thứ ba của Phật, Pháp thân?
Theo tôi nghĩ trước tiên chúng ta cần
phải biết phân biệt giữa các mức độ thô thiển và vi tế của thân.
Cái phần vi tế nhất của thân không bao giờ có thể được tách rời ra
khỏi tâm. Cũng giống như tâm, nó là vô thủy và vô chung. Chính cái
thân này sẽ đạt thành Phật quả. Những ư thức thô thiển chỉ liên hệ
với mức độ thô thiển của thể xác và chúng sẽ không c̣n hiện hữu khi
thể xác bị hoại diệt; đó là điều mà ta nói rằng tâm của con người
ngưng hiện hữu cùng với thể xác con người mà nó nương trú. Chúng tùy
thuộc vào nhau. Tuy nhiên, tâm thức con người chỉ có thể hiện hữu
nhờ nương tựa vào một cái ǵ đó có cùng thể tánh với nó; điểm nương
tựa này chính là nguồn linh quang trong suốt cơ bản của tâm. Cái tâm
cực vi tế này không cần phải tùy thuộc vào các điều kiện nhân duyên
sinh lư của thể xác để hiện hữu. Đây là lư do giải thích tại sao ta
có thể h́nh dung ra một trạng thái mà tâm vi tế có thể hiện hữu tách
biệt với thể xác thô lậu của con người chúng ta. Cái ư thức vi tế
này bao gồm một phần không thể tách rời, đó là khí lực vi tế, mà
chính nó là một thể dạng của thân vi tế.
Ngài vừa cho rằng một cá nhân phải
thanh lọc hết tất cả các uẩn cấu tạo nên thân, và tâm mới có thể
loại trừ được khổ đau. Phải chăng điều này có nghĩa là ta cũng phải
làm tan biến đi khái niệm về sắc thân của chúng ta và của người
khác?
Trên quan điểm cá nhân, sự thanh lọc
năm uẩn đưa đến sự chấm dứt ṿng luân hồi sinh tử. Tuy nhiên trên
quan điểm tổng quát, ṿng luân hồi sinh tử không có điểm kết thúc.
Mười sáu hạng mục của tánh không chỉ rơ rằng tánh không của ṿng
luân hồi là vô thủy lẫn vô chung. Trên phương diện này có lẽ ta
không cần phải lo lắng là thế giới này có đi đến ngày tận thế hay
không. Tất cả mọi người đều có Phật tánh, tức là nguồn linh quang
trong suốt của tâm. Vấn đề đặt ra là với tiềm năng như thế, mỗi
chúng ta có thể thực chứng được sự giác ngộ hoàn toàn hay không. Tất
cả chúng ta đều có tiềm năng này, thế nhưng chúng sanh th́ vô biên,
vô số lượng, ta không thể nào quan niệm được một thời điểm kết thúc
dứt khoát của ṿng luân hồi sinh tử cho toàn bộ chúng sanh.
Ngài cũng vừa cho biết rằng bản tánh
uyên nguyên của tâm là ánh sáng và thuần khiết. Tại sao trong suốt
cuộc đời ḿnh, không lúc nào ta có thể tự động nhận biết được nó?
Đồng thời chúng ta cũng không thể thực
chứng được nó, phải không? Theo sự lư giải cuả Tân Trường Phái
Truyền Thừa, cho rằng bản tánh của tâm, nguồn linh quang trong suốt
vi tế, sẽ không xuất hiện và thực hiện chức năng ở những mức độ thô
lậu của tâm như cảm thụ và tiến tŕnh của ư thức phân biệt đang c̣n
hoạt động. Nó có đó nhưng trong trạng thái tiềm ẩn. Trong Đại Viên
Măn (Dzogchen), có một kỹ thuật đặc biệt có thể giúp ta nhận ra được
rigpa, ư thức uyên nguyên, mà không cần phải làm tan biến đi
những trạng thái thô lậu của tâm. Giống như dầu có thể xuyên suốt
qua toàn thể hột mè, yếu tánh của nguồn linh quang trong suốt có thể
xuyên suốt từng sự thực chứng của tâm. Đó là lư do tại sao ta có thể
thực chứng về tri kiến của ư thức uyên nguyên này -nguồn linh quang
trong suốt, yếu tánh của tâm- cho dù các cảm thụ và tiến tŕnh tâm
thức chưa hoàn toàn ngưng nghỉ. Tuy nhiên cho dù bất cứ trường hợp
nào đi nữa, ta chỉ có thể nhận ra nó qua tŕnh độ tu chứng của một
kinh nghiệm tâm linh. Ta không thể nhận ra nó bằng mắt thường hay
đưa ra một lời giải thích, một sự miêu tả chính xác bằng ngôn ngữ
thế tục.
Tại sao chúng ta lại không thể nhận ra
bản tánh một cách tự động? Một lư do giản dị là v́ nó cực kỳ vi tế.
Bạn đă biết rằng tánh không là bản tánh rốt ráo của tâm, tuy nhiên
chỉ qua thiền quán và thực chứng bạn mới có thể có khả năng nhận
biết nó. C̣n nếu chúng ta đi xa hơn nữa và nêu lên nghi vấn rằng tại
sao ta lại không thể nhận ra những điểm vi tế này một cách tự động,
tôi chỉ có thể trả lời rằng đây là điều hoàn toàn tự nhiên, sự việc
là như thế.
Phải chăng luật tiến hoá đă bị phủ
nhận khi cho rằng sau kiếp người ta có thể tái sanh thành súc vật?
Luật tiến hoá phải được hiểu trong
khung cảnh của sự tiến hoá vật lư. Khi ám chỉ rằng con người có thể
trở thành súc vật trong những kiếp kế tiếp, điều này không hề liên
quan ǵ đến sự tiến hoá vật lư nhưng mà liên hệ đến một khía cạnh
khác biệt, tức là vấn đề ư thức và khả năng của nó có thể xuất hiện
dưới những dạng thức khác của đời sống.
Nếu có những người bị đầu thai vào một
loài thấp kém hơn, chúngï có thể tác tạo nên đủ nghiệp tốt để có thể
tái sanh trở lại làm người?
Tổng quát mà nói, điều đó rất khó, tuy
nhiên trong một số t́nh huống nào đó có thể là các nghiệp lực tiềm
ẩn tích lũy từ những kiếp trước lại tác động tạo điều kiện thuận lợi
cho một kiếp tái sanh tốt lành hơn. Để cho điều này có thể xảy ra dĩ
nhiên chúng ta phải gieo trồng nghiệp tốt vào ḍng sinh thức của
chúng ta trước khi bị rơi vào một cảnh giới thấp hơn lúc tái sanh.
Sự may rủi có chiếm một vị trí nào
không trong bối cảnh Phật giáo, hay tất cả mọi việc đều hoàn toàn
tùy thuộc vào luật duyên sinh của hiện tượng và ư niệm về nghiệp
lực?
Câu trả lời tổng quát của tôi cho vấn
đề này là tất cả đều tùy thuộc vào nghiệp lực. Hăy nh́n vào kinh
nghiệm sống hàng ngày của chúng ta và để ư đến những lúc chúng ta
buột miệng thốt lên: “Ồ, hôm nay tôi thật là may mắn!” hoặc “Thật là
cái ngày xui xẻo!” Tuy dùng những câu nói như thế nhưng tôi nghĩ
rằng chúng ta đă liên hệ những kinh nghiệm trải qua trong đời sống
hàng ngày này với ư niệm về nghiệp lực. Có rất nhiều yếu tố khác
nhau tạo thành nhân duyên của một tác hành mà ta phải lưu tâm đến,
đồng thời ta cũng phải biết phân biệt giữa nhân và những duyên sinh.
Dĩ nhiên đây không phải là điều dễ dàng đối với chúng ta cho dù là ở
mức độ hời hợt nhất. Có không biết bao nhiêu yếu tố cấu thành sự
kiện được gọi là những điều kiện gián tiếp. Khi ta nói một cách mơ
hồ rằng sự việc xảy ra do may rủi là bởi v́ ta không thấy rơ nguyên
do. Vấn nạn là ở chỗ đó: những nguyên do thường là không rơ ràng một
chút nào cả.
Nếu chúng ta đặt ḿnh trong khung cảnh
của định luật nghiệp quả, tôi xin được lư giải như sau: Khi những sự
kiện xảy ra đến một mức độ gây cho ta cảm giác khoan khoái hay khó
chịu, đó chính là lúc mà nghiệp lực biểu hiện một cách rơ ràng. Nếu
bạn phủ nhận sự can dự của nghiệp lực, bạn có thể thiết định rằng sự
tương tục của thân xác bạn -thông qua sự tiếp nối ḍng dơi của cha
mẹ, ông bà, và tất cả tổ tiên cuả ḿnh- cuối cùng đưa bạn trở về lại
nguồn gốc của vũ trụ này. Thế nhưng hệ thống Mật thừa Thời Luân
(Kalachakra) mô tả thể nền ban sơ của thế giới vật chất của vũ trụ
này là một khoảng chân không của những phân tử c̣n sót lại của một
vũ trụ đă bị hoại diệt trước đó trước khi một vũ trụ khác được cấu
thành. Tất cả mọi vật thể đều được cô đặc lại thành những phân tử
này và đó là yếu tố vật chất cấu thành mọi thể h́nh biểu kiến trong
vũ trụ. Sự tiếp diễn của tiến tŕnh này không thể gán cho nghiệp
lực; đó chỉ là một sự tiến hoá tự nhiên. Mặc dù tất cả phân tử chân
không đều có cùng một bản thể giống nhau, những phản ứng đa dạng xảy
ra giữa chúng đă tạo nên những vật hữu t́nh cụ thể như thể xác con
người và những vật vô t́nh như đá sỏi chẳng hạn.
Cũng đừng nên quên rằng mọi loài chúng
sanh và môi trường đều gắn bó chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ này
mang bản chất nghiệp quả. Tuy nhiên tôi không nghĩ rằng chúng ta có
thể lư giải sự tiếp diễn của tiến tŕnh tiến hoá cấu thành vũ trụ
là do tác động của nghiệp lực. Chúng ta không thể cho rằng chính
nghiệp lực đă hoạt hóa tiến tŕnh này cũng như không thể gán cho đó
là quyền năng của chư Phật. Hơn thế nữa, ta phải nói như thế nào
trước sự kiện tất cả mọi thể tướng đă không có sự hiện hữu tự thân?
Tánh không này dĩ nhiên không phải là một sản phẩm của nghiệp quả và
ngay cả những cảm thức vui mừng, buồn phiền của con người cũng thế.
Ngoài ra vô số những khả năng và tiềm năng khác của các cấu trúc hoá
học cũng không thể gán cho là do ảnh hưởng của nghiệp lực, mà thật
ra chỉ là những định luật tự nhiên. Như vậy th́ ở cấp độ nào nghiệp
lực bắt đầu đóng một vai tṛ tích cực, và ở mức nào ta xem đó chỉ là
định luật tự nhiên? Có thể nói đây là một phạm trù khá thích thú cho
công cuộc khảo cứu nhằm t́m hiểu ngay ở điểm nào th́ luật tự nhiên
nhường chỗ cho ảnh hưởng của nghiệp quả xen vào. Hăy nh́n vào cánh
hoa uất kim hương trước mặt tôi: sự kiện mà nó hiện hữu ở đây ngay
tại phút giây này, không nghi ngờ ǵ nữa, tôi cho rằng có quan hệ
tới ảnh hưởng của nghiệp lực. Tuy nhiên nghiệp lực không dính dấp ǵ
tới số lượng nước cần phải tưới và ánh mặt trời cần thiết để cho
cánh hoa tăng trưởng; tất cả những điều này được xem như thuộc về
cơ cấu hóa học của cành hoa, không liên hệ ǵ đến nghiệp lực.
Và như thế, ta có thể lư giải sự may
mắn hay may rủi ở những mức độ khác nhau.
Ngài vừa đưa ra thí dụ về cánh hoa,
cho rằng những phản ứng hoá học của chúng chẳng liên hệ ǵ tới
nghiệp lực, thế nhưng sự hiện hữu của cánh hoa uất kim hương này có
thể là một hệ quả của nghiệp lực. Xin Ngài vui ḷng giải thích rơ
về điểm này.
Một cánh hoa có thể được tăng trưởng
do kết quả của những phản ứng hóa học; đây là định luật tự nhiên.
Tại sao quả lại do nhân tác thành? Mối liên hệ giữa nguyên nhân và
kết quả như thế nào? Đây là một nguyên lư tự nhiên mà nghiệp lực
không đóng một vai tṛ ǵ cả. Chỉ là luật nhân quả. Định nghiệp chỉ
có thể phát huy tác dụng trong phạm trù của luật nhân quả, hay nói
khác hơn, nó chỉ là một phần của luật nhân quả. Luật nhân quả bao
trùm một phạm vi rộng lớn hơn là định nghiệp, vốn nằm trong luật
nhân quả. Thế nên ta không thể gán toàn bộ luật nhân quả cho định
nghiệp.
Cụ thể hơn ta hăy nh́n một cái cây với
hàng ngàn ngọn lá có sắc thái màu vàng khác nhau. Khi mùa thu đến,
chúng được chuyển qua những sắc thái màu đỏ. Cái ǵ đă làm cho những
ngọn lá này có màu vàng đậm hơn là những ngọn lá khác? Tại sao có
những ngọn lá lại mang màu đỏ thẩm hơn? Rồi đến khi lá rơi, tại sao
có lá lại bay đi khá xa, có lá lại rơi ngay ở kế thân cây, và tất cả
đă không rời khỏi thân cây cùng một lúc? Tôi đă không thấy được
bằng cách nào nghiệp lực có thể tạo nên những điều kiện tác hành đặc
biệt liên hệ đến tiến tŕnh tự nhiên này. Bằng cách nào nghiệp lực
lại có thể làm cho vài ngọn lá rơi vương vải về phía đông, trong khi
những ngọn lá khác lại rơi về phía nam? Thế nhưng những vi sinh vật
sống trên những ngọn lá này và rơi cùng với chúng đều là những đối
tượng của định nghiệp; một cách cụ thể, tôi cho rằng nghiệp quả đă
dự phần vào sự kiện là chúng đang mất chỗ trú ẩn. Tuy nhiên thành
thật mà nói tôi đă không có một ư niệm dứt khoát nào về chủ đề này.
Nhưng cho dù bất cứ trường hợp nào đi nữa, một điều cho ta thấy rơ
ràng rằng luật nhân quả là một định luật tự nhiên , không phải là
sản phẩm của một ông Phật nào hay là do cầu nguyện, kể cả do nghiệp
lực. Chỉ đơn thuần là một định luật tự nhiên.
Tất cả những định luật khác, như tiến
tŕnh nghiệp quả chẳng hạn, đều có thể hoạt động trên cơ sở này. Mối
tác động hổ tương giữa nhân và quả chỉ có thể xảy ra khi luật tự
nhiên của nhân quả là nền tảng cho sự tác động hổ tương này; và như
thế, những sự kiện này làm sản sinh ra những sự kiện khác, rồi đến
lượt chúng lại làm sản sinh ra những sự kiện khác nữa, và cứ tiếp
tục như thế măi. Sự tác động hổ tương giữa những thực thể khác biệt
đồng thời cũng có thể làm phát sinh ra những tiến tŕnh mới, thiên
h́nh vạn trạng. Một sự hiểu biết sâu sắc, chi tiết về các định luật
khác nhau đang chi phối thế giới hiện tượng có thể giúp ta nhận thức
rằng gieo một cái nhân nào đó th́ gặt một kết quả tương ứng, rằng
cái này sẽ dẫn đến cái kia. Ta không thể nào lư giải định
nghiệp mà không chấp nhận rằng có một định luật tự nhiên chi phối
lên các định luật khác. Nếu có người hỏi tôi rằng tại sao thiện hành
dẫn đến thiện quả và ác nhân sinh ác báo, tôi chỉ có thể trả lời
rằng: “Chuyện nó phải xảy ra như thế. Đó là điều hoàn toàn tự
nhiên.” Ta không có một giải thích thuần lư cho vấn đề này./.
[MUCLUC]
[CH1]
[CH2]
[CH3]
[CH4]
[CH5][HOME]