Mục Lục
LỜI NGƯỜI DỊCH
Tâm Hà Lê Công Hà
LỜI NÓI ĐẦU
Steven D. Goodman
PHẦN THỨ NHẤT
Những Quán Tưởng Về Tân Thiên Niên Kỷ
PHẦN THỨ HAI
Tâm Linh và Chính Trị
PHẦN THỨ BA
Bất Bạo Động: Một Tâm Gương Để Noi Theo
PHẦN THỨ TƯ
Vượt Khỏi Giáo Điều
PHẦN THỨ NĂM
Duyên Khởi và Tánh Không
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG QUÁN TƯỞNG VỀ TÂN
THIÊN NIÊN KỶ
Hôm nay tôi lại được nh́n thấy một số
khuôn mặt quen thuộc cũ, tuy nhiên đây cũng là lần đầu tiên tôi hân
hạnh gặp gỡ đa số qúy vị. Điều này cũng chẳng có ǵ quan trọng bởi
v́ đi bất cứ nơi đâu tôi cũng luôn luôn có cảm giác là được gần gũi
những con người giống như chính bản thân tôi. Hiển nhiên chúng ta
đều là những con người trọn vẹn với ư nghĩa của nó, đặc biệt là khi
khuôn mặt chúng ta rạng rỡ những nụ cười nói lên những cảm t́nh chân
thật của một con người. Tôi đă nh́n thấy những cảm xúc chân thành đó
trên hầu hết những khuôn mặt của mọi người và cho tôi được hân hạnh
chia xẻ cùng qúy vị. Cảm giác thân thiện này luôn luôn tràn ngập tâm
hồn tôi cùng với ư thức về tính cách nhất thống của nhân loại. Thái
độ suy nghĩ này theo tôi, rất là quan trọng bởi v́ nó giúp ta nhận
ra và chia xẻ những vấn nạn, khổ đau của tha nhân.
Mặc dù nh́n nhân loại như một tổng thể
nhưng ta phải công nhận rằng không phải là không có những yếu tố làm
chia cách chúng ta chẳng hạn như tín ngưỡng, phong tục tập quán,
ngôn ngữ, và văn hoá. Tuy rằng tính cách đa dạng này có thể làm cho
cuộc sống phong phú thêm nhưng chúng ta cũng đừng nên quá đặt nặng
vào nó v́ không khéo sẽ làm tổn thương đến tính cách thống nhất của
con người hoặc để rồi phải đối đầu với những vấn nạn vô nghĩa.
Hơn lúc nào hết, thế giới hôm nay đang
trên đà gia tăng dân số và sự tiến bộ trên lănh vực truyền thông làm
cho chúng ta trở nên gần gũi với nhau, sự sống c̣n của nhân loại v́
thế phần nào dựa trên mối quan hệ hổ tương giữa những con người. Đó
là lư do tại sao mà hơn lúc nào hết, bây giờ chúng ta phải nh́n nhân
loại như một thực thể duy nhất. Những vấn nạn mà chúng ta hiện đang
đương đầu đă vượt ra khỏi tầm vóc của cá nhân hay quốc gia. Chúng ta
chỉ có thể giải quyết nó bằng nỗ lực của tinh thần chia xẻ trách
nhiệm chung.
Thái độ tinh thần của chúng ta có vẻ
như hoàn toàn không đáp ứng với những nhu cầu khẩn thiết hiện nay.
Bởi thế tốt nhất là chúng ta cần phải nắm vững thực tại để có thể
chuẩn bị cho ḿnh một thái độ tinh thần, nếp sống, sinh hoạt tương
xứng.
NHỮNG SUY NGHĨ VỀ XĂ HỘI
ĐƯƠNG ĐẠI
VÀ TƯƠNG LAI CỦA THẾ GIỚI
Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma,
Ngài có ưu điểm là đang sống gần gũi với cả hai giá trị Tây phương
lẫn Đông phương, một bên được gọi là những xă hội tiện nghi hưởng
thụ c̣n một bên là những xă hội mang tính bảo thủ truyền thống. Cả
hai hiện đang ở giữa một cuộc khủng hoảng đạo đức chưa từng thấy.
Xin được nghe ư kiến của Ngài về vấn đề này mà chúng tôi nghĩ
rằng
những lời khuyên sẽ mang đến rất nhiều lợi lạc. Chúng tôi cũng rất
muốn biết cảm tưởng của Ngài về tương lai của thế giới chúng ta
đang sống. Tuy nhiên trước tiên, nếu có thể được, xin Ngài vui ḷng
phác họa ra một vài nét chính về triết học Phật giáo để chúng tôi dễ
dàng trong việc theo dỏi ḍng tư tưởng của Ngài.
Tôi không bao giờ nghĩ rằng ḿnh là
người có khả năng đưa ra những lời khuyên bảo có thể giúp cho
những ai đang gặp khó khăn trong việc t́m kiếm cho ḿnh một giải
pháp thoát khỏi những khổ đau tinh thần hay bất cứ những khổ đau nào
khác. Ngay chính bản thân tôi, đôi khi tôi cũng cảm thấy ḿnh hoang
mang, băn khoăn, lo lắng kể cả những lúc chính ḿnh phải trực diện
với những xung đột nội tâm. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng đây là cơ hội
tốt để chúng ta cùng nhau chia xẻ những quan điểm khác biệt cũng như
những kinh nghiệm cá nhân đa dạng cuả chúng ta.
Tôi thường có thói quen nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của hạnh phúc và sự thành đạt, mà tôi tin rằng đó
chính là cứu cánh của đời người. Thí dụ, một người tự chọn bước vào
một cuộc hành tŕnh tâm linh bằng tất cả nỗ lực phi thường, thách đố
mọi khó khăn gian khổ không phải chỉ với một mục đích đơn giản là để
được trở thành một kẻ tử v́ đạo, mà chắc chắn là họ hy vọng t́m kiếm
cho ḿnh một niềm hạnh phúc lâu dài. Để đạt được mục đích này, họ có
thể đă không thèm quan tâm tới những phúc lợi cá nhân trong đời sống
hiện tại. Cho nên theo tôi, cách thức mà chúng ta suy nghĩ rất là
quan trọng trong việc t́m kiếm hạnh phúc. Chính thái độ tinh thần
cuả chúng ta mới là một trong những yếu tố hàng đầu trong việc kiếm
t́m hạnh phúc.
Quán chiếu và phân tích sự việc một
cách có luận lư sẽ giúp chúng ta phát triển một lối tư duy đúng
đắn. Nếu tâm hồn chúng ta càng rộng mở càng thư giản chừng nào,
chúng ta sẽ càng dễ dàng có một cái nh́n chính xác về sự vật chừng
ấy. Nó cho ta hai lợi điểm. Nếu ta để cho tâm hồn ta mở ngỏ, trước
tiên nó sẽ làm cho ta thanh thản, thoải mái với chính ḿnh. Và như
vậy, một khi tầm nh́n của chúng ta không c̣n bị hạn chế, ta sẽ rất
dễ dàng t́m ra cho ḿnh những giải đáp trước những vấn nạn, khó
khăn.
Chúng ta là những con người sống trên
trái đất này cùng với vô vàn những con người khác, hạnh phúc của
chúng ta quan hệ mật thiết với hạnh phúc của đồng loại. Thật khó mà
tưởng tượng nổi rằng hạnh phúc của cá nhân tách rời, không lệ thuộc
với hạnh phúc của người khác. Cho nên một điều chắc chắn rằng nếu
chúng ta khát khao hạnh phúc cho chính ḿnh, chúng ta cũng phải quan
tâm một cách sâu xa đến hạnh phúc của toàn thể nhân loại. Đó là lư
do tại sao tôi thường hay nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc triển
khai mộït ư thức trách nhiệm phổ quát cho tương lai.
Trong tôn giáo của chúng ta, trong
những lời nguyện cầu của chúng ta thường hay nói đến “phúc lợi của
toàn thể nhân loại” hoặc “hạnh phúc của con người”. Thế nhưng khi
tôi nói đến sự cần thiết của một trách nhiệm phổ quát, nó không phải
chỉ đơn thuần là một lư tưởng tôn giáo mà là một thực tế bao hàm cả
hai mặt hành động và dấn thân tham dự.
Những thay đổi lớn lao của thời đại đă
làm biến đổi khuôn mặt của thế giới, đặc biệt là trong lănh vực
truyền thông giữa con người. Hăy lấy Tây Tạng và những dân tộc quanh
vùng Hy Mă Lạp sơn làm thí dụ. Đă có một thời người ta có thể sống
một cách biệt lập trên những vùng núi non cao thẳm. Tuy nhiên, t́nh
huống này đă không c̣n xảy ra trong một thế giới lắm đổi thay, cho
dù ngay cả chúng tôi muốn sống biệt lập, cắt đứt mọi liên lạc với
thế giới bên ngoài.
Bây giờ xin mời qúy vị hăy cùng tôi
nh́n phớt qua khía cạnh phát triển kinh tế. Thật khó mà tưởng tượng
nổi rằng trong thời đại hôm nay lại có một quốc gia hay một lục địa
sống hoàn toàn dưới một chế độ chuyên chế. Một điều rơ ràng rằng,
không những các quốc gia đơn thuần mà ngay cả những châu lục cũng
phải sống nương tựa vào nhau trên b́nh diện kinh tế.
Rồi đến lănh vực trao đổi thông tin và
kiến thức, khoảng cách không gian đă không c̣n là một chướng ngại,
vấn đề truyền thông chung quanh trái đất này bây giờ chỉ diễn ra
trong ṿng nháy mắt. Lúc c̣n trẻ, Ấn Độ và Trung Quốc đối với tôi
quả thật là xa xôi diệu vợi, bởi v́ phải tốn cả tháng trời mới có
thể đi đến đó được. Bây giờ th́ chỉ cần vài tiếng đồng hồ là người
ta có thể đi từ Ấn Độ đến Âu Châu hay từ Âu Châu đi Mỹ quốc. Dĩ
nhiên những cuộc hành tŕnh bằng máy bay này có thể làm cho chúng ta
mệt mỏi nhưng nó khẳng định một điều rằng phía bên kia trái đất đang
nằm ở trong tầm tay với của chúng ta. Thế giới ngày càng trở nên nhỏ
bé và mỗi phần của nó lại phải nương tựa vào những phần khác. Hăy
lấy thí dụ về lănh vực môi trường, một quốc gia riêng lẻ, cho dù là
một siêu cường đi nữa cũng không thể nào một ḿnh tự giải quyết được
những vấn nạn lớn lao về môi trường, như là sự xói ṃn tầng ô-dôn
chẳng hạn.
Thực tế hôm nay cho thấy trái đất của
chúng ta trở nên nhỏ bé hơn và tất cả mọi người, tất cả mọi quốc gia
đều phải sống nương tựa chặt chẽ vào nhau. Thế nhưng về mặt tâm
linh, về mặt tinh thần có vẻ như chúng ta chưa được chuẩn bị để theo
kịp với thực tế cho nên đă không ḥa điệu được với khuynh hướng phụ
thuộc ngày càng gia tăng. Từ không gian nh́n xuống trái đất, có ai
thấy được những biên giới chia cắt các quốc gia? Chắc chắn là không!
Cũng thế, nếu ta quán tưởng sâu xa về sự phụ thuộc lẫn nhau của các
hiện tượng trên trái đất, những vấn nạn nhỏ bé cục bộ của chúng ta
sẽ mất đi sức nặng và từ đó chúng ta sẽ bắt đầu nh́n sự vật trong
tính toàn cầu, trong khái niệm chung của con người muôn thuở.
Trong ư nghĩa đó, khái niệm về “anh”
và “tôi” đă mất đi tính ưu tiên của nó, và khi ta nhận thức rơ điều
này, ḍng tư tưởng sẽ tự động dẫn ta đến một cảm giác sâu xa hơn về
một ư thức trách nhiệm đối với điều thiện phổ quát. Thế cho nên, ta
càng dính dấp vào những chuyện mang tầm vóc thế giới nói chung, ta
càng cảm thấy b́nh yên hơn, hạnh phúc hơn trong đời sống cá nhân.
Điều đó cũng có nghĩa là nếu ta biết chăm sóc đến tha nhân, quan tâm
đến phúc lợi của người khác chừng nào, ta sẽ bớt dần đi những thói
xấu ganh tỵ, kiêu căng, độc ác chừng ấy. Không nghi ngờ ǵ nữa,
những thói xấu đó cọng với tinh thần cạnh tranh ganh đua đă làm cho
chúng ta sống không hạnh phúc trong mỗi ngày qua. Thế nhưng khi ta
quan tâm đến phúc lợi của mọi người như là của chính chúng ta, tự
nhiên ta sẽ cảm thấy một niềm an lạc lớn lao tràn ngập tâm hồn.
Cách đây chẳng bao lâu, thế giới này
đă bị phân chia thành hai khối, Đông và Tây. Sự phân cách này đặt
căn bản trên ư thức hệ chính trị hơn là kinh tế. Một khi mà vũ khí
nguyên tử của phe này nhắm vào phe kia, người ta không thể nói đến
chuyện trợ giúp nhau mà phải nh́n thẳng vào thực tiễn thế giới trên
căn bản của khái niệm “anh” và “tôi”, của “chúng ta“ và “họ“. Như
thế đó, thế giới đă bị chia cách bởi ư thức hệ và quyền lực. Để tự
bảo vệ ḿnh, hai phe sẵn sàng chấp nhận nguy cơ bị tiêu diệt bởi một
trận chiến nguyên tử. Trong những t́nh huống như vậy, những suy
nghĩ của chúng ta không thể không bị đóng khung trong ư niệm cái này
là của chúng tôi, cái kia là của họ. Nhưng bây giờ kỷ nguyên đó có
thể đă qua rồi, chúng ta mường tượng đang bước vào một trật tự thế
giới mới.
Mấy năm trước đây, trong dịp hội kiến
với Tổng thống Bush tôi có phát biểu rằng trật tự thế giới mới sẽ là
một điều rất tuyệt vời nếu được kết hợp với tinh thần từ bi. Nếu
không có từ bi, tôi sợ rằng nó sẽ không thể thành công. Chúng ta
đang bước vào một thời điểm rất thuận lợi và quan trọng của lịch sử
thế giới. Đây là lúc mà chúng ta có cơ hội để ngồi lại làm việc cùng
nhau cho những mục tiêu tốt đẹp của nhân loại.
Khi ta suy nghĩ về một ư thức trách
nhiệm chung và có một cái nh́n về lâu về dài về mọi chuyện, vấn đề
kiểm soát sinh sản trở nên cần thiết. Trên quan điểm của người con
Phật, sự hiện hữu của con người là một điều vô cùng qúy giá, thế
nên, việc ngăn ngừa sinh sản có vẻ như không được đúng đắn. Tuy
nhiên hiện nay chúng ta đang đối đầu với t́nh trạng quá tải về dân
số mà thế giới có thể chịu đựng, thế nên khi có sự chọn lựa giữa một
bên là sự sống c̣n của nhân loại và một bên chỉ là một số lượng nhỏ
của những kẻ sắp ra đời, hiễn nhiên, chuyện kiểm soát sinh sản là
một điều cần thiết. Nhưng tôi cũng cần phải nhấn mạnh ở đây là, biện
phápï kiểm soát phải mang tính cách bất bạo động.
Những biến chuyển của t́nh h́nh thế
giới đă đưa đến việc tiết giảm, kể cả hủy bỏ các loại vũ khí nguyên
tử, một điều mà ai cũng thấy là rất tuyệt vời. Việc giải trừ quân bị
là một điều cần thiết. Tất cả các loại vũ khí hiện có nên được tiết
giảm từng loại một, từ các loại vũ khí của chiến tranh quy ước, đến
chiến tranh hóa học cũng như vũ khí nguyên tử. Thực tế cho thấy việc
ngưng sản xuất vũ khí có thể gây nên những vấn nạn trầm trọng cho
nền kinh tế và kỹ nghệ. Tuy nhiên những khó khăn đó tôi nghĩ là
không đáng giá so với phúc lợi chung của nhân loại, ta nên từ bỏ nó
trong khi kiếm t́m một giải pháp khác để giải quyết vấn đề.
Những khác biệt về truyền thống tôn
giáo cũng là một khía cạnh quan trọng trong thế giới này và tôi tin
chắc rằng đa tôn giáo là một điều vô cùng cần thiết. Ta không chối
căi rằng những tôn giáo khác nhau đă đưa ra những quan điểm siêu
h́nh khác biệt, tuy nhiên một điều rất rơ ràng là những thông điệp
căn bản của các tôn giáo chính đều rất giống nhau. Với những điều
kiện thuận lợi hiện có, ta hăy học hỏi để có thể làm việc cùng nhau,
sống với nhau trong tinh thần ḥa điệu.
Chiến tranh lạnh đă là sản phẩm của
quá khứ, cuộc đối đầu giữa Đông và Tây không c̣n nữa. Tuy nhiên vẫn
c̣n một khoảng cách không thể lấp bằng trong vấn đề phát triển kinh
tế giữa Bắc và Nam. Sự chênh lệch đáng kể về kinh tế đă tạo nên
những vấn nạn lớn lao cho các quốc gia mở mang. Trên quan điểm đạo
đức, sự cách biệt về mức sống đă là điều khó chấp nhận, nó lại c̣n
mang thêm những khó khăn cho các quốc gia phát triển mà hậu quả cụ
thể là sự di dân hàng loạt của các công nhân từ các xứ nghèo của Phi
Châu, Trung Đông, Viễn Đông đổ xô đến Pháp, Đức để t́m kiếm công ăn
việc làm.
Trong những giải pháp mà người ta có
thể h́nh dung ra để giải quyết vấn đề như từ chối không cho nhập
cảnh, trục xuất những người di dân đều không bền vững. Hơn thế nữa,
đó không phải là một giải pháp dài hạn. Phương cách hay hơn hết là
làm sao tạo ra được công ăn việc làm tại những quốc gia nghèo nhằm
mục đích khuyến khích và nâng cao mức sống của người dân địa phương
để họ không c̣n t́m cách di dân đi nơi khác với hy vọng kiếm t́m một
đời sống tốt đẹp hơn.
Chắc chắn là một số quốc gia thời hậu
Cộng sản hiện đang phải đối đầu với một số khó khăn lớn lao nhưng
tôi nghĩ là họ có nhiều tiềm năng để thành công về mặt kinh tế hơn
là một số quốc gia khác. Các quốc gia ở vùng Viễn Đông, Trung quốc,
Ấn độ cũng thế. Vùng đất gặp nhiều khó khăn nhất, theo tôi là Châu
Phi, một lục địa bao la với những khó khăn chồng chất. Cách đây
không bao lâu tôi có dịp viếng thăm Gabon, nơi mà trước đây nhà bác
học Abert Schweitzer đă từng sinh sống. Abert Schweitzer là một
người Pháp, một con người vĩ đại đă chứng tỏ một tinh thầnï can đảm
phi thường trong việc phục vụ những người nghèo khổ, những người cần
được trợ giúp. Nếu muốn cái hố ngăn cách giữa Nam và Bắc ngày càng
thu hẹp, hơn ai hết những nỗ lực chính phải đến từ những người ở
phía Nam. Những quốc gia giàu có có thể cống hiến những trợ giúp
nhưng đồng thời dân chúng tại các quốc gia nghèo hơn cũng phải đứng
ra tự gánh vác trách nhiệm cho chính vận mệnh của họ.
Một sự kiện bất hạnh và đáng tiếc khác
là ngay tại chính trong ḷng các quốc gia phát triển cũng hàm chứa
một sự phân cách lớn lao. Thành phần ưu đăi tuy chỉ chiếm một tỉ lệ
rất nhỏ trong xă hội nhưng lại nắm hết toàn bộ tài nguyên quốc gia
trong khi đại đa số quần chúng c̣n lại đều là những kẻ vô sản. Quả
là một điều rất đáng tiếc. Tuy không phải là một chuyên gia về các
vấn đề Phi Châu, nhưng trong chuyến thăm viếng vừa qua, điều đập vào
mắt tôi trước tiên là ở đây đang cần một nhu cầu căn bản, đó là học
vấn, giáo dục. Thật khó mà tưởng tượng là chỉ nội trong một quốc
gia cũng đă bị phân chia manh mún ra thành từng sắc dân, bộ lạc, nói
những ngôn ngữ khác nhau. Điều này tạo ra thêm nhiều vấn nạn mà
ngay cả cá nhân tôi tôi cũng không biết phải giải quyết như thế nào.
Đối phó với tất cả những vấn đề nan giải đó, chắc là người ta phải
khẩn cầu Trời Phật che chở!
Khi đề cập đến một số vấn đề quốc tế,
tôi thường phát biểu với thân hữu: “Qúy vị đang sống trong các quốc
gia dân chủ,đang hành xử quyền dân chủ mà ai cũng thấy là rất tuyệt
diệu và cần thiết. Thế nhưng, ngay tại xứ ḿnh th́ quư vị áp dụng nó
một cách trân trọng như vậy nhưng hiếm khi thấy qúy vị đem những
nguyên tắc này ra sử dụng trong các quan hệ quốc tế!”
Một số các nhà tư duy khoa học nay
cho rằng đă đến lúc không c̣n nên phân biệt giữa hai phạm trù đối
nội và đối ngoại nữa; chúng ta bây giờ đă là thành viên của một đại
gia đ́nh, tất cả đều b́nh đẳng như nhau, thế nên những vấn đề chung
của cả thế giới cũng nên được xem như là những vấn đề “nội bộï”
cả. Tôi nghĩ rằng đây là một cái nh́n rất thoáng và cao quư. Đem
áp dụng tinh thần này vào thực tiễn, chúng ta sẽ giải quyết được một
số vấn nạn chung.
Bây giờ hăy nói đến chuyện viện trợ
cho các Quốc Gia Thứ Ba, người ta luôn luôn áp đặt lên đó một số
điều kiện hoặc là một số giới hạn để t́m cách hạn chế nó. Quan niệm
về viện trợ như vậy tự nó đă bị hạn chế v́ chúng ta đă đặt ưu tiên
trên chính quyền lợi của quốc gia ḿnh, v́ vậy đă tạo nên những
chướng ngại cản trở cho việc điều hành một cách êm đẹp ngay giữa các
quốc gia với nhau. Những giới hạn này phải nên được hủy bỏ, thay vào
đó là thiện ư chính trị. Mà muốn đạt đến mục tiêu của thiện ư chính
trị,ta không thể không xây dựng trên căn bản của t́nh nhân đạo, trên
những nguyên tắc đạo đức vững chắc, đó là ḷng vị tha và ước muốn
tạo phúc lợi cho con người, cởi bỏ bớt cho họ những gánh nặng khổ
đau.
Nếu thiện ư chính trị được đặt nặng
trên những nguyên tắc này, tôi tin chắc rằng nó sẽ là một khí cụ lợi
hại. Nhà chính trị không phải từ trên trời rơi xuống. Họ cũng không
phải sinh ra từ không gian mà là một sản phẩm của xă hội, như chúng
ta vậy. Nếu trong một xă hội mà toàn thể dân chúng đều chung hưởng
một nền đạo đức luân lư cao qúy tốt đẹp, nhà chính trị được sản sinh
ra từ xă hội này chắc chắn không thể không kính trọng những giá trị
đó. Ngược lại, một xă hội không được xây dựng trên một nền tảng đạo
lư, những thành viên của nó không hề tôn trọng bất kỳ giá trị đạo
đức nào ngay cả cho chính ḿnh, th́ quả là điều phi lư khi họ lại
lên tiếng phê phán những nhà chính khách của ḿnh.
Một số người thường tự động liên hệ
giữa đạo đức cùng một số nguyên tắc, ḷng vị tha chẳng hạn, xem đó
là cái nh́n thế giới dưới chiếc kính màu tôn giáo. Lối suy luận đó
hàm chứa rằng tất cả tín đồ của mọi tôn giáo đều tuân thủ một số
tiêu chuẩn đạo đức, c̣n những ai không có tín ngưỡng cho dù có chấp
nhận những nguyên tắc đạo đức này đi nữa họ cũng vẫn là những kẻ vô
dụng, vô tích sự. Thật là một lầm lẫn lớn khi người ta tin rằng đạo
đức chỉ là một phó sản của tôn giáo. Ta có thể h́nh dung ra hai loại
người có đời sống tinh thần: loại thứ nhất là những người gắn chặt
cuộc đời họ với niềm tin tôn giáo, trong khi loại thứ hai là những
người được sinh ra b́nh thường như mọi người, sống với t́nh cảm giản
đơn như yêu thương người láng giềng, sẵn sàng giúp đỡ, cư xử tốt với
họ. Đây cũng là loại người có đời sống tinh thần vậy. Tin theo tôn
giáo là một điều tốt, thế nhưng con người vẫn có quyền sống mà không
theo bất cứ một tín ngưỡng nào. Tuy nhiên nếu không có những phẩm
chất đạo đức căn bản của con người, nếu không nuôi dưỡng sinh hoạt
tâm linh cho đời sống thế tục, cá nhân sẽ không bao giờ có được một
cuộc sống hạnh phúc và họ rất dễ dàng trở thành một tai họạ cho xă
hội.
Bây giờ chắc sẽ có người hỏi, vậy th́
cái ǵ được xem là phẩm chất đạo đức căn bản? Tôi có thể trả lời
ngay mà không cần suy nghĩ, đó là sự ân cần chăm sóc đến kẻ khác, đó
là ḷng thương yêu tŕu mến trong mỗi con người. Bản chất yêu thương
xuất hiện ngay từ những ngày đầu tiên khi ta hiện hữu trên trái đất
này. Hăy nh́n một bà mẹ chăm sóc đứa con của ḿnh: t́nh thương yêu
qủa là rất tự nhiên. Nếu không có t́nh cảm này có lẽ bà mẹ đă không
cho con bú và có lẽ bà ta cũng sẽ không có cả sữa. Đứa trẻ cũng thế,
nó t́m đến vú mẹ một cách tự nhiên, rồi được nâng niu với tất cả
những ân cần thương yêu từ người mẹ, nếu không được như thế chắc là
đứa trẻ đă không rúc vào vú mẹ.
Như vậy đó, t́nh cảm ân cần thương yêu
được biểu hiện ngay từ thuở đầu đời và đó chính là phần cốt lỏi của
bản chất con người. Không có tôn giáo nào hướng dẫn ta, không có
luật pháp nào bắt buộc ta và cũng không có trường học nào dạy ta về
cái t́nh yêu thương tự nhiên này. T́nh cảm yêu thương đó đă xuất
hiện cùng một lúc với thể xác ngay từ khi ta mới chào đời. Đó là một
đặc tính bẩm sinh của con người. Ngay từ ngày đầu tiên, đời sống của
ta đă được đánh dấu bởi t́nh thương yêu đối với tha nhân và qủa thật
là một điều cần thiết để bảo tồn cái bản chất tự nhiên đó của nhân
loại qua suốt kiếp người.
Đó là lư do tại sao mà tôi thường hay
bảo lưu quan điểm của ḿnh cho rằng bản chất của con người là yêu
thương, là nhân chi sơ tính bổn thiện! Nếu chúng ta sống một cách tử
tế phù hợp với bản chất yêu thương tự nhiên, chắc chắn ta sẽ gặt hái
được rất nhiều lợi lạc, không phải chỉ riêng cho chính bản thân ḿnh
mà cho cả xă hội mà ta đang sống. Đối với tôi, cái t́nh cảm yêu
thương tŕu mến này có thể được xem như là một thứ tín ngưỡng phổ
thông. Mọi người đều cần đến nó. Những người có đức tin cũng như
những người không đức tin. Những đức tính tốt đẹp này chính là nền
tảng căn bản của đạo lư.
Nếu qúy vị đồng ư với những ǵ mà tôi
vừa phát biểu về ḷng thương yêu vị tha này, xin hăy đón nhận nó như
là một phần của qúy vị, càng nhiều càng tốt. Ngược lại, nếu suy
nghĩ theo một hướng khác, tôi e rằng quư vị sẽ phải sống triền miên
trong những nỗi giận dữ. Nhưng mà chuyện đó đâu có ǵ quan trọng,
mọi người tự do mà!
Xin cảm ơn toàn thể qúy vị. Đó là tất
cả những ǵ mà tôi muốn tŕnh bày hôm nay.
Những phát biểu của
Đức Đạt Lai Lạt Ma đă làm chúng ta ư thức được tầm quan trọng trong
lănh vực tư duy của một nhà khoa học nhân văn cần nên có. Là một bác
sĩ y khoa, tôi đang chuẩn bị một số câu hỏi có thể làm đề tài cho
các cuộc thảo luận khác liên quan đến sinh học và đời sống tâm linh
của nhân loại trong tương lai. Hiển nhiên là tôi đă phác thảo những
câu hỏi này trong khung cảnh của nền tôn giáo độc thần đang chế ngự
phương Tây -Do thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo.
Những tiến bộ gần đây
trên các lănh vực y khoa, sinh học, di truyền học đă cho con người
khả năng sao chụp lại một cách không hạn định cùng một sinh thể,
nghĩa là khả năng tái tạo, nhân giống mọi sinh vật để có thể cùng
mang những đặc tính chung về thể chất lẫn tinh thần, tức là người
ta có thể ấn định trước được cung cách, thái độ sống cuả chúng.
Trong tương lai, qua sự can thiệp trực tiếp vào việc truyền sản,
chúng ta có khả năng tạo ảnh hưởng lên các thế hệ mai sau, ấn định
số lượng cũng như bản sắc của mọi cá nhân. Trong rất nhiều năm,
phôi bào của súc vật và có thể cả bào thai của con người sẽ là đối
tượng để nghiên cứu thí nghiệm về lănh vực này.
Căn cứ vào những thí
nghiệm như thế -thường được các cơ quan truyền thông tường tŕnh đầy
đủ- thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài tin rằng vào thời điểm nào trong
quá tŕnh thụ thai của sinh vật bắt đầu hàm chứa những hạt mầm tinh
thần hay dấu hiệu thiêng liêng của sự sống?
Phật giáo quan niệm rằng ư thức xâm
nhập vào sinh vật ngay từ phút giây đầu tiên của sự thụ thai, bởi lẽ
đó mà phôi bào vẫn được coi như là một sinh vật. Cho nên chúng tôi
xem hành động phá thai cũng giống như việc cướp đi sự sống của một
con người và dĩ nhiên đây không phải là một việc làm chánh đáng. Đó
là lư do giải thích tại sao chúng tôi đă nhấn mạnh đến sự cần thiết
của việc sử dụng phương thức bất bạo động trong việc kiểm soát sinh
sản. Tuy nhiên không phải là không có những trường hợp miễn trừ. Ví
dụ như trường hợp người ta biết chắc rằng đó là một quái thai hay
sinh mạng của người mẹ bị hăm dọa chẳng hạn. Dĩ nhiên tôi phát biểu
trên quan điểm của một người Phật tử. Bất cứ hành động nào ta cũng
phải nên cân nhắc giữa tốt và xấu, giữa lợi và bất lợi. Tựu trung
điều quan trọng vẫn là ư hướng và động cơ thúc đẩy đằng sau hành
động đó.
C̣n vấn đề vận dụng
ngành di truyền học th́ sao, thưa Ngài, -đây là một viễn tượng đă
trở thành cụ thể- phải chăng khi người ta có thể thay đổi được những
quy luật liên quan đến thân phận con người, nhân loại đă cướp quyền
tạo hóa?
Người ta có thể đi sâu vào việc vận
dụng ngành di truyền học để cải thiện thể chất con người, năo bộ,
v.v...
Phật giáo không quan niệm về một đấng
Tạo hóa cho nên vấn nạn này được nh́n dưới một lănh vực khác, đó là
nghiệp, tức là những tác hành xảy ra từ những kiếp trước cùng với
những hậu quả gây ra bởi những tác hành này. Cho nên nếu một người
là đối tượng của sự vận dụng của ngành di truyền học th́ đó chỉ là
kết quả gây ra do những việc làm của họ trong quá khứ mà thôi. Một
khi chúng ta nhận thức được cái chuổi nguyên nhân và hậu quả, chúng
ta cần phải quan tâm đến cái kết quả thiện hay ác gây ra do sự vận
dụng nói trên. Ví dụ, nó có mang lại cho ta những kết quả khích lệ
nào không trên phương diện trị liệu?
Nhưng rồi việc này lại đẻ ra một vấn
nạn khác: để t́m hiểu xem nó mang lại xấu hay tốt cho nhân loại ta
lại cần phải thí nghiệm. Và như thế, con người một lần nữa trở thành
những con vật thí nghiệm. Vấn đề này làm cho vấn nạn càng trở nên
phức tạp, nan giải. Người Phật tử quan niệm rằng thí nghiệm trên súc
vật cũng không khác ǵ trên con người và khó mà chấp nhận những
chuyện như vậy.
Mục tiêu của việc
nghiên cứu ngành di truyền học là nhằm giảm thiểu những bệnh tật và
khổ đau của nhân sinh. Nếu Ngài cho rằng khổ đau là một phần tất
nhiên của thân phận con người, tại sao ta lại không nghĩ rằng bằng
vào những nỗ lực thí nghiệm trên một số ít người, ta hy vọng sẽ giải
phóng nhân loại ra khỏi khổ đau?
Thật khó mà trả lời. Nhưng tôi xin
phép được hỏi qúy vị: Qúy vị có tin tưởng rằng với sự vận dụng ngành
di truyền học, mai đây con người sẽ trở nên bất tử? Tôi nghĩ việc
đó khó khăn lắm.
Trước tiên tôi không
chắc đó là điều người ta cố gắng muốn vươn tới.
Có hay không, tôi thật t́nh không
biết. Giả dụ như điều đó có thể xảy ra th́ rồi đến một lúc nào đó
người ta cũng phải t́m biện pháp ngăn ngừa sự sinh sản nếu không
muốn gánh lấy hậu qủa trầm trọng của sự gia tăng dân số. Mặt khác
nếu giả dụ như ta có khả năng chấm dứt sự sinh sản và cái chết của
con người cùng một lúc, th́ ta cũng phải thiết định và giữ ǵn một
trạng thái quân b́nh nào đó bởi v́ nếu thất bại th́ quả là một đại
họa.
Hăy để cho tôi trở lại
câu hỏi. Trong triết thuyết của các tôn giáo độc thần, sự khổ đau
thường được quan niệm như là một phương tiện dẫn đến sự cứu rỗi. C̣n
Phật giáo th́ sao thưa Ngài?
Tôi nghĩ rằng Phật giáo cũng quan niệm
tương tự. Bằng quan sát và quán chiếu về nỗi khổ đau của con người,
ta mong muốn được giải phóng khỏi những nỗi khổ đau ấy.
Thưa Đức Đạt Lai Lạt
Ma, tôi xin phép được hỏi Ngài về những liên hệ giữa Tây Tạng và
Trung Quốc. Có vẻ như Ngài rất tin tưởng rằng Tây phương sẽ tạo áp
lực lên Trung quốc về vấn đề này. Ngài có thể tin được chuyện là Tây
phương chịu hy sinh một thị trường lớn với hàng tỉ khách hàng để bảo
vệ cho nền độc lập tự trị của vài triệu người dân Tây Tạng? Có phải
là điều quan trọng hơn, hiệu qủa hơn, về lâu về dài, là nên tạo một
ảnh hưởng tinh thần lên Trung quốc thay v́ cứ măi chống đối họ? Ngài
có nghĩ rằng diễn tiến phát triển kinh tế tại Trung quốc có thể đi
song hành với sự tồn tại của hệ thống chính trị? Ngài có nghĩ rằng
những giá trị tinh thần của Tây Tạng sẽ cưỡng chống lại những tiến
bộ kinh tế do Trung quốc mang lại? Có phải là sự phát triển của nền
kinh tế Trung quốc mang lại mối hiểm họa lớn nhất cho Tây Tạng?
Suốt mười bốn năm qua chúng tôi đă cố
gắng thảo luận một cách nghiêm chỉnh với Trung Quốc về vấn đề Tây
Tạng, thế nhưng cho dù nhiều lúc đă phải xuống nước đối với họ,
những nỗ lực của chúng tôi cũng chưa đi đến đâu cả. Thế cho nên một
điều rất rơ ràng là, những áp lực của cộng đồng quốc tế quả là điều
vô cùng cần thiết. Từ những kinh nghiệm riêng của chúng tôi cho thấy
những nỗ lực của chúng tôi không mang lại kết quả cụ thể chúng tôi
càng thấy sự quan trọng của áp lực quốc tế. Tuy nhiên điều đó không
có nghĩa là chúng tôi hoàn toàn trông cậy mọi chuyện vào người khác.
Lư do mà chúng tôi chọn lựa đường lối
bất bạo động, cho dù bị chỉ trích, là v́ chúng tôi tin rằng cuối
cùng vẫn phải có một giải pháp giữa Trung Quốc và Tây Tạng. Một giải
pháp như thế chỉ có thể thành tựu một cách trực tiếp giữa hai quốc
gia mà thôi. Sự hỗ trợ của nhân dân Trung Quốc, đặc biệt thành phần
trí thức, sẽ là một yếu tố vô cùng cần thiết. Đó là lư do giải thích
tại sao chúng tôi theo đuổi phương thức bất bạo động ngay từ lúc
khởi đầu cho dù phải chấp nhận những khó khăn. Bằng cách này tôi
nghĩ là càng ngày càng có nhiều người Trung quốc, trong cũng như
ngoài nước, bắt đầu quan tâm và có cảm t́nh với cuộc tranh đấu của
chúng tôi. Có nhiều người Trung quốc đă lên tiếng cảm ơn chúng tôi
khi chọn lựa phương thức này. Dù ǵ đi nữa, tôi nghĩ rằng chọn lựa
phương thức thương thảo để giải quyết vấn đề là một hành động mang
giá trị tinh thần.
Trong mười bốn năm qua, tôi cũng đă
chứng kiến những phái triển kinh tế đáng kể tại Trung quốc, ta phải
mang ơn cho sự giải phóng hệ thống kinh tế đó. Tuy nhiên trên b́nh
diện chính trị, đă không có một chút nhỏ thay đổi nào, không có một
chút nhỏ cải thiện nào. Tôi nghĩ rằng về lâu về dài, sự giải phóng
kinh tế sẽ mang lại sự giải phóng chính trị.
Bây giờ nh́n vào xă hội Trung Quốc ta
sẽ thấy rằng nó được h́nh thành bởi ba giai tầng khác nhau. Trước
hết là thành phần lănh đạo và những người trung thành với đảng Cộng
sản . Kế đến là thành phần trí thức, sinh viên học sinh và sau rốt
là đám đông quần chúng. Nếu chúng ta chịu khó phân tích mối quan tâm
chính của từng giai tầng, ta thấy rằng thành phần thứ nhất chỉ nghĩ
đến quyền lực và cách thế để cai trị đất nước. Những người lănh đạo
đảng Cộng Sản luôn luôn muốn bám vào quyền lực bằng mọi giá và sẵn
sàng sử dụng mọi phương tiện cho mục tiêu này. Đều đó đă được chứng
tỏ rơ ràng qua vụ Thiên An Môn.
Thành phần thứ hai là một nhóm thiểu
số có ảnh hưởng mà mục tiêu cuối cùng của họ là xây dựng một thể chế
dân chủ tại Trung Quốc. C̣n thành phần thứ ba, quần chúng, họ chỉ
quan tâm đến đời sống thiết thực hàng ngày, mức sinh hoạt, cái ăn
cái mặc, chỗ ở, chiếc xe đạp hoặc cao hơn, chiếc xe gắn máy, cái tủ
lạnh, cái máy giặt... Tôi nghĩ là họ chẳng thèm quan tâm đến việc
đất nước có dân chủ hay không. Việc phát triển kinh tế do đó tạo
thêm niềm tin cho nhóm thứ nhất và thứ ba, đặc biệt nhóm thứ ba sẽ
cảm thấy thỏa măn về chuyện này. Nhóm thứ hai v́ thế bị cô lập, ở vị
thế bất lợi và do đó có thể họ sẽ bị xuống tinh thần. Nếu đúng như
vậy th́ qủa thật là một tai họa không phải chỉ riêng cho một tỷ dân
Trung Quốc mà cho cả hành tinh của chúng ta.
Nh́n kỹ vào đất nước Trung Quốc chúng
ta thấy ǵ? Đó là một quốc gia có dân số đông đảo nhất thế giới. Dân
chúng đang sống dưới cái ách của một chế độ chuyên chế độc tài mà ư
thức hệ luôn cổ vơ cho một bộ máy chiến tranh. Hơn thế nữa, Trung
Quốc hiện đang có vũ khí nguyên tử trong tay. Thế nên nếu kinh tế
của họ phát triển theo với một nhịp độ như hiện nay, tôi nghĩ là
chúng ta sẽ trông thấy một số hậu qủa nghiêm trọng xảy ra không phải
chỉ đối với những quốc gia lân bang với họ như Tây Tạng mà ngay cả
những nước lớn như Ấn Độ cũng như cả toàn thế giới.
Bây giờ xin được trả lời phần thứ hai
câu hỏi của qúy vị, tôi nghĩ rằng vấn đề phát triển kinh tế tự nó
không phải là một mối hăm dọa đối với nền văn hóa hay đời sống tinh
thần của nhân dân Tây Tạng, nếu trong khi thực hiện, người ta quan
tâm đến những điều kiện sẵn có của đất nước này. Phát triển kinh tế
có thể đi đôi với phát triển văn hóa. Trong Phật giáo, khi nói đến
hạnh phúc nó cũng bao hàm cả những phúc lợi về mặt vật chất.
Điều mà chúng tôi quan tâm là, sự phát
triển kinh tế của Trung quốc đă tạo nên một vấn đề nghiêm trọng
trong việc thuộc địa hóa Tây Tạng khi Trung Quốc mang một số lượng
lớn dân của họ vào đất nước chúng tôi. Mối hăm dọa lớn đối với Tây
Tạng là vấn đề di dân, đặc biệt là sự di dân hàng loạt người Trung
Quốc vào Tây Tạng. Chính cơn lũ những người Trung Quốc thực dân này
đă tạo nên một bầu khí cực kỳ căng thẳng trên khắp đất nước chúng
tôi, tiếp tục gia tăng t́nh trạng vi phạm nhân quyền sẫn có. Thêm
vào đó, nó cũng đă gây nên những thiệt hại đáng kể trên lănh vực môi
sinh. Không biết có được tính toán trước hay không, một sự huỷ diệt
văn hoá đă xảy ra tại Tây Tạng và tôi nghĩ đó là mối nguy cơ lớn
nhất cho tương lai của đất nước chúng tôi.
Thưa Ngài, trong một
lần phát thanh gần đây, Ngài tuyên bố rằng Ngài có cảm giác ḿnh như
là một người Mác xít. Ư nghĩa đích thực của lời tuyên bố này là ǵ?
Bằng cách này hay cách khác, Ngài đă nhiều lần biểu tỏ một niềm tin
tưởng sâu xa vào thể chế dân chủ, kể cả ư hướng từ bỏ quyền lực
chính trị nếu Tây Tạng được tự trị. Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, theo ư
Ngài thể chế dân chủ hiện nay có gần gũi với những giá trị của Phật
giáo hay không? Có mâu thuẫn nào không giữa những giá trị này và
những qui luật của dân chủ ?
Đứng trên quan điểm đạo đức mà nói,
tôi thấy một số phạm trù của chủ nghĩa Mác rất có giá trị chẳng hạn
như chế độ b́nh sản, bảo vệ kẻ nghèo chống lại sự bóc lột của thiểu
số. Những khái niệm này ta có thể chấp nhận được. Tôi tin là người
ta có thể cho rằng hệ thống kinh tế gần gũi nhất với Phật giáo, đặc
biệt là Phật giáo Đại thừa, là hệ thống kinh tế xă hội. Chủ nghĩa
Mác đặt căn bản trên những tư tưởng tốt đẹp, thí dụ như bảo vệ quyền
sống cho những người bị thiệt tḥi nhất trong xă hội. Tuy nhiên khi
đem áp dụng những nguyên lư này vào thực tế, người ta đă xây dựng
trên căn bản hận thù bạo động đối với giai cấp chủ nhân và rồi sự
thù hận này được chuyển thành giai cấp đấu tranh và sự tiêu diệt
giai cấp bóc lột. Một khi giai cấp chủ nhân bị loại trừ th́ rồi
cuối cùng cũng chẳng c̣n ǵ lại cho dân chúng và tất cả đều trở
thành vô sản nghèo đói. Bởi v́ ngay từ đầu đă hoàn toàn vắng bóng
tinh thần từ bi.
Tương lai của Tây Tạng đă được quyết
định, nó sẽ phải là một quốc gia dân chủ. Tôi không biết có sự mâu
thuẫn nào giữa dân chủ và Phật giáo hay không, nhưng tôi có thể nói
rằng Phật giáo Đại thừa chính là tôn giáo của dân chủ. Sau đây là
một thí dụ. Một cộng đồng tăng lữ (tức Tăng già, Shangha) thành
h́nh khi nó quy tụ được ít nhất bốn vị tăng sĩ . Khi có một vấn đề
quan trọng cần phải lấy quyết định, tất cả tăng sĩ trong nhóm như là
một khối thống nhất sẽ giải quyết vấn đề chứ không phải chỉ một ḿnh
người lănh đạo của nhóm. Tương lai của Tây Tạng, theo tôi, lư tưởng
nhất là sự pha trộn của các hệ thống kinh tế. Nếu qúy vị hỏi thêm ǵ
khác, hoặc chất vấn tôi loại h́nh kinh tế đó như thế nào, câu trả
lời của tôi chắc là rất ngắn!
Thưa Ngài, xin được
hỏi Ngài một câu hỏi liên quan đến vấn đề Nam và Bắc mà Ngài đă từng
đề cập đến khi trả lời câu hỏi của chúng tôi trước đây. Thực tế cho
thấy là có đến 80% tiền viện trợ của Pháp cũng như các quốc gia Tây
phương cho các quốc gia đang phát triển, đều lọt vào túi của tham
nhũng. Như vậy Ngài quan niệm như thế nào về kiểu cách liên hệ giữa
các quốc gia kỹ nghệ và Thế Giới Thứ Ba?
Vâng, tôi đă từng đề cập đến vấn đề
này khi phát biểu rằng, điều cần thiết là phải làm giảm bớt hố sâu
ngăn cách giữa các quốc gia phía Nam và phía Bắc. Việc trước tiên là
phải làm giảm khoảng cách ngay trong tự thân của các quốc gia phát
triển, giữa thiểu số được ưu đăi và đại đa số quần chúng. Như tôi đă
phát biểu trước đây, trước tiên mỗi quốc gia phải tự ḿnh vận dụng
những nỗ lực để đạt đến tiến bộ. Điều này quá hiển nhiên. Người ta
không thể đứng yên một chỗ suốt đời duỗi cánh tay ra mà có thể giải
quyết mọi vấn đề. Người Tây Tạng chúng tôi trong thời gian lưu vong
đă nhận được một số lượng viện trợ đáng kể. Trong thời gian đầu,
chúng tôi hoàn toàn trông cậy vào sự trợ giúp này. Nhưng chúng tôi
cũng biết rằng điều trước tiên là ḿnh phải thể hiện những nỗ lực
lớn lao để bảo đảm cho sự tồn tại của chính ḿnh. Bây giờ th́ không
những chúng tôi có khả năng đáp ứng những nhu cầu của chính ḿnh mà
c̣n có thể làm việc trên nhiều dự án khác nhau nhằm mục đích bảo tồn
bản sắc và nền văn hóa của Tây Tạng.
Thế nên, những nỗ lực trước tiên phải
là của các quốc gia Thế Giới Thứ Ba. Hiện nay các quốc gia này được
lănh đạo bởi một giai tầng ưu đăi, thường là tốt nghiệp tại các nước
phương Tây và bởi thế đă có một khoảng cách đáng kể giữa họ và dân
chúng. Thế nên, bước cần thiết đầu tiên để xóa bỏ sự chia cách này
là giáo dục quần chúng, tạo điều kiện cho những thành phần không
được ưu đăi trong xă hội có cơ hội được nâng cao tŕnh độ kiến thức.
Trong chuyến viếng thăm Gabon vừa rồi,
tôi đă phát biểu với những người bạn Phi châu rằng, qúy vị đang sống
trên một lục địa bao la, có quá tŕnh lịch sử, nhiều tiềm năng lớn
lao và tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng cái mà qúy vị thiếu
là sự tự tin ở chính ḿnh. Phải phát triển niềm tự hào, phải nuôi
dưỡng sự quyết tâm, và dồn tất cả mọi nỗ lực để thực hiện sự biến
đổi t́nh huống hiện tại. Hăy nh́n tấm gương của Mahatma Gandhi: mặc
dù ông ta được hấp thụ một nền học vấn cao của Tây phương nhưng ông
ta không bao giờ quên hay xa rời chiếc nôi văn hóa của chính ḿnh.
DUYÊN KHỞI VÀ Ư THỨC
GIÁC NGỘ
Xin Ngài vui ḷng cho
biết một cách vắn tắt Phật giáo là ǵ? Chúng tôi thường thắc mắc
không biết đó là một triết lư hay là một tôn giáo; đối với Tây
phương, nhiều khi Phật giáo được hiểu một cách giản đơn đó là ư niệm
về sự tái sanh, tuy nhiên chúng tôi biết chắc không phải như thế.
Để trả lời câu hỏi này,
tôi có thể nói một cách tổng quát rằng bản chất của Phật giáo là bất
bạo động, nếu nh́n trên quan điểm hành xử cá nhân, nhưng nếu đứng
trên quan điểm triết học th́ đó là yếu tính duyên khởi của mọi hiện
tượng. Để có thể h́nh dung ra khái niệm về bất bạo động, tôi có thể
khẳng định rằng cách hành xử lư tưởng nhất là hăy làm tất cả điều
thiện cho kẻ khác. Nếu người ta cảm thấy rằng chuyện này là khó khăn
th́ ít nhất chúng ta nên tránh đừng gây tổn hại cho người.
Về mặt nhân duyên của hiện
tượng, một sự thực mà chúng ta thấy là tất cả mọi hiện tượng đều tùy
thuộc vào những nguyên nhân khác nhau và điều kiện sinh ra chúng,
hay nói một cách khác, mọi hiện tượng hiện hữu trong mối tương quan
với nhau và phụ thuộc vào nhau. Ư niệm về nhân duyên giúp cho chúng
ta hiểu rơ được niềm hạnh phúc, nỗi khổ đau của chúng ta chỉ được
h́nh thành với sự tham dự của những nguyên nhân và điều kiện và sự
hiện hữu của chúng phụ thuộc vào một số yếu tố nhất định. Hiểu như
vậy sẽ dẫn ta đến một thái độ bất bạo động.
Như vậy, nh́n trên quan
điểm hành xử -bất bạo động- chúng ta có thể xem Phật giáo như là một
tôn giáo, c̣n nếu ta quan tâm đến khái niệm về yếu tính duyên khởi
của hiện tượng, Phật giáo được coi như là một triết học. Tuy nhiên
nếu hiểu theo đúng nghĩa của từ “tôn giáo“ bao hàm sự tin tưởng vào
một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo th́ Phật giáo không đáp ứng với định
nghĩa tôn giáo. Một số học giả phương Tây cho rằng Phật giáo không
phải là một tôn giáo mà đúng hơn là một khoa học về tâm linh. Sự
thực là một bộ phận lớn của Phật giáo chuyên tâm vào lănh vực tham
thiền, tuy nhiên chúng tôi được hướng dẫn làm cách nào để thông qua
thiền định, con người có thể tiến triển trên
con đường tu tập và đạt
đến những đẳng cấp tinh thần cao hơn. Nh́n trên khía cạnh này, Phật
giáo được xem như là một tôn giáo.
Trên thế giới như quư vị thấy ở một
bên chúng ta có các tôn giáo được xây dựng chủ yếu trên đức tin
nhưng đồng thời ở thái cực kia lại cũng có những người tin theo chủ
nghĩa duy vật một cách triệt để. Cả hai lối tiếp cận hoàn toàn đối
nghịch nhau, chỉ có Phật giáo là đi theo con đường trung đạo. Đối
với những tín ngưỡng được xây dựng trên căn bản đức tin, Phật giáo
không được xem như là một tôn giáo. Tuy nhiên ta cũng không thể xếp
loại Phật giáo vào hàng ngũ của chủ nghĩa duy vật. Phật giáo v́ thế
có thể là chiếc cầu nối liền hai lối tiếp cận.
Sự tái sanh là một phần trong những
giáo lư cơ bản của Phật giáo. Thông qua thiền quán về những chân lư
cơ bản này, con đường tâm linh của ta ngày càng phát triển và cuối
cùng ta đạt đến sự chứng nghiệm. Ngược lại ta sẽ không đạt được sự
chứng nghiệm tâm linh nếu thiền quán trên những ư tưởng vốn dĩ đă
sai lầm từ căn bản hoặc không hề hiện hữu. Thí dụ, do thấy được sự
hiện hữu của tánh không, cũng như tính chất vô thường của các hiện
tượng, về sự khổ đau... mà ta có thể tập trung thiền quán trên những
đề mục này. Như vậy nhờ biết rằng chúng hiện hữu nên ta có thể quán
tưởng về chúng và đạt đến sự chứng ngộ, nếu không ta chỉ hoài công
vô ích. Nguyên lư về tiền kiếp và hậu kiếp, sự tái sanh là một trong
những giáo lư cơ bản của Phật giáo.
Thưa Ngài, cách thức
vận y phục của Ngài có mang một ư nghĩa tôn giáo nào không? Cụ thể
là việc để trần một cánh tay chẳng hạn?
Chỉ là để cho bắp thịt cánh tay phát
triển thôi mà! (*) Xin qúy vị lưu ư rằng chiếc y mà giới tăng sĩ
chúng tôi đang bận đây có nguồn gốc từ Ấn Độ. Bởi v́ Ấn Độ là một xứ
nóng, người tu sĩ không những để cánh tay trần mà c̣n để ngực trần
nữa, ngoại trừ khi họ quấn khăn. C̣n bên Cam Bốt chẳng hạn, tăng sĩ
bận áo dài tay bên trong chiếc y màu vàng của họ v́ trời lạnh. Tại
Tây Tạng, mặc dù thời tiết rất lạnh, chúng tôi không bận áo tay dài
mà thường quấn vào người một tấm khăn dày. Tôi thấy cũng cần lưu ư
qúy vị rằng chiếc y của người tu sĩ Phật giáo được may bởi những
mảnh vải khác nhau kết hợp lại. Sự nối kết những mảnh vải này nhằm
tránh cho tâm ta không bị vướng mắc vào chuyện ăn mặc áo quần. Tuy
nhiên, một đôi khi khâu vào cho nhiều lại càng bị vướng mắc thêm
nhiều! (*)
(*) Ghi Chúcủa người dịch: Đức Đạt
Lai Lạt Ma đang nói đùa (joking). Ngài luôn luôn tạo không khí cởi
mở thoải mái với người đối thoại qua lối nói đùa dí dỏm của Ngài.
Thưa Đức Đạt Lai Lạt
Ma, Ngài đă từng nói rằng triết học của Phật giáo đặt căn bản trên
nhân duyên giữa các hiện tượng với con người. Như vậy phải chăng
Phật giáo ở vào một trạng huống tốt đẹp hơn để có thể hiểu được
những yêu cầu của ngành sinh thái học hiện nay?
Khi ta nh́n sự hiện hữu mang tính phụ
thuộc và các hiện tượng tương thuộc lẫn nhau, hai chuyện này sẽ giúp
ta nh́n rơ vấn đề. Về khía cạnh nhân duyên, ta nên nghĩ rằng nếu
ta muốn đảm bảo hạnh phúc cho tương lai th́ điều cần thiết là ta
phải tạo ra những nguyên nhân đưa đến hạnh phúc ngay từ bây giờ.
Cũng thế,thế hệ của chúng ta hôm nay không thể sử dụng môi trường
cho tiện ích của riêng cá nhân ḿnh mà phải nghĩ đến tiện ích của
những thế hệ tương lai. Nếu ta nh́n vào tính phụ thuộc của sự hiện
hữu, ta sẽ thấy rằng t́nh trạng của môi trường sống đóng một vai tṛ
quan trọng ảnh hưởng đến t́nh trạng sức khoẻ của chính chúng ta.
Nếu không khí mà chúng ta thở không trong lành, dĩ nhiên ta phải
nhận chịu những hậu qủa rủi ro. Thế nên một điều rất quan trọng là
ta nên nh́n vấn đề trên sự tương quan cuả nguyên nhân và hậu quả
cũng như về yếu tính duyên khởi giữa các hiện tượng. Quan điểm về lư
duyên khởi đặc biệt góp phần giúp ta nh́n thế giới một cách thánh
thiện cũng như mang tính toàn cầu.
Nhân loại từ lúc ban
sơ đă tranh luận về vấn đề một xă hội lư tưởng. Thưa Ngài, phải
chăng xă hội Tây Tạng trước khi bị Trung quốc xâm lăng năm 1959 được
coi như là một xă hội lư tưởng?
Xă hội Tây Tạng cổ không phải là một
xă hội hoàn hảo. Đó là một xă hội nông nghiệp và chăn nuôi dựa trên
căn bản của chế độ nông nô. Tuy nhiên nếu ta so sánh với các quốc
gia đương thời như Trung Quốc, Ấn Độ, nó không đến nổi quá khắc
nghiệt mà ngược lại có phần nhân ái hơn. Tôi tin rằng một số các nền
văn minh tối cổ, như người da đỏ bản xứ tại Mỹ chẳng hạn, thường bày
tỏ ḷng tôn kính đối với đất đai, thiên nhiên, cây cối. Trong văn
hóa Tây Tạng, mối liênhệ giữa chúng tôi với thiên nhiên, kể cả loài
vật rất là an lạc. Chúng tôi sống ḥa điệu với thiên nhiên. Từ khi
mới lập quốc cho đến sau này, khi chúng tôi tiếp xúc với Phật giáo,
xă hội Tây Tạng nói chung rất là nhân ái và cởi mở. Đó là một xă hội
mà trong đó mọi người cảm thấy sống một cách thoải mái. Từ những lư
do này, tôi tin rằng đây có thể là một xă hội kiểu mẫu.
Ngài có nghĩ rằng nói
nhiều để diễn đạt tư tưởng có thể không phải là nét đặc biệt của
nhân loại bằng sự im lặng?
Đối với những ai lựa chọn con đường
tâm linh, tu hành hoặc đang thực tập thiền định, im lặng là một phần
tối cần thiết. Những ai không theo con đường tâm linh, những người
không có đức tin, im lặng là một cách thế nghỉ ngơi, thư giăn.
Thưa Ngài, Ngài có
nghĩ rằng có nhiều người trông có vẽ như là người lớn -chẳng qua là
do tuổi tác của họ, nhưng thật ra họ giống như trẻ con bởi v́ họ
không thực hành thiền định?
Tôi nghĩ rằng có rất nhiều cách để xác
định sự trưởng thành. Tuổi tác là một và rồi cách thức mà người ta
suy nghĩ, sự phát triển phẩm chất của một con người và cuối cùng là
kinh nghiệm và sự chứng nghiệm tâm linh. Nếu nh́n như vậy th́ có
nhiều người rất già mà tâm hồn họ c̣n trẻ cũng như nhiều người rất
trẻ mà qua cung cách suy nghĩ họ đă tỏ ra rất chín chắn.
Thưa Ngài, Ngài có thể
giải thích hiện tượng hiện có một số đông những người trẻ Tây phương
đang quay về với trí tuệ và những giá trị tinh thần của Đông phương
trong khi truyền thống của Tây phương không phải là không phong phú?
Đa phần các quốc gia Tây phương đều
chia xẻ chung một nền văn minh Cơ Đốc lâu đời. Tôi không nghĩ rằng
điều này sẽ thay đổi và cũng không có lợi ǵ để thay đổi. Tuy nhiên,
trong số hàng triệu con người sống trên thế gian này chắc chắn là họ
có những sở thích, những bản chất, những khuynh hướng tinh thần cá
biệt, không ai giống ai cả. Trong số đó, sẽ có những người cảm thấy
ḿnh gắn bó với Phật giáo cũng giống như tại Tây Tạng, một xứ có
truyền thống Phật giáo lâu đời, vẫn có những người theo Hồi Giáo, Cơ
Đốc giáo... Cho nên qủa là điều b́nh thường khi có những người Tây
phương thích Phật giáo, bây giờ cũng như trong tương lai. Trong số
này, có người th́ bị lôi cuốn bởi lối suy luận có phương pháp hoặc
lối hành thiền của Phật giáo. Có người th́ bị thu hút bởi khả năng
là nếu theo đuổi cuộc lột xác này họ sẽ tỉnh thức với con mắt thứ ba
thay v́ với hai con mắt trần như trước đây!
Thưa Ngài, Ngài có
nghĩ rằng nền giáo dục cao cấp chỉ làm cái công việc đơn giản là sửa
soạn tâm hồn cho bộ môn khoa học rèn luyện trí óc và người thầy
không làm việc ǵ khác hơn ngoài sự phân phối kiến thức. Theo Ngài,
họ có một nhiệm vụ cao cả nào không?
Đây là một câu hỏi rất có ư nghĩa! Nét
độc đáo căn bản của nhân loại, làm cho con người vượt lên trên tất
cả mọi loài vật khác, là trí thông minh vượt bực. Do ở trí thông
minh này mà xă hội của chúng ta tràn ngập đủ màu sắc khuynh hướng dị
biệt, người này khác với người kia, và dẫn ta đến những cung cách
hành xử rất khác biệt. Điều này có thể mang lại những t́nh huống
rất khó xử và cả những vấn nạn khó khăn nữa.
Hăy nh́n vào trường hợp của một cá
nhân chẳng hạn. Anh ta có thể thay đổi lề lối suy nghĩ của ḿnh và
rồi đưa đến những xung đột nội tâm. Tôi thường hay nói đùa rằng, con
người sẽ không phải là con người nếu không luôn ở trong t́nh trạng
mâu thuẫn và xung đột nội tại. Tuy nhiên, do có đầu óc thông minh,
chúng ta có thể vượt qua được những mâu thuẫn, những xung đột để đi
đến một giải pháp vẹn toàn. Trí khôn của con người là nguyên nhân và
đồng thời cũng là giải pháp cho tất cả những vấn nạn của chúng ta.
Giáo dục, ch́a khóa của kiến thức, sẽ giúp phát triển và kích thích
sự thông minh này. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là nó luôn luôn
mang đến những chuyện tốt đẹp. Nó có thể tạo ra những vấn nạn khác
khi nó mang lại những điều xấu.
Giáo dục tự nó không mang tính tiêu
cực hay tích cực. Vấn đề là làm sao ta có thể nâng cao, vận dụng
được trí thông minh của con người vào những điều thiện, bởi thế đối
với nhà giáo dục điều quan trọng nhất là phải can đảm, thành thật và
lương thiện. Cho dù ở trong cương vị một bậc phụ huynh trong gia
đ́nh hay người thầy giáo trong các cấp tiểu trung hay đại học, nhà
giáo dục không phải là người chỉ làm nhiệm vụ rao truyền kiến thức
mà phải là người giúp đỡ cho người học tṛ ḿnh có một đời sống đúng
nghĩa, không những chuẩn bị cho họ hài ḷng thỏa măn với cuộc sống
riêng tư mà c̣n trở nên những con người hữu dụng cho xă hội. Để làm
được điều này, người thầy phải quan tâm sâu xa đến tương lai của
người học tṛ, và không ngừng khích lệ chúng. Thế nên một điều cần
thiết là việc hấp thụ kiến thúc phải đi đôi với phát triển ḷng vị
tha.
Tôi tin chắc là Ngài
cũng đă lưu ư đến t́nh trạng trong đất nước này có rất nhiều người
trẻ bị lây nhiễm bệnh AIDS, nhiều người bị nghiện ngập cũng như số
lượng những người tự tử ngày càng gia tăng trong giới trẻ. Thưa
Ngài, Ngài có những đề nghị nào cho những nhà lănh đạo đất nước này
để giúp họ t́m ra những phương thức giải quyết những vấn nạn kinh
khủng đó?
Tôi nghĩ rằng phương thức đầu tiên để
vượt qua những căn bệnh xă hội là phát triển ư thức kỷ luật tự giác
trong đời sống cá nhân qua đó con người tự ḿnh có thể kiểm soát lấy
ḿnh. Thật khó mà đem bất kỳ loại kỹ luật nào từ bên ngoài áp đặt
lên con người. Để có thể giải thích thêm về sự tự giác cá nhân, tôi
xin nêu ra một thí dụ về những ngôi làng trên vùng thượng du Hy Mă
Lạp Sơn. Một số giới chức hữu trách Ấn Độ, các cảnh sát viên cũng
như rất nhiều người địa phương đă cho tôi hay rằng trong quá khứ
tại đây ít khi xảy ra những tội ác, thỉnh thoảng mới có những vụ
trộm cắp lặt vặt hoặc đánh lộn, và hầu như không hề có chuyện nói
láo, nói gạt lẫn nhau. Mặc dù ở đây thiếu vắng những tiện nghi về
mặt vật chất, không có một nền giáo dục hiện đại nhưng con người
sống với nhau rất lương thiện. Thế nhưng qua những năm gần đây, khi
giáo dục và những tiến bộ của nền văn minh hiện đại được mang đến từ
vùng đồng bằng, tội ác lại ngày càng gia tăng. Như vậy, tội ác sẽ
không xảy ra khi mọi người biết áp dụng sự tự chế thông qua tính kỷ
luật tự giác trong mỗi cá nhân, lúc đó họ không cần đến bất cứ loạïi
cảnh sát nào đến từ thế giới bên ngoài. Thí dụ này cho ta thấy tầm
quan trọng của ư thức kỷ luật tự giác.
Tuy nhiên xin qúy vị hiểu cho rằng tôi
không bao giờ cổ vơ cho việc kiềm chế một cách có hệ thống tất cả
mọi dục vọng, ước mơ xuất hiện trong tâm hồn của mỗi con người.
Ngược lại, như tôi đă tŕnh bày, loại kỹ luật chân chính đáng tin
cậy không thể bắt nguồn từ sự kiềm chế mà là từ sự hiểu biết sâu xa
tất cả mọi nguyên uỷ hành động của chúng ta. Trong cơn bốc đồng,
chúng ta có thể đạt đến những khoái cảm trong phút chốc, thế nhưng
chúng ta phải ư thức được những hậu quả cuả chúng, tuy có thể không
xảy ra ngay trước mắt nhưng chắc chắn là sẽ xuất hiện trong tương
lai. Thế nên chúng ta phải dùng óc thông minh và trí tuệ của ḿnh để
ngăn chặn những ham muốn tức thời, đưa chúng lên bàn cân để cân nhắc
những hệ quả tốt xấu và cuối cùng quyết định lựa chọn một con đường
tốt nhất.
Hăy lấy thí dụ về trường hợp những
người có những liên hệ t́nh dục không đúng đắn hoặc nghiện ngập ma
túy. Cái ǵ đă đưa đẩy họ vào con đường này? Phải chăng là do khoái
cảm nhất thời? Tuy nhiên nếu đem so sánh cái khoái cảm nhất thời đó
với những hậu qủa trầm trọng của hành động này gây nên, một điều
hiển nhiên rằng khoái cảm trong phút chốc không đủ để trả giá cho
những hậu qủa tiêu cực về lâu về dài. Thế nên một điều cần thiết là
ta phải ư thức về những hành động của chúng ta và hậu quả của chúng.
Đức tin dĩ nhiên là điều cần thiết, nhưng giáo dục lại càng quan
trọng hơn. Toàn thể cộng đồng chúng ta phải chia xẻ trách nhiệm
chung, không phải chỉ riêng các giới hữu trách. Để xây dựng một xă
hội lành mạnh, mọi thành viên trong xă hội phải cùng nhau chia xẻ
trách nhiệm.
Thưa Ngài, Ngài có ư
kiến như thế nào về việc sử dụng “áo mưa” để ngừa thai?
Rất tốt, một lựa chọn đúng đắn. Tuy
nhiên tôi có một giải pháp tốt hơn cho việc kiểm soát sinh đẻ và
pḥng ngừa bệnh AIDS: Sống độc thân, giữ ǵn trinh tiết! Như vậy
chắc là chúng ta sẽ có nhiều tăng sĩ và nữ tu! Nhưng nếu điều này
quá khó khăn, không thể thực hiện được th́ giải pháp mà quư vị vừa
nêu ra cũng tốt vậy.
Thưa Đức Đạt Lai Lạt
Ma, vừa mới đây Ngài đă lên tiếng ca ngợi thiên nhiên, thế nhưng
chúng tôi tin rằng c̣n có một lănh vực môi sinh khác, cũng rất nhức
nhối, đó là con người. Ngài có ư kiến ǵ về trách nhiệm của chính
phủ đối với những người bị lùa ra khỏi mảnh đất của ḿnh đang sống,
những kẻ lưu vong, những kẻ vô gia cư, nói chung là những điều bất
hạnh hiện đang xảy ra khắp nơi?
Khi chúng ta đề cập đến chính phủ, mà
chính phủ ở đây là do dân bầu ra theo nguyên tắc dân chủ th́ phân
tích cho cùng người dân chính là những vị lănh đạo thực sự của đất
nước họ. Họ chọn lựa ra chính phủ có trách nhiệm hoàn tất những bổn
phận mà họ giao phó. Dĩ nhiên khi đắc cử, chính phủ phải có trách
nhiệm đối với những công dân của họ, đặc biệt là những thành phần
yếu kém, không được ưu đăi trong xă hội, v́ những lư do đạo đức cũng
như tính cách thực tiển của vấn đề. Nếu xảy ra một sự đổ vỡ giữa các
giai tầng trong xă hội, những vấn nạn tất sẽ xảy ra. Ư kiến cá nhân
của riêng tôi, cũng như một số thân hữu Phật tử trong cả hai giới cư
sĩ lẫn tu sĩ, đều đồng ư rằng một hệ thống kinh tế lư tưởng nên xây
dựng theo đường lối xă hội.
Câu trả lời của Ngài
vừa rồi chỉ mới ở trên b́nh diện quốc gia. Thưa Ngài, trên b́nh diện
quốc tế, giả dụ như chúng ta sẽ có một bảng nguyên tắc phân định rơ
nghĩa vụ và bổn phận mà chúng tôi tạm gọi là luật quốc tế, theo Ngài
những ǵ được xem là một căn bản chung mà chúng ta có thể đồng ư
với nhau để nói lên nỗi khát khao của toàn thể nhân loại?
Dù trên lănh vực cá nhân hay quốc gia,
theo tôi nguyên tắc chính để hướng dẫn chúng ta phải là quyền làm
người. Nếu chúng ta sống trong một đất nước mà quyền làm người hiện
hữu và được tôn trọng, chúng ta có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ và
bổn phận đó. Thật là dễ chịu biết chừng nào nếu chúng ta thoải mái
thụ hưởng quyền làm người mà không bị buộc ràng bởi bất cứ một trách
nhiệm nào cả! Thế nhưng, bất hạnh thay điều đó có vẻ như là không
tưởng. Dĩ nhiên, tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn cả vẫn là ư thức
trách nhiệm và tinh thần tham dự của mỗi chúng ta trong mối quan tâm
đối với kẻ khác. Theo tôi đó là nguyên tắc căn bản, nhưng cũng xin
hiểu cho rằng tôi không phải là một chuyên gia trên lănh vực quan hệ
quốc tế hay luật quốc tế. Tuy nhiên bản thân tôi hoàn toàn tin tưởng
một cách sâu xa rằng trên b́nh diện cá nhân cũng như quốc gia, một
điều tuyệt đối cần thiết là chúng ta nên có một ư thức về tinh thần
trách nhiệm chung và ḷng quan tâm đối với tha nhân.
Tôi xin được nói thêm đôi chút về tinh
thần trách nhiệm chung. Khi chúng ta cảm thấy ḿnh chia xẻ một gánh
nặng trách nhiệm, mối quan tâm, tinh thần liên đới, chúng ta bắt đầu
cảm thấy một mối t́nh cảm sâu sắc, một sự khích lệ lớn lao. Đây
không phải là loại t́nh cảm có tính cách tự phát, không có nguyên
nhân mà là sản phẩm của cả một sự quán chiếu lâu dài và sự phân tích
gay gắt đầy luận lư. Đây là một thứ t́nh cảm lành mạnh. Loại t́nh
cảm có chiều sâu này khác với loại t́nh cảm hời hợt mà chúng ta kinh
nghiệm trong đời sống hàng ngày, thường thoáng hiện qua tâm trí ta
mà không do một lư do đặc biệt nào cũng như không để lại một dấu ấn
sâu sắc nào, tức cũng là những loại t́nh cảm ngẫu nhiên thoáng hiện
trong bất cứ giây phút nào trong ngày, thường tạo nên bất ổn cho tâm
trí ta, chẳng những đă không củng cố thêm sức mạnh tinh thần cho ta
mà nó c̣n huỷ diệt sự an b́nh cuả tâm hồn chúng ta nữa.
Dĩ nhiên mọi người chúng ta đều biết
t́nh cảm là ǵ và v́ thế chúng ta chỉ nên nuôi dưỡng những loại t́nh
cảm thuần lư và không để cho ḿnh bị phiền nhiễu bởi những loại t́nh
cảm vô nghĩa. Hăy lấy một thí dụ, trong khung cảnh đời sống gia đ́nh
chúng ta thường xuyên chi phối bởi đủ thứ bực dọc gây nên bởi những
chuyện lặt vặt trong cuộc sống đời thường. Tuy nhiên nếu chúng ta để
cho tầm nh́n của ḿnh mở rộng bao quát lên đời sống quốc gia, rồi
rộng ra là nhân loại, chúng ta sẽ lần hồi phát triển một ư thức về
tinh thần trách nhiệm chung. Bằng cách này tôi tin chắc là chúng ta
sẽ không c̣n bị dễ cáu giận trước những lo toan đời thường.
Trong Phật giáo, chúng tôi có ư niệm
về Bồ đề tâm, tức là ư thức vươn đến sự giác ngộ. Khái niệm này bao
hàm hạnh nguyện được thực chứng quả vị Phật để mang lại mọi điều tốt
lành cho toàn thể chúng sanh, nó cũng tương đương với khái niệm về
một ư thức trách nhiệm chung. Từ kinh nghiệm cá nhân cuả tôi, tôi
thấy rằng những lúc chúng ta đang buồn bă hoặc tâm hồn bị xao động
là lúc tốt nhất để chúng ta hướng tâm hồn ḿnh đến ư thức giác ngộ.
Nếu chúng ta nghĩ rằng ḿnh đang đảm nhận một trách nhiệm lớn lao
khi chúng ta đang hoang mang hay gặp khó khăn, tâm hồn chúng ta rộng
mở, thư giản và trở nên mạnh mẻ hơn. Nói một cách khác, khai triển ư
thức trách nhiệm chung đ̣i hỏi rất nhiều ở nỗ lực của chính mỗi cá
nhân nhưng cuối cùng sẽ làm cho chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn.
Thưa Đức Đạt Lai Lạt
Ma, công luận thế giới phương Tây hiện đang thảo luận rất nhiều về
các vấn đề “tôn giáo”, “luân lư”, “đạo đức” chứng tỏ người ta đang
có một nhu cầu cần một số tiêu chuẩn đạo lư áp dụng trong tất cả mọi
ngành nghề. Người ta đang nói đến đạo đức chính trị, đạo đức kinh
doanh, sinh học, y học, báo chí... Người ta đang quay về với những
giá trị đạo lư. ThưaNgài, Ngài nghĩ như thế nào về khuynh hướng này?
Làm thế nào để giải thích hiện tượng này? Và tại sao nó lại xảy ra
như thế?
Tôi nghĩ rằng đây là thành quả của
kinh nghiệm. Sau khi đối đầu với những vấn nạn lớn lao, những khó
khăn chồng chất, người ta nhận thức sự cần thiết phải có một tiêu
chuẩn đạo đức.
Thưa Ngài, đúng như
thế, tại Pháp, Đức cũng như Hoa Kỳ người ta đang nói về đạo đức
trong kinh doanh. Ngài có nghĩ rằng hai khái niệm đạo đức và kinh
doanh có thể hoà hợp được với nhau không? Phải chăng tiềân bạc và
đạo đức là hai phạm trù riêng biệt? Nhiều người cho rằng đạo đức chỉ
là một cách thế để quản lư kinh doanh, nếu nh́n thuần túy trên vấn
đề lương bỗng th́ đó là phương thức tốt nhất để điều hành nội bộ
cũng như quan hệ với thế giới bên ngoài. Thưa Ngài, quan niệm này có
làm hạ giá trị cái khái niệm cao cả của đạo đức hay không?
Theo tôi trước tiên quư vị phải hiểu
thế nào là đạo đức. Chúng ta có thể phân biệt chúng ra làm hai loại.
Loại thứ nhất liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng; qua đó chúng ta
phải theo một hành tŕnh tâm linh, tuân thủ một số tín điều luân lư
do tôn giáo đó vạch ra. Loại thứ hai dành cho những người không theo
bất cứ tôn giáo nào nhưng tự động chấp nhận một số tiêu chuẩn đạo lư
căn cứ trên kinh nghiệm bản thân trong việc kiếm t́m hạnh phúc cho
chính họ. Tôi nghĩ rằng chính ước muốn chấp nhận một số tiêu chuẩn
đạo đức không phụ thuộc vào một tín điều tôn giáo -ḷng yêu thương
dịu dàng tŕu mến của con người- được coi như là một sắc tháiđộc đáo
của bản chất nhân loại.
Tôi cũng thường giải thích mọi chuyện
như thế này: Chúng ta có rất nhiều ngành nghề, nhiều lănh vực hoạt
động khác biệt. Thương măi, chính trị, giáo dục, khoa học, kỹ thuật,
y học, luật học...rất nhiều thứ. Nếu tất cả những ngành nghề này đều
được xây dựng trên căn bản t́nh người, chẳng hạn như sự hiểu biết và
yêu thương người láng giềng cuả ḿnh, th́ những hoạt động của nó sẽ
mang đầy tính nhân bản, tích cực và hiệu qủa. Dĩ nhiên không phải là
không có những vấn nạn, khó khăn, nhưng tôi nghĩ là rất ít. Ngược
lại nếu tất cả những ngành nghề hoạt động này đều mang tính cách máy
móc, trống vắng t́nh người, đây sẽ là mầm mống gây ra những tai họa.
Tôn giáo cũng thế, nếu được xây dựng
trên căn bản t́nh người, trong đó mỗi cá thể đều quan tâm đến hạnh
phúc của tha nhân, nó sẽ tạo nên một hệ qủa tích cực lên toàn tập
thể. Ngược lại nếu tôn giáo không xây dựng trên nhân tính, không
mang t́nh liên đới, không có ḷng nhân ái, chắc chắn nó sẽ tạo nên
những vấn nạn cho con người.
Bây giờ ta nói đến khía cạnh luân lư
trong thương trường. Ai cũng biết là tất cả mọi công ty kinh doanh
đều đặt căn bản trên cạnh tranh và lợi nhuận, sự hoà điệu giữa kinh
doanh và luân lưv́ thế thoạt trông có vẻ rất mong manh tuy nhiên
không phải là không đạt được. Tinh thần cạnh tranh có thể được coi
như mang tính tích cực nếu động cơ của nó là tốt. Cạnh tranh xấu là
những hành vi lợi dụng người, làm tổn hại kẻ khác. Cạnh tranh tốt
đưa đến phát minh và cải thiện những sinh hoạt của con người. Tôi
nghĩ rằng kỹ nghệ cũng là lănh vực cần đặc biệt quan tâm và chia xẻ
trách nhiệm về vấn đề môi sinh, cho nên ta không thể không lưu tâm
đến khía cạnh đạo đức của nó. Những doanh gia hoạt động trên thương
trường cũng là những con người, họ cũng cần những t́nh cảm yêu
thương, nồng hậu của con người như chúng ta. Cho nên tôi nghĩ đạo
đức phải được coi như là sợi dây nối liền giữa nhu cầøu cá nhân và
những yêu cầu của môi sinh.
Có một vài sự kiện có
vẻ nghịch lư đập vào trí tưởng của chúng tôi, phần nào liên hệ đến
câu hỏi trước đây là, chưa bao giờ mà sự phát triển của khoa học kỹ
thuật và những gia tăng hiệu năng của nó đối với môi trường sống cuả
cá nhân lại đồng thời cũng làm gia tăng sự rối loạn trật tự của xă
hội như thế. Phải chăng cái mà chúng ta gọi là tính thuần lư đôi lúc
chỉ là ảo tưởng của sự thuần lư. Xin được biết ư kiến của Ngài về
vấn đề này?
Tôi không nghĩ rằng xă hội của chúng
ta là một xă hội thuần lư. Lúc th́ người ta đưa ra những lư lẽ này,
lúc th́ người ta đưa ra những lư lẽ khác. Có thể luôn luôn người ta
có một luận lư tương ứng với từng hoàn cảnh, nhu cầu, cho lợi nhuận
của ḿnh chẳng hạn, mà không đếm xỉa đến những hậu quả về lâu về dài
của những hành động do ḿnh gây ra. Như vậy, khi cá nhân nâng tầm
nh́n vấn đề của ḿnh lên một cách rộng lớn hơn, về lănh vực môi
trường chẳng hạn, những cái mà ḿnh từng nghĩ là có vẽ như hợp luận
lư đó sẽ mất đi sự giá trị và tầm mức quan trọng của nó. Cho nên vấn
đề chủ yếu là chúng ta áp dụng lư trí suy luận của ḿnh như thế nào.
Chúng ta có một tâm hồn rộng mở hay chật hẹp? Chúng ta chỉ nh́n vào
khía cạnh đặc thù của vấn đề hay đặt nó trên bối cảnh toàn cầu?
Chúng ta có một tầm nh́n dài hạn hay ngắn hạn? Đầu óc của chúng ta
thiển cận hay sáng suốt?
Thưa Đức Đạt Lai Lạt
Ma, Ngài có nghĩ rằng một vị Phật sẽ được tái sanh trong xác thân
của một giống người khác hơn là Tây Tạng hay Châu Á, có thể là một
người AÂu Châu hay Phi Châu chẳng hạn?
Vâng, dĩ nhiên. Phật giáo chúng tôi
quan niệm rằng sự hóa hiện của chư Phật không phải chỉ ởù trong thế
giới loài người mà ngay cả trong thế giới loài vật.
Từ lâu, súc vật đă bị
đối xử như là một thứ dụng cụ, dùng làm thực phẩm cho con người, y
phục, phương tiện chuyển vận, làm đồ giải trí và thậm chí là vật thí
nghiệm tàn nhẫn của khoa học để phục vụ cho sự thỏa măn của con
người. Thưa Ngài, Ngài nghĩ như thế nào về quyền sống của súc vật?
Trên quan điểm Phật giáo, sinh mạng
của mọi loài chúng sanh -con người cũng như súc vật- đều quí giá như
nhau và tất cả đều có quyền được sống hạnh phúc. Cho nên thật quả là
một điều hổ thẹn khi người ta sử dụng súc vật không chút xót thương,
nhất là trong các thí nghiệm khoa học. Dù qúy vị không nh́n vấn đề
này thuần túy trên quan điểm tôn giáo, hẵn qúy vị cũng thấy rằng các
loài vật, chim chóc, thú hoang -nghĩa là tất cả những sinh vật sống
trên trái đất này- đều là bạn đồng hành của con người. Chúng là một
thành phần của thế giới này, con người cùng chia xẻ thế giới này với
chúng. Cứ nghĩ đến một ngày nào đó nếu tất cả loài vật đều biến mất
trên thế giới này, lúc đó chúng ta sẽ ân hận biết bao. Tôi cũng nhận
thấy một điều rằng kẻ nào không có ḷng từ ái đối với súc vật, sẵn
sàng tàn sát chúng không chút xót thương, th́ sớm hay muộn họ cũng
sẽ là những người không có ḷng nhân ái đối với đồng loại. Ngược
lại, nếu chúng ta biết thương yêu loài vật, trân trọng sinh mạng của
chúng chừng nào, chúng ta lại sẽ càng biết tôn trọng đời sống con
người hơn thế nữa.
Thưa Ngài, Phật tử có
bị bắt buộc phải ăn chay hay không?
Trên quan điểm của một Phật tử, tôi
nghĩ rằng điều quan trọng là nên ăn chay trường. Tôi luôn luôn phát
biểu rằng, cho dù trên b́nh diện cá nhân một người không cần lúc nào
cũng phải giử ḿnh kiêng khem với các thức ăn chay lạt, nhưng nếu
khi một số đông người tụ họp lại với nhau trong các tiệc tùng, hội
nghị, tôi nghĩ người ta cần nên tránh bớt chuyện ăn thịt. Ngay bản
thân tôi, tôi cũng đă cố gắng hết sức ḿnh để quảng bá việc ăn chay
vào xă hội Tây Tạng.
Trong thời gian tổ
chức hội nghị này, một Phật tử Tây Tạng đă nhiều lần mời chúng tôi
đi ăn trưa tại một nhà hàng mà thực đơn chính là thịt.
Có lẽ vị Phật tử này là dân du mục
thuộc vùng cao nguyên Tây Tạng.
Thưa Ngài, để đạt đến
thực chứng tâm linh, người ta có nhất thiết cần phải rút ra khỏi đời
sống xă hội?
Tổng quát mà nói th́ một người dấn
thânvào đời sống tôn giáo không cần thiết phải thoát ra ngoài đời
sống xă hội. Tuy nhiên -một thực tế đúng đắn cho tất cả mọi truyền
thống tôn giáo- là khi một người cảm thấy sẵn sàng thực sự cống hiến
đời ḿnh cho thành quả của thiền định tu tập, điều tốt nhất cho họ
là nên rút lui ẩn dật để tu tập trong một khoảng thời gian nào đó.
Phật giáo không tôn
thờ Thượng Đế. Như vậy ai là những thần linh của họ và họ thờ phượng
như thế nào ?
Phật giáo không công nhận bất cứ một
vị Thượng Đế vĩnh hằng cũng như một vị Thượng Đế Sáng Tạo nào.
Ngược lại Phật giáo quan niệm rằng bất cứ một con người b́nh thường
nào nếu cố gắng theo đuổi một hành tŕnh tâm linh, phải tự thanh
lọc cái tâm của ḿnh để từ đó phát triển được những phẩm chất nội
tại và tiến đến giác ngộ, giải thoát. Những con người này được gọi
là đạt đến Thánh qủa. Chúng tôi cũng công nhận sự hiện hữu của những
đấng siêu nhiên, những người mà thông qua hành tŕnh tâm linh đă đạt
đến sự chứng ngộ ở một mức độ nào đó, chúng tôi gọi họ là những bậc
Thánh Tăng. Đối với Phật tử chúng tôi, những nhân vật siêu nhiên này
- tức là chư Phật và chư Bồ Tát- hiện hữu, mà qua đó chúng tôi cúng
bái và dâng lời cầu khẩn. Chúng tôi làm như thế với ư nguyện đạt
đến qủa vị Phật. Đó cũng là lư do giải thích tại sao để đáp ứng lại
những ư hướng, mong cầu khác nhau của mọi loài chúng sanh, chư Phật
đă phải hoá hiện ra dưới những h́nh thức khác nhau. Những h́nh thức
hoá hiện này tức là chư vị Phật, Bồ Tát trong thần thoại.
Thưa Ngài, Ngài có
nghĩ rằng những thế hệ trẻ tương lai của Tây Tạng đều có chung ư
nguyện là bảo tồn bản sắc Tây Tạng của họ trước những quyến rũ của
xă hội tiêu thụ Tây phương?
Một cách tổng quát, tôi nhận thấy rằng
tất cả những người Tây Tạng nay phân tán cùng khắp trên thế giới, kể
cả những xă hội tiêu thụ Tây phương đều có ư muốn bảo tồn nền văn
hóa và truyền thống của họ. Dĩ nhiên không phải là không có những
rủi ro.
Đối với những người
đang gánh chịu đau khổ bởi những căn bệnh kinh niên; những người trẻ
trong lứa tuổi mười tám đôi mươi đang mắc phải bệnh AIDS, thưa Ngài,
chúng ta có thể làm được những ǵ để giúp họ chịu đựng và xoa dịu
những khổ đau đó?
Điều đó c̣n tùy vào vị trí của mỗi
chúng ta trước nỗi khổ đau. Nếu qủa thực con người chúng ta không có
một đời sống nội tâm nào khác th́ khổ đau sẽ vẫn măi là khổ đau,
chúng ta rất khó mà trốn chạy chúng. Tuy nhiên, nếu chúng ta đă được
trui rèn để suy nghĩ theo một hướng đi tinh thần nào đó th́ khi đối
diện với khổ đau ta sẽ rất dễ dàng có khả năng hiểu biết và chịu
đựng chúng. Chúng ta sẽ biết cách làm thế nào điều hướng tư tưởng
của chúng ta đến những nỗi khổ đau lớn lao hơn là của ḿnh đang gánh
chịu và nhờ vậy sẽ làm giảm được nỗi khổ đau của chính chúng ta.
Một Phật tử nếu đang mắc bệnh AIDS
hoặc bất cứ một căn bệnh đau đớn nào khác có thể quán tưởng về luật
nhân qủa. Họ có thể nh́n những đau đớn hiện tại của ḿnh là kết quả
của những hành động xấu gây ra trong quá khứ và nhờ đó có thể loại
trừ được tất cả những cơn đau tiềm ẩn chất chứa trong họ. Họ cũng có
thể suy nghĩ rằng qua nỗi khổ đau của ḿnh, họ đang gánh chịu những
nỗi khổ đau của tha nhân và từ bỏ những hạnh phúc của cá nhân ḿnh
cho hạnh phúc chung của toàn thể chúng sanh. Họ cũng có thể nh́n vào
bệnh hoạn của chính ḿnh như là một cách thế tốt nhất để hiểu rơ
những khiếm khuyết trầm trọng của kiếp sống và đi đến kết luận rằng
đó chính là bản chất của khổ đau, và từ đó họ thấy được những bất
lợi của ṿng sinh tử luân hồi. Như vậy, càng nhận thức sâu xa về
t́nh huống hiện tại, những khổ đau của họ sẽ càng giảm bớt và rồi họ
sẽ thấy nó không c̣n quan trọng nữa. Điều này có thể mang lại cho họ
những nổi an ủi.
Nhân đây tôi cũng muốn xin được nêu
lên một điều rằng, bằng mọi giá, xă hội của chúng ta cần phải loại
bỏ khuynh hướng phủi tay trước những khổ đau của đồng loại, coi
những người ốm đau bệnh tật, những kẻ bơ vơ không nơi nương tựa, như
là gánh nặng của xă hội. Ngược lại trong tinh thần từ ái, chúng ta
phải cố gắng hết sức để giúp đỡ những người thiếu may mắn này.
Thưa Ngài, Ngài có
nghĩ rằng sự tách rời giữa thần quyền và thế quyền là một điều cần
thiết trong thể chế dân chủ? Phật giáo phải chăng là một tôn giáo
không chấp nhận mọi khuynh hướng cực đoan? Nếu đúng như vậy th́ lư
do tại sao ?
Vâng, điều quan trọng theo tôi là nhà
thờ - được xem như một cơ sở tu học- cần phải tách biệt đối với nhà
nước. Về điểm này, chúng tôi đă hoàn thành xong một bản hiến pháp sẽ
có hiệu lực ngay sau khi Tây Tạng dành được độc lập, trong đó nói
rơ rằng nhà nước tương lai là một nhà nước dân chủ do dân trực tiếp
bầu ra.
Tôi nghĩ rằng tính chất nguy hiểm của
chủ nghĩa cực đoan tôn giáo rất hạn chế trong Phật giáo. Phật giáo
như qúy vị biết, bao gồm nhiều trường phái triết học, cụ thể như bộ
phái Đại Tỳ-bà-sa luận (Vaibashiska) được h́nh thành cho những người
có khuynh hướng tiến bộ với tầm nh́n khoáng đạt và sâu sắc. Cũng
trong Phật giáo, cùng chia xẻ chung một giáo lư, chúng tôi có Tiểu
thừa và Đại thừa hay c̣n được gọi là Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ
tát đạo. Những tông phái và các cách thức tiếp cận khác nhau sở dĩ
ra đời là nhằm đáp ứng với tŕnh độ tri thức cá biệt của mỗi cá nhân
cũng như bản chất và khuynh hướng dị biệt cuả mỗi con người. Một khi
mà những quan điểm triết học khác biệt cùng cộng tồn hoà điệu ngay
từ trong cốt lơi của Phật giáo để đáp ứng với nhu cầu tu học của
từng cá nhân, chúng tôi rất dễ dàng cảm thông với các tín ngưỡng
khác, bởi v́ chúng tôi hiểu rằng để mang lại những phúc lợi lớn lao
đáp ứng với khát vọng của nhân loại, họ có thể đưa ra các quan điểm
siêu h́nh, triết học khác biệt. Bởi lẽ đó, chủ nghĩa cực đoan không
có chỗ đứng trong Phật giáo.
Tôi quan niệm rằng chúng ta cần phải
chấp nhận nguyên tắc đa nguyên tôn giáo trong mối liên hệ giữa các
tín ngưỡng và cách thức tốt nhất để ngăn ngừa tinh thần cực đoan là
phải cải thiện mối liên hệ giữa các tôn giáo.
Thưa Đức Đạt Lai Lạt
Ma, một câu hỏi cuối về một vấn đề mà chúng tôi cho là rất quan
trọng: Thưa, đó là vai tṛ của người phụ nữ trong Phật giáo so sánh
với các tôn giáo khác?
Nếu chúng ta nh́n vào Giới Luật của
Phật giáo (giới tu sĩ cũng như hàng cư sĩ), chúng ta sẽ thấy rằng
phụ nữ cũng như nam giới đều có thể xuất gia thọ giới để trở thành
tỳ kheo hoặc tỳ kheo ni. Thế nhưng theo kinh sách Ấn Độ c̣n được lưu
truyền lại, cũng trong Giới Luật này, vị Tỳ Kheo ni thường có một vị
trí khiêm nhượng hơn so với nam tăng sĩ, cho dù họ có tuổi đạo cao
hơn.
Tuy nhiên trong tông phái Tối Thượng
Thừa của Phật giáo hay Mật tông Đại thừa, vai tṛphụ nữ được quan
tâm đặc biệt hơn, tức là chiếm một vị trí khá quan trọng. Một số
điều luật trong Giới Luật Phật giáo không ít th́ nhiều đă bị ảnh
hưởng bởi khung cảnh xă hội của Ấn Độ lúc bấy giờ, vốn không coi
trọng vai tṛ của người phụ nữ. Hiện nay người ta đang nêu lên ư
kiến về việc bổ khuyết Giới Luật và rồi sẽ có một hội nghị để thảo
luận về vấn đề này.
KHÁT VỌNG H̉A B̀NH
Bây giờ xin nói đến ḥa b́nh. Hoà b́nh
là một vấn đề quan trọng. May mắn thay, con người nói chung đều có
khuynh hướng yêu chuộng ḥa b́nh thay v́ chiến tranh đẫm máu cho nên
ta có khả năng giảm thiểu bạo động để tạo dựng nên một xă hội hoà
điệu, an b́nh, đầy t́nh người cho dù có đôi lúc bản chất tốt đẹp
của chúng ta đă không chế ngự được những t́nh cảm nông nổi. Có hai
phương thức để đạt tới mục tiêu này: chiến lược ngắn hạn và dài hạn.
Về mặt ngắn hạn, tôi nghĩ rằng qúy vị
đă có những phương cách hữu hiệu để đối phó với các vấn nạn hiện đại
như vấn đề bạo động chẳng hạn. Thế nên những ư kiến của tôi có thể
chẳng giúp đỡ được qúy vị bao nhiêu.
Về một chiến lược dài hạn, nghĩa là
nói về tương lai, tôi quan niệm rằng giáo dục phải là yếu tố hàng
đầu qua đó đầu óc thông minh của con người nên được điều hướng vào
một hướng đi đúng đắn. Thật là một điều hữu ích nếu ta chịu khó nh́n
kỹ vào những thất bại của nền giáo dục hiện đại. Một thí dụ hiển
nhiên là có nhiều quốc gia đă cố ư nuôi dưỡng những t́nh cảm tiêu
cực như thù hận các quốc gia láng giềng chẳng hạn. Thế nhưng thực tế
hiện nay cho thấy nhân loại không thể sống c̣n nếu không có sự hợp
tác chân thành của quốc tế. Những khái niệm như “nước tôi”, “nước
anh,” “đạo tôi,” “đạo anh” v́ thế ngày càng trở nên không mấy quan
trọng. Ngược lại chúng ta cần phải khẳng định một sự thực rằng tha
nhân cũng có phẩm giá đáng tôn trọng như chính chúng ta. Đấy chính
là nhân loại! Đây cũng là lư do tại sao chúng ta cần phải tái thẩm
định lại hệ thống giáo dục của chúng ta.
Bây giờ xin nói đến lănh vực truyền
thông. Tôi rất kính trọng bộ môn này và rất thích cái lối ưa xen vào
công chuyện của người khác của nó. Một số nhân vật quan trọng không
phải là lúc nào cũng lương thiện, đàng hoàng. Thế nên qủa là điều
tối cần thiết khi chúng ta có bộ phận truyền thông để lưu tâm theo
dỏi họ. Kư giả ai cũng biết là rất thính mũi và thường là họ làm
việc rất hữu hiệu. Tuy nhiên mặt khác, tôi không khỏi cảm thấy phiền
khi thấy họ cứ hay đào sâu vào những khía cạnh tiêu cực làm cho tâm
hồn con người dễ bị chán năn, ngă ḷng. Theo tôi nên có sự cân đối
trong vấn đề mà kư giả chọn lựa để tường tŕnh. Họ thường phơi bày
cho ta thấy quá nhiều trạng huống bất hạnh, mà với thiện tâm và bản
chất nhân ái của con người như tôi đă từng đề cập, ta dư khả năng
cũng như tiềm năng để thay đổi chúng. Bản chất này phải là nguồn cội
của tư duy chúng ta và là nền tảng của bất cứ sự phát triển nào. Mỗi
khi tự thấy ḿnh mâu thuẩn với một vài người tôi thường phát biểu: “
Bỏ qua một bên những điều không tốt lành trên báo chí, hăy nh́n vào
hàng triệu người trẻ, già, bệnh hoạn đang được giúp đỡ ta không
không thể không cảm ơn ḷng từ ái hay thiện ư của con người; những
t́nh cảm tích cực cũng hoạt động song hành cùng với tiêu cực.”
Do thiếu giao lưu, kinh nghiệm cá nhân
của tôi cho thấy tôn giáo đôi lúc cũng là nguồn gốc của nhiều vấn
nạn. Một khi mà chúng ta xây dựng được những quan hệ tốt, tầm nh́n
của chúng ta sẽ rộng mở hơn. Từ đó chúng ta khám phá ra rằng chúng
ta có thể làm việc với nhau trên một số căn bản chung cũng như chúng
ta có thể học hỏi lẫn nhau. Bằng cách này, tôi tin rằng mối tương
kính sẽ được phát triển và những xung đột về tôn giáo chắc chắn sẽ
giảm thiểu.
Bây giờ chúng ta nói tiếp đến những
khó khăn gây ra bởi các chính khách, những nhà lănh đạo quốc gia. Dĩ
nhiên khi đối đầu với các nhà độc tài, những chế độ chuyên chế ta
khó mà nói trước được những ǵ sẽ xảy ra; đây là những trường hợp
đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên đối với những chính khách trong các
quốc gia dân chủ, qủa là một điều tốt khi ta thấy họ vận dụng phần
lớn trí tuệ của ḿnh vào việc phục vụ kẻ khác. Thế nhưng khi mùa bầu
cử gần đến, phần trí tuệ c̣n lại đó của họ được đặt để vào bàn tay
của các cử tri, điều này chẳng giúp ích ǵ cả mà c̣n tạo nên một
trạng thái mất quân b́nh. Như vậy th́ làm thế nào để cải thiện phẩm
chất của các chính khách? Tôi thật t́nh không biết.
Tất cả những yếu tố trọng yếu này cần
nên được khảo sát thật nghiêm túc, sâu sắc về lâu về dài khi người
ta quan tâm đến nhân loại như một thể thống nhất. Mỗi chúng ta là
một thành phần của đại gia đ́nh nhân loại đó cho dù chúng ta có
những quá tŕnh đào tạo, bối cảnh xă hội khác nhau. Không cần biết
anh là giáo viên, nhà kinh tế, chính khách, luật sư, thành phần tăng
lữ, thương gia, hay là “kẻ bụi đời,” tất cả đều phải chia xẻ một
phần trách nhiệm cũng như vận dụng tất cả mọi khả năng của ḿnh để
mang lại một khung cảnh hoà đồng tuyệt diệu cho thế giới mà chúng ta
đang sống.
Vào thời buổi mà một số các chế độ độc
tài chuyên chế đang sụp đổ, những sự kiện năo ḷng xảy ra như ở
Bosnia, Châu Phi nhắc nhở chúng ta một điều cần thiết là phải làm
thế nào để ngăn ngừa những t́nh trạng như thế xảy ra trong tương
lai. Người ta đang nói nhiều đến “trật tự thế giới mới”. Thật khó mà
thay đổi một cấu trúc xă hội đă được xây dựng lâu đời. Thế nhưng bây
giờ th́ cấu trúc xă hội cũ đang trền đường sụp đổ, mở đường cho một
thời điểm với những thay đổi lớn lao. Tuy nhiên khi mà người ta
không biết ḿnh phải làm ǵ, người ta lại càng thêm lo âu bối rối.
Nhưng cho dù trường hợp nào xảy ra đi nữa, tất cả đều tùy thuộc vào
các chính phủ biết nắm lấy các cơ hội.
Vẫn c̣n một số khó khăn trong việc tài
giảm vũ khí nguyên tử. Bao lâu mà loại vũ khí này c̣n tồn tại, thảm
họa vẫn có thể xảy ra cho nhân loại bởi v́ số phận của chúng ta luôn
luôn bị đặt vào trong tay của một thiểu số người vô trách nhiệm. Hơn
thế nữa với việc giải trừ quân bị, chúng ta có thể giới hạn được
những thiệt hại mỗi khi xung đột nổ bùng. Phần tôi, tôi vẫn luôn lên
tiếng cổ vơ cho sự giải trừ quân bị ngay chính trong tâm hồn của mỗi
con người bằng cách giảm bớt ḷng thù hận, tăng trưởng tinh thần từ
bi.
Dĩ nhiên là chúng ta cũng không thể
không quan tâm đến lănh vực hạn chế sinh sản. Sự cách biệt giữa Nam
và Bắc cũng là đầu mối của nhiều vấn nạn. Một số chuyên gia cho biết
là nếu các quốc gia phía Nam đạt đến một mức sống tương đương như
các quốc gia phía Bắc, lúc đó những tài nguyên của thế giới sẽ cạn
nguồn. Lại thêm một t́nh huống nan giải khác.
Để kết luận, chúng ta có thể tự hỏi là
tư duy của con người được thay đổi như thế nào.
Một lần nữa, điều này hoàn toàn tùy
thuộc vào cố gắng, nỗ lực của mỗi cá nhân. Nhân đây tôi cũng xin
phép được lưu ư cộng đồng nhân loại, đặc biệt là tất cả những ai
hiện đang hoạt động tích cực trong các tổ chức xă hội, rằng: Điều
căn bản vẫn là tâm ư của con người. Chúng ta có thể hoàn tất mọi
công tác khó khăn nếu chúng ta có quyết tâm. Chúng ta sẽ chẳng đạt
được điều ǵ cả, cho dù là những việc dễ dàng nhất, nếu chúng ta
luôn luôn có thái độ bi quan yếm thế. Theo kinh nghiệm cá nhân của
tôi, tin tưởng và quyết tâm là hai yếu tố quan trọng để thành công.
CÂY H̉A B̀NH
Cho tất cả những cư dân của đất nước
trù phú với cảnh quan tươi đẹp này - Tôi nguyện cầu cho quư vị và
quê hương của quư vị được luôn hạnh phúc, giàu mạnh, và nhân ái.
-Từ quyển sổ lưu niệm
của làng Marzens,
Đức Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ Mười Bốn.
Thật là một điều hân hạnh cho tôi được
có mặt cùng với qúy vị trong buổi chiều hôm nay để cùng nhau ươm
trồng cây hoà b́nh này. Tôi được có cơ
hội đến sinh hoạt cùng cộng đồng này
trong một vài ngày nhằm giới thiệu đến qúy vị một vài nét căn bản
của triết học Phật Giáo. Vùng quê ở đây gắn bó với thiên nhiên thật
là êm đềm và dễ chịu, không khí của nó rất thích hợp cho loại tu học
của chúng ta. Được dịp tản bộ quanh đây và gặp gỡ một vài cư dân địa
phương, tôi nhận thấy khuôn mặt của họ đều rạng rỡ những nụ cười
khiến tôi có cảm giác như được gặp lại những bạn bè quen thuộc
cũ. Thành thật cảm ơn mối cảm t́nh nồng hậu đó.
Tôi nghĩ rằng sống trong một ngôi làng
nhỏ, cái cảm giác của cuộc sống cộng đồng có phần nào sống động hơn
là sống trong một thành phố lớn, nơi mà con người thường bị ch́m
ngập vào đám đông. Tôi luôn luôn nghĩ rằng cái cảm giác được sống
gần gũi với đồng loại trong mối thương yêu nồng đượm là một trong
những đặc tính thiết yếu nhất của thân phận con người. Tôi hoàn toàn
tin tưởng rằng khi mà phần tâm linh của chúng ta luôn hướng về điều
nhân đức, về khía cạnh tích cực của mọi vấn đề, về ḷng yêu thương
đồng loại, chúng ta phần nào đă t́m ra cho ḿnh phương cách tốt nhất
để giải quyết mọi vấn nạn. Khi đối đầu với những vấn nạn nhân sinh,
biện pháp giải quyết bằng vơ lực sẽ không bao giờ mang lại những kết
quả lâu dài. Đó là lư do giải thích tại sao tôi thường hay đề cập
đến tầm mức quan trọng của t́nh tương thân tương ái giữa những con
người cũng như ư thức về tinh thần trách nhiệm trong đời sống cộng
đồng. Những khái niệm về cộng đồng và ḷng nhân ái chính là nền tảng
của nền hoà b́nh ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nó được bắt nguồn
trong mỗi cá nhân từ thuở ban sơ và tích lũy dần qua cuộc sống của
cộng đồng nhân loại, cho nên đó phải là mối quan tâm
chính của tất cả
chúng ta.
Tôi được biết rằng đây là một mảnh đất
ph́ nhiêu màu mỡ và khu vực này luôn luôn có một đời sống sung túc,
phồn thịnh. Tôi sẽ luôn nguyện cầu cho sự phồn thịnh này luôn bền
vững và mọi cư dân tiếp tục có một cuộc sống tươi vui, thanh b́nh và
hạnh phúc. Hy vọng rằng những nguyện vọng của qúy vị luôn thành tựu
tốt đẹp và hoà b́nh sẽ ngự trị giữa mọi con người. Đối với cái cây
mà chúng ta vừa mới ươm trồng đây, tôi sẽ nhờ bạn bè thân hữu luôn
đến thăm chừng nó và báo cho tôi biết nó đă tăng trưởng đến mức nào.
NHÂN LOẠI VÀ THIÊN NHIÊN
ÁN MA NI BÁT DI HỒNG! Sáu chữ của câu
thần chú này có mục đích giải trừ mọi khổ nạn của sáu loại chúng
sanh đang trôi lăn trong ṿng sinh tử luân hồi. Khái niệm này đưa ta
đến mối nhận thức một cách tự nhiên rằng khổ đau và hạnh phúc của
con người cùng với điều kiện môi sinh của thế giới mà ta đang sống
đều liên hệ mật thiết với nhau. Rất cảm ơn nhă ư của qúy vị đă mời
tôi đến ngôi trường Đại học này, tuy c̣n non trẻ nhưng cũng đă rất
nổi tiếng. Tôi rất hân hạnh được có mặt tại đây hôm nay và
biết thêm được một điều rằng nơi đây từng là một căn cứ quân sự đă
được cải biến để trở thành một trung tâm của kiến thức và học vấn.
Môi sinh và bảo vệ môi sinh là những
vấn đề mang tầm mức quan trọng hiện nay. Đây không phải là vấn đề
thuần túy về luân lư hay đạo đức mà là chuyện sinh tử của chúng ta.
Mối quan tâm của tôi đối với những vấn đề liên quan đến môi sinh
không phải là kết quả của một sự nghiên cứu lâu dài trên lănh vực
này mà thật ra là một chuyện khá ngẫu nhiên. Như qúy vị biết, tại
Tây Tạng đi đến đâu qúy vị cũng có thể uống nước một cách thoải mái.
C̣n tại Ấn Độ và một số nơi khác, người ta phải phân biệt giữa nước
uống được và các loại nước khác. Đó là lư do tại sao tôi lại ngạc
nhiên khi thấy người ta đề cập đến chuyện môi sinh cũng như tại sao
tôi lại bày tỏ mối quan tâm của ḿnh về lănh vực này. Sau khi tham
khảo ư kiến với một số nhà chuyên môn, quả thật tôi thấy rằng đây là
một vấn đề khá hệ trọng nếu không nói là nghiêm trọng.
Những tai họa gây ra bởi chiến tranh
thường xảy ra trước mắt và rất dễ thấy. Trong khi đó sự tàn phá liên
quan đến lănh vực môi sinh thường diễn ra một cách chậm chạp hơn.
Không thể nhận thấy được từ lúc ban đầu, nó từ từ tăng trưởng cho
đến khi người ta nhận ra được th́ mọi chuyện thường là đă quá muộn
màng. Bởi thế tôi rất hân hoan và tràn trề hy vọng khi thấy rằng
lănh vực môi sinh nay đă trở thành một mối quan tâm đối với tất cả
mọi người. Với trí óc thông minh và đầy tham vọng -cũng là một phần
của bản chất con người- đôi lúc chúng ta vô t́nh hay cố ư chạy theo
những hoạt động có thể gây nên những tổn hại về lâu về dài. Tuy
nhiên nếu được kiểm soát đúng mức, cũng với trí thông minh đó, nó có
thể giúp ta t́m ra những phương thức để giải quyết mọi vấn nạn.
Đó cũng là lư do mà tôi cảm thấy rằng
thật quả là một điều quan trọng nếu chúng ta được thúc đẩy bởi ḷng
từ bi, biết đặt ḿnh vào bối cảnh khổ đau của đồng loại cũng như
thấy được những hệ quả tiêu cực về lâu về dài. Một cách tổng quát,
nếu con người được thúc đẩy bởi ḷng nhân ái, họ sẽ càng trở nên tự
tin và quyết tâm hơn. Tôi tin chắc rằng sự quyết tâm này là cơ bản
nếu được đi đôi với trí tuệ hoặc óc thông minh; sức mạnh nội tâm và
ḷng can đảm chính là những yếu tố cần thiết giúp ta vượt qua mọi
chướng ngại trong đời sống. Cũng vậy, tất cả mọi vấn nạn liên quan
đến khoa học kỹ thuật, dân số, kinh tế một khi đă phát sinh trên quy
mô toàn cầu cần phải được tŕnh bày, thông tin đầy đủ đến với mọi
người. Bằng cách cho người ta thấy mối quan tâm về những hiểm họa
cũng như nhận thức được yêu cầu cấp thiết cần phải t́m ra những giải
pháp, chúng ta dễ dàng tập trung năng lực của ḿnh vào việc kiếm t́m
những biện pháp giải quyết thỏa đáng. Một học viện chuyên nghiên cứu
về môi sinh một cách khoa học sẽ cung cấp cho chúng ta những dữ kiện
đầy đủ chất lượng để có thể đánh giá sự tiến triển và xuống cấp của
lănh vực môi sinh. Bằng cách tiếp cận một cách khoa học, với sự hổ
trợ của ngành truyền thông, đó là căn bản của vấn đề.
Mối quan tâm của chúng ta về lănh vực
môi sinh dĩ nhiên là sẽ không hạn chế một cách cục bộ vào khu vực
của ḿnh, biên giới của quốc gia ḿnh. Đây là vấn đề mà tất cả mọi
người sinh sống trên thế giới này đều phải quan tâm. Quả là một điều
cần thiết nếu mọi người đều nhận thức được điều này để cùng bắt tay
nhau đối đầu với vấn nạn. Theo thiển ư của tôi, nếu thế hệ trẻ được
rao truyền ư thức về những vấn đề môi trường ngay từ thuở c̣n thơ,
những mối quan tâm này sẽ là một phần của kho kiến thức được lưu trữ
lại trong suốt đời người.
Một trong những vấn nạn lớn lao nhất
mà lănh vực môi sinh phải đương đầu, đó là nền kinh tế hiện đại. Dĩ
nhiên không thể chối căi được rằng nền kinh tế cần phải được phát
triển, tuy nhiên nếu chúng ta chỉ thuần tuư nghĩ đến chuyện lợi
nhuận tất sẽ không tránh khỏi được những tai hại. Đồng ư rằng chúng
ta có quyền tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, thế nhưng
đừng quên mối hiểm họa là chúng ta sẽ làm khô kiệt nó nếu khai thác
quá mức. Một số nhà chuyên gia c̣n đi xa hơn khi tuyên bố rằng chúng
ta phải thay đổi kiểu cách sống Tây phương. Tôi không biết điều này
có hiện thực hay không, nhưng một điều chắc chắn rằng trong thế giới
này mọi sự mọi việc đều tương quan ràng buộc với nhau. Thế cho nên
điều quan trọng nhất là nên t́m một con đường trung đạo thay v́ cực
đoan.
Thưa Ngài, trong xă
hội Tây phương, làm thế nào để có thể hoà hợp giữa tiến bộ khoa học
với mối quan tâm của chúng ta liên quan đến việc bảo vệ môi trường?
Một cách cụ thể, Ngài có tin rằng nhân loại và thiên nhiên không thể
tách rời, hoặc ngược lại, Ngài nghĩ như thế nào nếu chúng ta tưởng
tượng rằng thế giới này sẽ như thế nào nếu vắng bóng con người?
Theo vũ trụ quan của Phật giáo, ngay
tại thời điểm ban sơ của vũ trụ không có con người. Cũng thế, đến
một thời điểm tương lai nào đó, xă hội loài người sẽ biến mất trong
khi vũ trụ sẽ c̣n tồn tại trong một thời gian. Có thể lúc đó chúng
ta sẽ có thái b́nh vĩnh viễn trên mặt địa cầu -ai mà biết được! Theo
tôi, ch́a khóa của vấn đề là, như tôi đă nhiều lần phát biểu, mối
liên hệ giữa khoa học kỹ thuật và việc bảo vệ môi sinh. Tôi được
biết rằng hiện nay rất nhiều cơ xưởng được xây dựng có khả năng giảm
thiểu được vấn đề ô nhiễm. Chẳng hạn như lúc c̣n ở Stockholm, một số
thân hữu cho tôi biết rằng các loại cá đă biến mất trên ḍng sông
chảy qua thành phố này trước đây nay đă bắt đầu thấy xuất hiện trở
lại và nước sông đă trở nên tinh khiết hơn, và điều này không có
nghĩa là các cơ xưởng trong vùng phải bị dẹp tiệm. Thí dụ này cho
thấy là chúng ta có thể có những giải pháp để hạn chế sự ô nhiễm môi
sinh mà không cần phải làm đ́nh trệ nền kỹ nghệ. Dĩ nhiên tôi không
phải là người hiểu biết kinh nghiệm trên lănh vực này, xin nhường
lại cho các chuyên gia để họ t́m ra những giải pháp thích đáng.
Thưa Ngài, có phải
đến lúc chúng ta nên hổ trợ cho một chính sách nông nghiệp phù hợp
với một số tập quán đặc biệt của các quốc gia đang phát triển nhằm
giữ vững và khuyến khích việc bảo tồn một số thói quen có tính
truyền thống trong lănh vực thực phẩm ăn uống, thay v́ chúng ta cứ
luôn áp đặt quan điểm Tây phương vào các hoạt động nông nghiệp?
Vâng, trong những trường hợp như thế,
vấn đề quan trọng là phải làm sao thích nghi vào từng t́nh huống,
điều kiện cuả mỗi nơi. Việc sử dụng các sản phẩm hoá chất như phân
bón, thuốc sát trùng chẳng qua chỉ là những nhu cầu tạm bợ nhằm nâng
cao sản lượng và pḥng ngừa sự tàn phá mùa màng, thế nhưng nó đă gây
ra những hậu quả rất tiêu cực, đó là tệ trạng ô nhiễm môi sinh. Tại
một số quốc gia bị hăm dọa bởi nạn đói hoặc đối đầu với những khó
khăn gây ra bởi t́nh trạng nhân măn, ta có thể can thiệp vào nếu
cần. Những khó khăn này trên thực tế thường là hậu qủa do việc người
ta quá chú trọng vào ngân sách quốc pḥng thay v́ nông nghiệp. C̣n
những nơi mà những khó khăn do hậu quả thiên nhiên gây ra như hạn
hán, hoặc đất đai cằn cỗi khiến dân chúng phải sống cơ cực v́ thiếu
thốn thực phẩm, ta không thể không tận dụng mọi phương tiện có thể
có được nhằm nâng cao sản lượng của đất đai. Trong một số trường hợp
khác, nếu điều kiện và hoàn cảnh cho phép, tốt hơn là ta cứ giữ lại
các h́nh thức canh tác theo truyền thống, điều đó phần nào nói lên
được ḷng kính trọng và ư hướng bảo tồn thiên nhiên của chúng ta.
PHỤNG SỰ NHÂN LOẠI
Thưa Đức Đạt Lai Lạt
Ma, Ngài là một đứa trẻ ngoại lệ. Những thiếu nhi quan tâm đến tương
lai của thế giới vừa mới đứng ra thành lập một hiệp hội. Ngài có
muốn trao truyền một thông điệp nào cho chúng không?
Tương lai trải dài trước mắt chúng ta
quả thật là rất quan trọng. Thiếu nhi là người chịu trách nhiệm trực
tiếp với tương lai. Trên căn bản nhận định rằng bản chất con người
vốn tốt đẹp, t́nh cảm yêu thương, tâm địa lương hăo của trẻ thơ được
phát xuất một cách tự nhiên. Lúc c̣n bé, đứa trẻ thường không có
nhận thức phân biệt giữa một con người này và một con người khác;
chẳng hạn như đối với chúng, nụ cười cuả người đối diện quan trọng
hơn là chủng tộc, quốc tịch, văn hóa của họ. Tôi yêu mến cái giá trị
tốt đẹp của thái độ như thế, nó mang lại cho tôi biết bao hy vọng
khi nh́n về tương lai.
Tuy nhiên ta không thể không quan tâm
đến một vài phương diện khác của vấn đề. Trẻ con nói chung đều có
một tâm hồn nồng hậu, nhân ái; thế nhưng trong một số lănh vực cuả
nền giáo dục mà chúng tiếp thu phần nào đă làm gia tăng sự cách biệt
giữa chúng với nhau, tạo nên khoảng cách giữa đứa trẻ này và những
đứa trẻ khác. Theo tôi, điều quan trọng là bản chất tốt đẹp của
thiếu nhi cần phải được nuôi dưỡng. Điều này có nghĩa là giáo dục
phải được hoà điệu nhịp nhàng cùng với bản chất nhân ái sẵn có của
trẻ thơ. Thế nên yếu tố quan trọng nhất là chúng cần phải được nuôi
dưỡng trong một bầu khí đầy yêu thương, tŕu mến. Một cách lư tưởng
mà nói th́ những phẩm chất của con người cần phải được triển khai
cùng với ḷng nhân ái, thế nhưng nếu cần phải chọn lựa giữa một bên
là những phẩm chất quan trọng chung và bên kia là ḷng nhân ái, tôi
thường phát biểu rằng tôi sẵn sàng lựa chọn ḷng nhân ái.
Những vốn liếng về thông minh và học
vấn mà con người tích lũy được dù quan trọng đến thế nào đi nữa cũng
chưa đủ để xây đắp tương lai. Tâm hồn của chúng ta cần phải được ươm
đầy ḷng vị tha thông qua việc học tập những giá trị căn bản của
nhân loại, t́nh yêu đối với tha nhân là một thí dụ.
Hăy để cho ḷng nhân ái thẩm thấu vào
tâm hồn của mỗi con người và giữ cho tâm hồn của chúng ta luôn ở
trong trạng thái tích cực, sinh động. Chúng ta hăy làm phong phú
thêm óc thông minh của ḿnh bằng những phẩm chất tốt đẹp này và biết
vận dụng một cách khéo léo tất cả những ǵ mà chúng ta tiếp thu được
từ giáo dục để xây dựng cho ḿnh một cuộc sống thỏa măn và hạnh
phúc.
Ngài có thể giải thích
cho chúng tôi biết tại sao trong xă hội Tây phương, cha mẹ và con
cái thường là không thuận thảo với nhau ?
Điều này tôi quả t́nh không biết. Có
quá nhiều yếu tố, điều kiện gây nên những xung đột trong đời sống
gia đ́nh, chẳng hạn như thói quen, tập quán hoặc là những khuôn mẫu
mà chúng ta đặt để buộc con cái phải tuân theo. Dĩ nhiên quả là điều
đáng buồn nếu ta phải chứng kiến sự thiếu vắng t́nh thương giữa cha
mẹ và con cái. Theo tôi chúng ta khó có thể quy trách cho bất cứ
yếu tố nào trong chuyện xung đột này. Nguyên nhân th́ rất nhiều,
thế nên khi t́m cách giải quyết vấn đề ta phải nh́n chúng một cách
toàn diện.
Thưa Ngài, những quan
điểm của Tây phương về chính trị, kinh tế có vẻ như rất thành công
trong thập niên 60, nhưng đă không c̣n thích hợp trong thập niên 90.
Nó không c̣n làm cho người ta hài ḷng nữa. Theo Ngài, làm thế nào
để cải thiện t́nh huống này?
Từ thuở bé đến giờ, tôi rất yêu thích
bộ môn khoa học kỹ thuật. Một số người cho rằng sự phát triển của bộ
môn này tự nó không phải là điều hoàn toàn đáng mong ước, nhưng theo
thiển ư của tôi, không được đúng lắm trong trường hợp này. Tất cả
đều tùy thuộc vào thái độ của chính chúng ta. Khoa học kỹ thuật chỉ
là phương tiện, công cụ. Nó thực hiện những ǵ mà chúng ta đ̣i hỏi,
tốt hay xấu hoàn toàn do chính chúng ta làm chủ, quyết định. Như vậy
mọi chuyện đềy tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy và phương cách mà
chúng ta sử dụng chúng. Tôi nghĩ rằng trong thời đại này tất cả
chúng ta đang chứng kiến sự bùng nỗ lớn lao của kiến thức, tuy nhiên
do quá chú trọng đến kiến thức, chúng ta đă không quan tâm mấy đến
sự phát triển ḷng nhân đức, vị tha, bác ái.
Nói như thế, tôi nghĩ rằng mọi việc
bây giờ đă có vẻ trở nên sáng tỏ hơn. Con người hẵn nhiên không phải
là sản phẩm của máy móc, thế nên khát vọng đạt đến hạnh phúc chân
thật không thể nào hoàn toàn nương tựa vào những cảnh huống bên
ngoài. Dĩ nhiên chúng ta cũng cần phải có một cuộc sống vật chất tối
thiểu, nhưng đó không phải là cỗi nguồn của hạnh phúc. Chúng ta phải
tự nỗ lực t́m kiếm ngay chính trong bản thân cuả mỗi chúng ta những
nguyên nhân của hạnh phúc và thỏa măn. Chúng phải được phát triển
ngay bên trong của mỗi con người. Theo tôi, vấn đề này rất là rơ
ràng.
Mặc dù điều này có vẻ như rất khó giải
thích, tuy nhiên tôi cũng xin cố gắng để diễn tả điều mà tôi vừa
khẳng định. Trước tiên, chúng ta phải nhận thức được rằng hạnh phúc
chỉ có thể t́m thấy được trong tâm hồn của chính ḿnh. Những ai nghĩ
rằng chỉ có khoa học kỹ thuật là có khả năng giải quyết mọi vấn đề,
và với sự tiến bộ trên lănh vực vật chất, mọi mục tiêu đều có thể
đạt tới được, theo tôi đều là những người có quan điểm cực đoan.
Chúng ta cần phải nhận thức được những giới hạn của lối tiếp cận như
thế. Và một khi chúng ta bắt đầu bằng cách ư thức được những giới
hạn này, chúng ta sẽ không bao giờ bị xúc động khi phải đối diện
với những chướng ngại bên ngoài.
Theo tôi, mỗi khi phải đối diện với
những nỗi khó khăn, tốt nhất là chúng ta chớ vội đi sâu vào vấn đề,
thay v́ nên lùi lại, nh́n ngắm chúng với một tâm hồn rộng mở, đặt
chúng vào trong mộr bức tranh toàn cảnh lớn hơn. Bằng cách này tôi
tin rằng chúng ta sẽ rất dễ dàng t́m ra những giải pháp. Cụ thể hơn
như khi chúng ta phải đối đầu với những vấn đề nghiêm trọng, nếu ta
không đứng tách ra ngoài để nh́n vấn đề và t́m cách đối phó, chúng
ta sẽ không nh́n thấy ǵ cả, những khó khăn sẽ trở nên nặng nề và
chúng ta sẽ rơi vào trạng huống tiêu cực hơn. Ngược lại, nếu chúng
ta quan sát chúng từ xa, tiếp cận chúng với một thái độ rộng mở,
khảo sát vấn nạn từ mỗi góc cạnh, chúng ta sẽ dễ dàng nh́n thấy được
những trạng huống tích cực của vấn đề.
Tôi nghĩ rằng quả là điều quan trọng
nếu chúng ta biết tổng hợp trí óc thông minh tự nhiên sẵn có của
ḿnh cùng với ḷng can đảm để có thể phát triển ḷng tự tin trong
mỗi chúng ta. Kinh nghiệm cá nhân cho tôi biết thái độ này rất ích
lợi cho sự b́nh an của tâm hồn.
Thưa Ngài, bằng những
phương sách nào, các chính khách có thể mang lại cho quần chúng hạnh
phúc hơn?
Theo tôi vấn đề này không phải chỉ đặt
ra cho giới chính khách mà thôi. Nó liên hệ đến tất cả mọi giới:
giáo viên, nhà khoa học, lư thuyết gia chính trị, chuyên gia tâm lư,
nói chung là tất cả những ai đang hoạt động trên các lănh vực khoa
học về tâm trí, tinh thần. Một cách cụ thể, tất cả mọi người đều
phải tự t́m kiếm cho ḿnh những phương cách để mang lại sự b́nh an
tâm hồn. Y khoa càng ngày càng khám phá thêm những mối liên hệ mật
thiết giữa sự thanh thản tâm hồn và sức khỏe thể xác. Những nghiên
cứu như thế đáng được đẩy mạnh thêm.
Bên cạnh đó, theo tôi lănh vực truyền
thông cũng đóng một vai tṛ khá quan trọng trong chuyện này. Ngành
truyền thông của chúng ta hiện đang ở vào thời đại tân tiến, cho nên
tôi tin chắc chúng có thể đảm nhiệm được công việc như những nhà
giáo dục nhằm kích thích tâm hồn của con người. Những kư giả v́ thế
cũng mang một sứ mệnh quan trọng.
Nhân đây tôi cũng xin được bày tỏ đôi
điều về vấn đề này. Tôi nghĩ là ngành truyền thông đại chúng hiện
đang quá chú trọng đến việc khai thác các khía cạnh tiêu cực trong
đời sống xă hội; điều này đă tạo cho công luận có một ấn tượng tiêu
cực về bản chất của nhân loại nói chung. Thông thường, một khi bạn
mang một ấn tượng như thế, bạn sẽ rất dễ dàng sinh ra chán nản, và
thực tế cho thấy là người ta mất đi niềm hy vọng để sống.
Nhân loại -mặc dù được coi như một đại
gia đ́nh- đă phải gánh chịu khổ đau bởi rất nhiều vấn nạn.Thế nhưng
cho dù con người phải đối diện với vô vàn những khó khăn như thế, ta
vẫn có khả năng chuyển hóa chúng. Chúng ta có thể cải thiện hoàn
cảnh sống bởi v́ thiện tâm và ḷng nhân ái là một phần của bản chất
con người. Nếu chúng ta biết phối hợp trí óc thông minh của ḿnh với
sự thúc đẩy của ḷng nhân ái, chúng ta có khả năng thay đổi cuộc
sống của chúng ta và qua đó, chuyển hóa xă hội. Tôi nghĩ rằng đây là
điểm căn bản.
Điều này giải thích tại sao tôi luôn
quan niệm rằng khi cần phải đối phó với những vấn đề liên quan đến
con người, điều tốt nhất là ta nên cân nhắc kỹ lưỡng. Tất cả những
trạng huống tiêu cực của nhân loại dĩ nhiên không phải là không quan
trọng, nó cho báo chí những tin hay. Tuy nhiên đồng thời ta cũng
đừng nên bỏ qua khía cạnh tích cực của đời sống vốn được xây dựng
trên bản chất tốt đẹp và trí tuệ của con người.
Gần đây tại một số quốc gia đă có
những cuộc thảo luận liên quan đến vai tṛ của truyền thông đại
chúng. Những ǵ cần phải được tường thuật? Tường thuật như thế nào?
Những phần nào liên quan đến đời tư của con người mà truyền thông
không được đụng tới? Tôi cũng có một vài thiển ư liên quan đến những
vấn đề này, đặc biệt là những lănh vực mà các nhà lănh đạo thường
quan tâm. Trong thời gian qua thực tế cho thấy là đă có một số các
khuôn mặt lănh đạo lạm dụng chức quyền, họ không hề tuân thủ một
chút nào về nguyên tắc đạo đức hoặc ư thức kỹ luật tự giác. Đối với
những trường hợp như vậy, tôi nghĩ rằng ngành truyền thông có quyền
kiểm chứng và phơi bày cho công luận biết những tệ trạng như thế, đó
là lư do tại sao tôi ủng hộ những hoạt động của họ và đánh giá cao
khả năng điều tra t́m ṭi của người kư giả, có thể chỏ mũi vào bất
cứ nơi nào.
Một con người lương thiện không thể có
sự mâu thuẫn nào giữa dáng vẽ bên ngoài và đời sống nội tâm của họ.
Tôi nghĩ rằng ngành truyền thông cần cho công luận thấy một vài
khuôn mặt nổi tiếng đă khéo léo che dấu con người thật của họ bằng
một mả ngoài rất lịch sự, dễ thương. Trong những trường hợp như thế,
tốt hơn là ta đành phải chấp nhận chuyện xâm phạm đời tư cá nhân,
tuy nhiên, xin đừng quên rằng mục đích chung cùng của chúng ta là
phụng sự nhân loại trong ư hướng cải thiện xă hội. Điều này không
cho phép ta làm việc cẩu thả, sai lầm hoặc bị lôi kéo bởi những động
cơ tiêu cực. Tôi quan niệm rằng nếu chúng ta không chịu phơi bày ra
những mặt xấu xa của xă hội chẳng hạn như ma túy, sát nhân, sách
nhiễu t́nh dục, khai thác trẻ con... ngày qua ngày, những người
lương thiện sẽ vẫn c̣n tiếp tục hứng chịu những đau khổ gây ra bởi
những tệ nạn này. Nếu chúng ta biết giải thích mọi việc một cách
sáng tỏ, công luận từ đó sẽ quan tâm đến vấn đề và t́m ra những
phương thức làm giảm thiểu khổ đau.
Tôi cũng nhận thấy rằng khi người ta
nói về luân lư, đạo đức người ta thường liên hệ những phẩm chất này
với những ư niệm tôn giáo. Theo tôi, một việc khá quan trọng là ta
cần nên tách rời giữa hai ư niệm đạo đức và tôn giáo. Tôn giáo dĩ
nhiên giúp ta củng cố, trợ lực và phát triển đạo đức; thế nhưng khi
ta nói đến những khái niệm như ḷng vị tha, t́nh huynh đệ chúng ta
nên nhận thức rằng những tiêu chuẩn đạo đức này tự nó hiện hữu, độc
lập đối với mọi tôn giáo, bởi v́ những t́nh cảm này được h́nh thành
do bản chất tự nhiên của con người -t́nh nhân ái và ḷng thương yêu.
Thưa Ngài, quan niệm
của Ngài như thế nào về việc kiểm soát sinh sản và Ngài có ư kiến ǵ
về việc phá thai?
Để trả lời cho câu hỏi này tôi thường
giải thích theo quan điểm của người Phật tử vốn quan niệm rằng đời
sống của tất cả mọi loài chúng sanh, kể cả côn trùng sâu bọ và đặc
biệt là con người, đều rất qúy giá. Nếu nh́n vấn đề như thế th́ tất
cả mọi h́nh thức kiểm soát sinh sản đều cần phải được ngăn cấm. Tuy
nhiên những sinh mạng qúy giá đó nay đă đạt đến một số lượng đáng
kể, thế nên chúng ta không thể không khẩn thiết kêu gọi mọi người
phải quan tâm đến vấn đề hạn chế sinh sản một cách nghiêm túc, v́ đó
là phương cách duy nhất để hạn chế t́nh trạng gia tăng dân số. Như
tôi đă từng đề cập, khi mà tài nguyên của trái đất đang khô kiệt
dần, tôi chấp nhận chuyện hạn chế sinh sản một cách bất bạo động.
C̣n phá thai là một chuyện khác, đó là
một hành động sát nhân. Truyền thống Giới Luật Phật giáo chỉ rơ rằng
ta không được giết hại con người, cho dù đó là một bào thai. Tuy
nhiên không phải là không có những trường hợp ngoại lệ mà ta phải
xem xét, chẳng hạn như đó là nguồn gốc gây nên sự khổ đau trầm trọng
cho một thành viên trong gia đ́nh, ví dụ một bà mẹ mang thai có nguy
cơ tử vong lúc lâm bồn hoặc những người có thể sinh ra quái thai.
Thưa Ngài, làm thế nào
để giúp đỡ những người mang những khổ đau thể xác lớn lao, những
người không đủ sức khoẻ để có thể theo đuổi con đường dẫn đến giác
ngộ?
Có nhiều loại bệnh hoạn về thể chất
khác nhau. Những loại tạo ra những ảnh hưởng trầm trọng đến tâm trí
của bệnh nhân th́ quả thật là rất đáng thương và bi đát; thế nhưng
có những loại chỉ gây nên những đau đớn về thể xác, như là các bệnh
kinh niên, bán thân bất toại hoặc tạo ra những biến chứng trầm
trọng, nhưng tâm trí người bệnh vẫn tỉnh táo và như vậy họ có thể dự
phần vào các sinh hoạt tâm linh ở một mức độ nào đó. Sự học hỏi Giáo
Pháp không phải là một hoạt động về lănh vực thể chất mà đ̣i hỏi sự
vận dụng tâm trí và một thái độ tâm linh cần thiết. Những ai đang
đau đớn có thể được hướng dẫn để quán tưởng về các đề mục tham
thiền như t́nh yêu thương, ḷng can đảm, về đức tin cũng như tinh
thần từ bi, nhân ái; những việc này sẽ tạo cho họ thêm tin tưởng
cũng như làm cho đời sống của họ trở nên có ư nghĩa và giá trị hơn.
Tuy nhiên sự hướng dẫn phải được thực hiện một cách khéo léo.
Thưa Ngài, ta có thể
làm được ǵ khi một người biết ḿnh đang bị bệnh AIDS hoặc một căn
bệnh bất trị khác?
Một lần nữa, theo tôi những phản ứng
của một người trước loại bệnh hoạn như thế đều tùy thuộc vào mức độ
tham dự vào những sinh hoạt tâm linh của họ. Tôi không biết phải nói
như thế nào đối với những kẻ vô thần hoặc không có một niềm tin tôn
giáo cụ thể nào. Tuy nhiên điều tôi muốn tŕnh bày ở đây là dù thế
nào đi nữa, chúng ta không nên bỏ rơi hoặc gạt họ ra bên lề xă hội
và như thế ta có thể làm giảm thiểu được sự khổ đau gây nên bởi cảm
giác bị hất hủi, tuyệt vọng, không được che chở nơi họ. Chúng ta
phải cho người bệnh thấy là họ không bao giờ bị gạt ra ngoài. Đó là
trách nhiệm lớn lao của xă hội.
Nếu một người không
c̣n một mảy may hy vọng nào sống sót -ví dụ như đang ở trong trạng
thái hôn mê chẳng hạn- có phải là điều quan trọng nếu ta kéo dài sự
sống của họ một cách giả tạo? Chúng ta có tạo nghiệp
(xấu) hay không khi
phải chấm dứt sự sống không ngoài mục đích ngăn chặn những đau đớn
không cần thiết khác?
Chúng ta hăy nh́n vấn nạn này trên
quan điểm của người bệnh. Tâm trí của họ có c̣n tỉnh táo, lư trí của
họ có đủ khả năng để suy luận hay không? Nếu c̣n đủ, một điều rất
quan trọng là ta phải để cho họ sống, dù chỉ trong một ngày hay một
buổi để may ra họ có thể có cơ hội phát triển trạng thái đức hạnh về
mặt tâm linh như ḷng từ bi và hỷ xả chẳng hạn. Trong trường hợp
bệnh nhân đang ở trong trạng thái hôn mê bất tỉnh, tâm trí không c̣n
hoạt động nữa, ta cần nên xem xét một số yếu tố khác, chẳng hạn như
ư muốn của những người thân trong gia đ́nh cũng như quyết định ai sẽ
là người trách nhiệm đứng ra chấm dứt sự sống. Như vậy quả t́nh vấn
đề không phải là đơn giản, ta không thể có câu trả lời trên căn bản
những lời khuyên thông thường.
Tuy nhiên quan trọng hơn cả là chúng
ta cần phải xem xét động cơ đàng sau mỗi hành động. Đạo Phật dạy
chúng ta không nên huỷ diệt sự sống của bất kỳ sinh vật nào. Nếu một
người đang đau đớn, họ phải chấp nhận hoàn cảnh khổ đau đó để thanh
lọc nó. Tuy nhiên qủa là một lầm lẫn lớn nếu ta không thèm đếm xỉa
đến nỗi khổ đau của người khác, xem đó là nghiệp quả mà họ phải gánh
chịu và ta không thể làm ǵ được. Mỗi chúng ta đă và đang tích lũy
một nghiệp quả riêng. Nó đă được thu nhận, và tiềm ẩn trong mỗi con
người. Tương lai v́ thế nằm ở trong tay của chính chúng ta chứ không
ai khác. Những khó khăn trở ngại, những bệnh tật, khiếm khuyết... là
kết qủa của những tác hành mà chúng ta phạm phải trong quá khứ, rất
khó mà trốn chạy được. Đối diện với bệnh hoạn và khổ đau người ta
thường t́m đủ mọi cách để tránh né chúng, cố làm vơi bớt đi những
gánh nặng khó khăn; và cho dù ngay cả khi trực nhận thấy rằng ta
không đủ lực để chữa trị hay làm khuây khoả, ta phải nên nhớ rằng
tất cả những vấn nạn này đều là kết quả của những tác hành mà ta đă
gây ra trong quá khứ.
Làm thế nào để giúp đỡ
một người đang ở trong trạng thái hôn mê ?
Nếu đó là một người có tín ngưỡng, ta
nên giúp họ theo quy cách tôn giáo mà họ đang tu tập. Cá nhân tôi
không thể đưa ra một giải đáp chắc chắn nào trước cả. Riêng đối với
quan điểm của một Phật tử, tôi nghĩ là con người nên biết cách chuẩn
bị cho ḿnh trước khi sự việc bi đát xảy ra bởi v́ một khi đă rơi
vào trạng thái hôn mê, quả thật là hơi muộn màng khi nói đến chuyện
tâm linh.
Làm thế nào để một
người có thể thoát khỏi t́nh trạng nghiện rượu?
Theo tôi, tốt nhất là ta nên t́m kiếm
lời khuyên từ những bác sĩ chuyên môn. Tạm thời hăy để qua một bên
bất cứ những niềm tin tôn giáo của người đó, điều dễ dàng nhất là ta
cứ nh́n vào và nhận thức được những tổn hại gây ra do việc rượu chè
quá độ cả trên hai b́nh diện tinh thần lẫn thể xác, để hiểu được
rằng do nghiện ngập ta đă bị người đời xa lánh, cô lập. Một khi đă
có một cái nh́n rơ ràng về mặt bất lợi của việc nghiện rượu và phát
triển được ḷng quyết tâm từ bỏ nghiện ngập, tôi tin chắc là bạn có
thể thay đổi được đời ḿnh. Tuy nhiên nếu bạn không đủ ư chí và
nghị lực để có được một thái độ tích cực, tốt nhất là hăy nên đến
các trung tâm y khoa chuyên chữa trị về cai rượu hầu như bây giờ đều
có mặt khắp nơi.
Khi một người Tây Tạng
giết một con trâu để nuôi sống gia đ́nh, có phải họ đă gây ra một ác
nghiệp? Hoặc khi một cận vệ phải giết kẻ khác để bảo vệ sinh mạng
của Ngài? Chúng ta giải thích như thế nào về những trường hợp trên?
Dĩ nhiên đó đều là những hành động bất
thiện. Tuy nhiên nghiệp tác động vào mỗi hành động của chúng ta dựa
trên nhiều yếu tố, chẳng hạn như ư hướng thúc đẩy hành động, sự hành
động và những ư tưởng theo sau hành động đó.
Thưa Ngài, những ǵ
được xem như là những thái độ t́nh dục không đúng đắn? Ngài nghĩ như
thế nào về đồng t́nh luyến ái?
Tùy thuộc vào các yếu tố như cơ quan
sinh dục, thời gian và không gian mà một số hành động được coi như
là không đúng đắn chẳng hạn như giao cấu không đúng chỗ trên bộ phận
của cơ thể hoặc xảy ra không hợp thời hợp chốn. Đây là những hành
động mà người Phật tử xem là vô luân về mặt t́nh dục. Miệng và hậu
môn dĩ nhiên không được coi là những bộ phận sinh dục, sử dụng các
bộ phận này trong việc giao cấu, dù nam hay nữ đều được coi như là
vô luân trong t́nh dục. Ngay cả thủ dâm cũng thế.
Giao cấu vào ban ngày cũng được coi
như là vô luân, ngay cả việc giao cấu với người bạn t́nh mà họ đang
tuân thủ một số nguyên tắc đạo đức, hạnh nguyện dù chỉ là tạm thời,
chẳng hạn như từ khước ham muốn t́nh dục, sống độc thân... Bắt buộc
người khác phải giao cấu với ḿnh cũng được liệt vào loại liên hệ
t́nh dục không đúng thời, đúng lúc.
Giao cấu không đúng chỗ nếu được xảy
ra tại những nơi như chùa chiền, chỗ thờ phượng, hoặc bất cứ nơi nào
mà một trong những người bạn t́nh cảm thấy không thoải mái. Một hành
động t́nh dục được coi là đúng đắn khi đôi vợ chồng sử dụng các bộ
phận chức năng sinh dục trong việc giao cấu, không có một ngoại lệ
nào khác. Làm t́nh với gái điếm do chính ḿnh trả tiền mà không
phải là một người thứ ba nào khác, ngược lại không được xem như là
hành vi đúng đắn. Tất cả những thí dụ vừa nói nêu ra một số
khái niệm thế nào là đúng và không đúng đắn trong thái độ t́nh dục
theo quan điểm đạo đức của Phật giáo.
Đồng t́nh luyến ái, bất luận là giữa
người nam hay người nữ, đều được xem là những liên hệ t́nh dục không
đúng đắn. Xin được nhắc lại một lần nữa rằng những ǵ được coi là
không đúng đắn nếu sử dụng các bộ phận không xứng hợp trong chuyện
giao hợp. Vấn đề này như thế có lẽ đă sáng tỏ?
Thưa Ngài, Phật giáo
giải thích như thế nào về vấn đề ư thức đối với các sinh vật bé nhỏ
như côn trùng hay vi trùng chẳng hạn? Phải chăng tất cả các loài hữu
t́nh đều có ư thức? C̣n cây cỏ, đất đá th́ sao, chúng có vẻ như là
những vật vô t́nh? Phải chăng cây cỏ cũng có Phật tánh?
Tôi đă từng thảo luận vấn đề này với
các nhà khoa học. Không nhiều th́ ít, chúng tôi đă đồng ư với nhau
trên quan điểm rằng mọi vật có thể tự ḿnh chuyển động được -đặc
tính mà cây cối không có- đều có ư thức, linh hồn. Dĩ nhiên rễ cây
cũng chuyển động khi chúng phát triển, tuy nhiên đây không phải là
chuyển động tự nó mà chỉ được xảy ra khi cây cối tăng trưởng. V́ thế
ta không thể gọi cây cối là “chúng sanh”, tức là có linh hồn. Tuy
nhiên ta có thể kết luận rằng một tế bào vi tế nhất, tế bào amíp
chẳng hạn, vẫn được coi như là một sinh vật v́ nó có khả năng tự
chuyển động.
Một khi đă không xem các loại rau cỏ
là sinh vật, ta không thể xem chúng là có Phật tánh. Đối với một số
loài cây ăn thịt, tôi không có khả năng phán đoán khả năng giăng bẩy
bắt mồi của chúng là do chúng có ư thức hay chỉ là kết quả của một
phản ứng thuần túy hóa học. Vấn đề này xin được mở rộng để thảo
luận. Tuy nhiên trong một số trường hợp, người ta không thể không
đặt vấn đề. Đóa hoa này chẳng hạn, được xem như là loài vô t́nh -tức
là không có linh hồn- hay là một chúng sanh? Chúng ta thỉnh thoảng
được phép nêu lên nghi vấn bởi v́ trong một số kinh sách Phật giáo
đă từng đề cập đến các loài chúng sanh có thể được xuất hiện dưới
dạng thể của loài vô t́nh hay cây cối, v.v... Bởi lẽ đó, chúng ta
cũng không thể khẳng định dứt khoát rằng một đóa hoa có phải là sinh
vật hay không, v́ lẽ chúng ta không thể biết được một chúng sanh
đang hoá hiện ra dưới h́nh thức như thế.
Phật giáo quan tâm mạnh mẽ đến việc
bảo vệ thiên nhiên, cây cỏ, không phải v́ chúng là loài hữu t́nh, là
những tạo vật có thể đánh động ḷng từ bi thương xót nơi chúng ta
mà bởi v́ thiên nhiên tự nó chính là môi trường sống, cũng như bảo
vệ sự sống c̣n của muôn loài sinh vật. Nếu một thành phố bị hỏa
thiêu thành tro bụi, có phải là một số lượng rất lớn những mái ấm
gia đ́nh của con người đă bị hủy diệt? Cũng thế, sự tàn phá thiên
nhiên cũng chẳng khác ǵ hơn, bởi v́ một số lượng lớn loài vật sẽ bị
mất đi nguồn thực phẩm, chỗ cư trú, tức là mất đi khả năng sinh tồn.
Đối với các loài vi khuẩn, theo kinh
sách Phật giáo, cơ thể của chúng ta chứa một số lượng đáng kể. Người
ta ước tính ra là có thể có hơn 80,000 loại như thế, đây là một con
số khá lớn. Ở vào chiều kích nào, tŕnh độ tiến hoá nào những vi
sinh vật này có thể được coi như là những chúng sanh? Tôi không thể
nói thêm được điều ǵ ngoại trừ cho rằng các sinh vật bé nhỏ, súc
vậr -nếu chúng ta quan niệm chúng là súc vật hẵn nhiên là chúng phải
có một số h́nh thức sinh hoạt của loài hữu t́nh- v́ thế chúng ta có
thể xem chúng là có linh hồn.
Thưa Ngài, xin Ngài
giải thích cho chúng tôi khái niệm về cộng nghiệp, ví dụ nghiệp lực
của một quốc gia như Cam Bốt, Tây Tạng? Cộng nghiệp của các quốc gia
này đă được biểu hiện như thế nào?
Chúng ta có thể nhận thức được thế nào
là cộng nghiệp của một quốc gia. Thế nhưng cho dù các nghiệp quả
được tích lũy của một cá nhân và chung một nhóm người có thể được
phát tác đồng lúc, điều này không nhất thiết là tất cả nghiệp lực
của họ đều được gây ra bởi cùng một thời điểm giống nhau. Tôi không
tin rằng tất cả những nguyên nhân của cộng nghiệp được tạo ra cùng
một lúc mà đó là kết quả của từng cá nhân gây ra ở những thời điểm
khác nhau. Lực của những tác hành này cộng thêm với những yếu tố
khác đă tạo nên cộng nghiệp mà qua đó một nhóm người hay cả một quốc
gia phải hứng chịu.
Có một số tội phạm
chiến tranh tại các quốc gia Âu Châu, cụ thể là Đông Âu và một vài
quốc gia khác tại Á Châu, như Cam Bốt, Việt Nam chưa hề bao giờ bị
truy tố hoặc ngay cả trong vài trường hợp nhận được sự khoan hồng
trước khi bị mang ra xét xử. Ngài nghĩ như thế nào về chuyện này?
Thật quả là điều hổ thẹn khi nh́n thấy
một số quốc gia vừa mới được giải thoát khỏi ách chuyên chế độc tài
hồi gần đây lại quay ra oán hờn và trả thù trả oán lẫn nhau trong
khi lẽ ra người ta nên chấp nhận và tha thứ cho nhau. Đối với các
quốc gia vừa mới được hưởng tự do dân chủ, đây không phải là thời
điểm để rửa hờn và thanh thỏa chuyện cũ. Trái lại đây chính là lúc
cần tập trung nỗ lực để xây dựng quốc gia, tái tạo xă hội. Tôi vẫn
luôn nêu lên những cảm nghĩ này mỗi khi có dịp thăm viếng các quốc
gia đó. Riêng tại Trung quốc, mặc dù nền kinh tế đă được giải phóng
nhưng họ vẫn theo đuổi một chế độ chính trị độc tài áp bức. T́nh
trạng vi phạm nhân quyền xảy ra khắp nơi, đặc biệt là tại các khu
vực của sắc dân thiểu số, cụ thể là Tây Tạng, trên thực tế là một
quốc gia đang bị họ chiếm đóng.
Tôi rất mực hoan hỷ và khâm phục các
hoạt động cao quư của những tổ chức như Hội Ân Xá Quốc Tế (Amnesty
International) đă làm việc với tinh thần cực kỳ thành khẩn, rất có
hiệu quả và nhiệt t́nh trong lănh vực bảo vệ quyền làm người.
Thưa Ngài, Ngài đă
từng nói đến việc tài giảm vũ khí cần đi đôi với việc giải trừ quân
bị ngay chính trong tâm hồn của mỗi con người. Chúng tôi rất muốn
được biết thêm làm thế nào để giải trừ quân bị ngay chính trong tâm
hồn của mỗi người trong khi chúng ta hàng ngày đă phải đối mặt với
kẻ thù, và hận thù th́ ngự trị khắp nơi. Trong cuốn sách The Ways of
the Heart, Ngài có gợi ư về việc thành lập một quân lực quốc tế cho
tương lai. Như vậy tổ chức này theo Ngài, sẽ hoạt động như thế nào
trong khi Ngài là người chủ trương bất bạo động? Đội quân này có
được vơ trang hay không?
Mọi người đều biết rất rơ rằng khả
năng giết chóc lẫn nhau giữa con người vẫn c̣n tồn tại khi nào mà vũ
khí vẫn c̣n vung lên giữa các quốc gia hay đơn giản hơn ngay trong
nội bộ của chính mỗi quốc gia. Dù bất cứ trường hợp nào đi nữa chúng
ta cũng cần phải làm một cái ǵ đó để chận đứng tệ trạng buôn lậu vũ
khí bởi v́ t́nh huống ngày càng trở nên kinh khủng và vô trách
nhiệm. Hăy suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh đến các vấn nạn về quân bị
và vũ trang: Nếu nh́n vấn đề một cách thấu đáo ta thấy rằng các học
viện quân sự là nguyên nhân chính gây nên t́nh trạng đổ vỡ hủy diệt
và mối kinh hoàng ngự trị trên trái đất này bắt nguồn từ vũ khí. Thế
nên mối hiểm họa xung đột vẫn luôn luôn có cơ may xảy ra khi mà các
trung tâm quân sự vẫn c̣n hiện hữu, dù là ở phe này hay phe kia.
Đó là lư do giải thích tại sao việc
giải trừ quân bị là điều cần thiết, dĩ nhiên cần được tiến hành từ
từ từng bước một. Đầu tiên nên bắt đầu bằng việc giải giới vũ khí
nguyên tử, tiếp theo là loại bỏ các loại vũ khí hóa học, sinh học và
cuối cùng là các loại vũ khí của chiến tranh quy ước. Trước hết ta
cần phải có sự đảm bảo quốc tế để theo dơi tiến tŕnh này, kể cả
kiểm soát việc buôn bán vũ khí, lănh vực mà không thiếu ǵ những kẻ
vô lương tâm đang hoạt động. Để giám sát việc giải trừ quân bị, có
thể là chúng ta cần có một cơ quan pháp lư, h́nh thức giống như cảnh
sát quốc tế. Tổ chức Liên Hiệp Quốc gần đây đă tham dự khá nhiều vào
các hoạt động quân sự giải phóng, chúng ta cũng cần một lực lượng
như thế trong phạm vi khu vực hay toàn cầu để giám sát công tác hoàn
toàn giải trừ quân bị một quốc gia. Lực lượng hỗn hợp này trong ư
tưởng của tôi chẳng khác ǵ lực lượng kiểm soát hoà b́nh của Liên
Hiệp Quốc. Với cung cách này mỗi chúng ta có thể sẽ trở thành một vị
Bồ Tát, và dĩ nhiên, lực lượng này không cần phải trang bị vũ khí!
Tuy thế tôi nghĩ rằng đây là một vấn đề rất khó khăn.
Có thể một số người đă không hiểu ư
nghĩa của việc giải trừ quân bị ngay chính trong tâm hồn của mỗi con
người. Theo tôi, kẻ thù tồi tệ nhất cuả chúng ta là sự thù hận. Đó
cũng chính là kẻ thù của sự an b́nh tâm hồn, của t́nh thân hữu và
hoà điệu giữa con người, là ba yếu tố then chốt trong việc triển
khai tích cực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp. Hận thù phải được
tiết giảm để cho từ bi và thiện cảm lên ngôi. Đó chính là khái niệm
về giải trừ quân bị trong tâm hồn mà tôi đă từng đề cập.
Thưa Ngài, xin Ngài
nêu bật những đặc điểm của nhân loại?
Dĩ nhiên đây là câu hỏi liên quan
trực tiếp đến thực tại của thế giới hiện tượng vốn có nhiều mức độ
khác nhau. Ở mức độ cao nhất, chúng ta không thể nào t́m ra được sự
hiện hữu tuyệt đối của cái mà ta gọi là thực tại.
Tuy nhiên thông thường mà nói, tôi
luôn cho rằng thực tính của nhân loại chính là ḷng nhân ái. Giáo
dục và kiến thức đồng thời cũng mang lại những phẩm chất tốt đẹp
khác, thế nhưng nếu ta muốn trở thành một con người đúng nghĩa cũng
như mang lại ư nghĩa thoả đáng cho sự hiện hữu của ḿnh, ta cần phải
có thiện tâm.
Cái ǵ nối kết Pháp
với hạnh phúc? Phải chăng là cảm thụ?
Khi nói đến hạnh phúc ta nói đến hai
trạng thái khác nhau: thứ nhất, hạnh phúc được hiểu như là một cảm
giác hài ḷng thỏa măn, một thứ kinh nghiệm dễ chịu; mặt khác, hạnh
phúc c̣n là những ǵ mang lại cho tâm hồn ta những hân hoan sâu lắng
hơn. Khi bạn tưởng đến Pháp và đi vào thực hành, bạn được xem như là
đang tích lũy công đức, bởi v́ tất cả mọi loại hạnh phúc và thỏa măn
đều là kết qủa trực tiếp hay gián tiếp của các tác hành tích cực,
tốt đẹp. Tôi có cần phải khẳng định thêm một lần nữa rằng tham dự
vào các hoạt động tinh thần lành mạnh là con đường ngắn nhất dẫn đến
an lạc, thanh thản tâm hồn? B́nh an, thanh thản tâm hồn có thể không
nhất thiết được cảm nhận như là một cảm giác đặc biệt, thế nhưng nó
xúc tác trên cảm xúc thể chất tạo ra niềm vui, hạnh phúc. Thanh b́nh
và an lạc của Niết Bàn không tạo ra một thực trạng thuộc về thế giới
cảm xúc mà là một trạng thái hoàn toàn giải thoát khỏi khổ đau cùng
những mối dây ràng buộc ta vào ṿng luẩn quẩn của sinh tử luân hồi.
Từ cái nh́n này, đây chính là trạng thái hạnh phúc vĩnh cữu. Phật
qủa v́ thế cũng đồng nghĩa với cực lạc, tuyệt đối hạnh phúc. Nếu
qúy vị muốn đi một bước xa hơn và hỏi tôi: Như vậy cái ǵ là bản
chất của cái gọi là cực lạc này ?, tôi bắt buộc phải trả lời rằng
đây là điều không thể thấu đáo, không thể nghĩ bàn, hoàn toàn vượt
ra ngoài khả năng tinh thần của chúng ta.
Làm thế nào để có thể
phát triển được sự can đảm tinh thần? Phải chăng đây là một thuộc
tính tích cực?
Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, can đảm là
một thái độ tích cực và cần thiết. Nếu bạn thiếu can đảm, hăy luôn
luôn tự nhắc nhở ḿnh: “Tôi sẽ can đảm, Tôi sẽ can đảm,” và phải kiên
tŕ suy nghĩ như thế măi.
Ḷng can đảm có thể được phát triển
bằng cách nào? Trước tiên bạn phải có khả năng nhận biết mỗi loại
t́nh cảm để có thể cô lập những loại thường gây kích động và phiền
nhiễu đến tâm hồn của ḿnh. Bạn biết được loại t́nh cảm tiêu cực
này, thường là những loại t́nh cảm vụn vặt không quan trọng -không
hợp lư, không chính đáng, làm cho tâm hồn của bạn phản ứng một cách
bối rối, kích động. Trong khi đó các loại t́nh cảm khác như ḷng từ
bi, t́nh thương, nhân ái là những t́nh cảm căn bản lành mạnh và tích
cực. Nếu luôn suy nghĩ đến chúng sẽ làm bạn tăng trưởng ḷng can đảm
và sức mạnh đạo đức; và khi bạn quán tưởng sâu xa đến bản chất bất
toại của chu kỳ cuộc sống, nó sẽ dấy lên trong ḷng bạn những t́nh
cảm đột biến thay đổi sâu xa, tạo nên một nhu cầu khẩn thiết phải tự
giải phóng cho chính ḿnh ra khỏi những hệ lụy đó.
Xu hướng mạnh mẽ này mà mục tiêu chính
là nhằm giải thoát ḿnh ra khỏi ṿng sinh tử luân hồi, chính là điều
mà tôi cho là trạng thái tích cực của tâm hồn -không nhất thiết là
bạn phải đạt đến 100%- bởi v́ nó được bắt nguồn từ một tiến tŕnh tư
duy lành mạnh cũng như những lư luận đă được thực chứng bởi kinh
nghiệm. Cũng như khi ta phân chia việc tu tập Đại thừa ra làm hai
phạm vi: pháp, cũng c̣n được gọi là phương tiện thiện xảo, và trí
huệ- tôi nghĩ là chúng ta có thể đồng hoá những phẩm chất này với
pháp và xem trí thông minh như là trí huệ. Chắc chắn là pháp tương
ứng với những khía cạnh tích cực của phản ứng và trí huệ chính là sự
biểu hiện trí thông minh của chúng ta.
Bây giờ nói đến chuyện làm thế nào để
phát triển ḷng can đảm, đây qủa là một vấn đề khó nuốt! Tuy nhiên
thực ra, tôi tin một cách chắc chắn rằng toàn bộ cuốn Nhập bồ đề
hành kinh (Bhodicharyavatara) của Bồ Tát Thánhh Thiên (Shantideva),
ngay từ những ḍng đầu tiên của chương nhất cho đến đoạn cuối của
chương mười và phần kết luận đều nêu lên chủ đề về con đường đưa đến
tỉnh thức cũng như phương thức tu dưỡng ḷng can đảm và quyết tâm.
Tuy nhiên tùy theo căn cơ, tâm tính và tŕnh độ thông minh khác nhau
của mỗi cá nhân, có người có thể ưa thích giá trị của kỹ thuật được
đưa ra trong cuốn sách này nhưng cũng có người lại chọn một đường
lối khác hơn.
Tôi hoàn toàn tâm đắc với câu nói sau
đây của Geshe Potawa: “Ṿng luân hồi sinh tử không có điểm khởi đầu
cũng như nguồn gốc cho nên nó không thể tự chấm dứt. Ta không thể so
sánh nó như một trái cây trên cành, cho dù không ai chăm sóc vẫn lớn
lên, chín tới và rơi rụng khi bắt đầu thối rửa.” Thế cho nên một khi
bạn cảm thấy chán ngán cái ṿng luẩn quẩn của tử sinh và có ư hướng
muốn t́m cách phá vỡ nó để thoát ra, thật là sai lầm khi khoanh tay
ngồi chờ sự giải thoát t́m đến với bạn. Thời gian tự nó không thể
mang đến sự chấm dứt của ṿng sinh tử. Bạn phải là người chủ động từ
đầu; bạn phải khởi đi một cách có ư thức từ bước đầu tiên nhằm đảo
ngược tiến tŕnh của ṿng luân hồi sinh tử. Khoanh tay ngồi chờ
ḍng sinh tử tự chấm dứt chỉ là hy vọng hảo huyền, nếu không nói là
biểu hiện của một cuộc sống vô nghĩa.
Thưa Ngài, vô chấp và
vô phân biệt khác biệt nhau như thế nào?
Hoàn toàn khác nhau. Vô phân biệt bao
hàm một thái độ hoàn toàn xả bỏ trước đối tượng, trong khi vô chấp
vẫn c̣n mang một vài vướng mắc, dính líu.
Để làm sáng tỏ vấn đề, ta nên hiểu thế
nào là chấp trước. Có hai loại chấp trước: Loại thứ nhất được gây ra
do trạng thái tâm hồn bị quấy đục bởi dục vọng hoặc các yếu tố tâm
linh tiêu cực khác và do đó cần phải được loại bỏ. Loại thứ hai là
sự lôi cuốn bởi các đối tượng của ḷng từ bi -sự lôi cuốn này không
phải là kết quả của những t́nh cảm hay tư tưởng tiêu cực- do đó cần
phải được đào sâu và củng cố.
Khi chúng ta thực tập thiền định về
tánh không, chúng ta làm công việc giải trừ những kiến thức sai lầm
về hiện tượng và sự vật, những kiến thức sai lầm đă làm cho chúng ta
tin chắc rằng mọi vật đều bền vững và hiện hữu một cách độc lập.
Thật là điều quan trọng để sửa chữa những kiến giải sai lầm này, tuy
nhiên trong nỗ lực nhằm nâng cao tiềm năng của những phẩm chất lành
mạnh và tích cực cũng như loại bỏ các xu hướng tiêu cực, độc hại
trong mỗi chúng ta, quả là điều khó khăn khi giữ cho ư thức của ta
luôn luôn tỉnh táo để có thể phân biệt được cái nào nên trau dồi cái
nào nên loại bỏ. Những tính năng phân biệt của chúng ta như thế vẫn
c̣n nguyên vẹn.
Cũng cùng một tâm cảnh như thế, vị Bồ
tát phải nhổ đến tận gốc rễ và loại bỏ hoàn toàn tính kiêu căng tự
phụ. Một vị Bồ tát khiêm nhường phải tự hạ ḿnh trước mọi loài chúng
sanh, đây là điều hoàn toàn tự nhiên. Điều này chẳng mảy may cản
trở cái năng lực phi thường và ḷng dũng cảm tuyệt vời của Bồ tát
trong tâm nguyện giải thoát mọi loài chúng sanh ra khỏi khổ nạn.
Tâm đại từ bi này, vốn đă không c̣n bị vướng mắc bởi mọi h́nh thức
chấp trước tiêu cực, là một thí dụ chứng tỏ cho thấy thái độ dính
líu tích cực ở một mức độ quan trọng lớn lao hơn cho phúc lợi của kẻ
khác thay v́ cho hạnh phúc của riêng cá nhân ḿnh.
Một người biết sử dụng trí thông minh
của ḿnh song song với việc thực hành tu dưỡng tinh thần, tức là nếu
cần thiết, sử dụng cả pháp cùng với những tính năng sáng tạo của tâm
thần, họ sẽ học được cách khám phá ra những sắc thái vi tế giữa một
bên chỉ biết chăm sóc đến bản ngả của ḿnh, một h́nh thức của chấp
trước, và bên kia là những t́nh cảm cao thượng biết cống hiến đời
ḿnh cho hạnh phúc tha nhân. Chỉ có sự hoà hợp duy nhất giữa pháp
và trí huệ mới có thể đưa ta đến sự phát triển các tính năng vững
chắc của nhận thức phân biệt. Thế cho nên tôi thường phát biểu rằng
khi nói đến bản ngă tức là cũng đồng thời nói đến một ư thức tự giác
vững mạnh. Một trong những h́nh thức biểu hiện của ngă tức là không
quan tâm đến kẻ khác, không thèm đếm xỉa đến hạnh phúc của tha nhân
và đi xa hơn nữa là khai thác mọi cơ hội nhằm mang đến lợi nhuận cho
cá nhân ḿnh, miễn sao cho ḿnh vui thích là đủ! Thái độ tinh thần
này dứt khoát là rất tiêu cực, cần phải loại trừ.
Ngược lại, một khía cạnh khác của ngă
có thể được xem như là sự biểu hiện của niềm tự tin lớn lao, loại
niềm tin khiến chúng ta có thể nói một cách mạnh dạn rằng: “Tôi có
thể làm được việc này, việc kia. Tôi có khả năng mang lại những điều
tốt đẹp cho mọi người. Tôi có thể đạt đến hoàn toàn giác ngộ để cứu
độ chúng sanh.” Loại t́nh cảm này chắc chắn là không thể bị loại bỏ
mà ngược lại cần phải được phát triển và củng cố. Như thế, những
tiến bộ trên hành tŕnh tu tập sẽ giúp cho tâm hồn ta ngày càng thư
giản, tỉnh lặng cùng một lúc với trạng thái hoàn toàn tỉnh thức,
sáng suốt biểu hiện khả năng quán chiếu nội tâm và tập trung trí tuệ
cao độ.
Thưa Ngài, có ǵ khác
biệt giữa giận dữ và hận thù?
Cá nhân tôi phân biệt hai thứ t́nh cảm
loạn động này như sau. Hận thù phát sinh ra do nỗi oán hận người mà
động cơ thúc đẩy chắc chắn không bao giờ phát xuất từ ḷng từ bi.
T́nh cảm này v́ thế phải được hoàn toàn loại bỏ. Giận dữ mặt khác
chỉ là hệ quả của một phản ứng t́nh cảm cấp thời, mà theo kinh điển,
vẫn có thể được sử dụng trong hành tŕnh tu chứng. Giận dữ trong một
vài trường hợp có thể được coi như là sự biểu lộ của ḷng từ bi
chẳng hạn như được sử dụng như là một chất xúc tác hay là một sức
thúc đẩy cần thiết trước một hành động khẩn cấp.
Xin Ngài định nghĩa về
khái niệm thế nào là có một kẻ thù?
Khi bạn “đỏ mặt” lên v́ giận dữ một
người nào đó, hăy hỏi cái tâm trạng nóng giận của bạn lúc đó kẻ thù
là cái ǵ? Trong cuốn Nhập bồ đề hành kinh của
Bồ Tát Thánh Thiên
(Bhodicharyavatara), chương nói về ḷng khoan dung và nhẫn nhục đă
có một định nghĩa rất rơ về kẻ thù, tức là người trực tiếp hăm dọa
đến đời sống của ta, của bạn bè quyến thuộc, của tất cả những ǵ là
tài sản, sở hữu của ta, v.v... Bạn của những kẻ thù ta cũng được xem
như là kẻ thù. Tuy nhiên với phương pháp tu tập chuyển hoá tư tưởng
(Tây Tạng gọi là lodjong), một người có thể thiết lập được mối tương
quan b́nh đẳng không phân biệt giữa ḿnh và người khác, và do đó đi
đến nhận thức rằng không có ǵ được gọi là thù hay bạn. Đây không
phải là sự phủ nhận sự hiện hữu của khái niệm bạn thù: Thù vẫn là
thù, bạn vẫn là bạn. Tuy nhiên phương pháp tu tập này chỉ cho ta
thấy rằng ta không có lư do ǵ để phải giận dữ bất cứ ai được coi
như là kẻ thù của ta, cũng như không nên vướng mắc vào một lối đối
xử đặc biệt nào đối với những người được ta coi như là bạn bè, quyến
thuộc. Nh́n ở góc cạnh này, hắn ta là kẻ thù của tôi v́ hắn đă gây
nên những thiệt hại cho tôi, nhưng nh́n ở một góc cạnh khác, tôi có
thể xem y như một người bạn v́ y đă cho tôi cơ hội thực tập nhẫn
nhục và phát triển ḷng khoan dung. Với quan điểm này ta không c̣n
xem y như là kẻ thù địch, mà ngược lại rất hữu ích, hữu dụng đối với
ta.
Dựa trên những giáo lư
Phật giáo, làm thế nào để chúng ta học hỏi được những kinh nghiệm về
các hành vi bạo động, như chiến tranh chẳng hạn?
Điều quan trọng nhất là tránh chuyện
sát sanh. Ư tưởng cho rằng một người có thể được quyền tước đi mạng
sống của kẻ khác phải được hoàn toàn tẩy sạch trong tâm trí của mọi
người.
[MUCLUC]
[CH1]
[CH2]
[CH3]
[CH4]
[CH5][HOME]