LƯ TƯỞNG BỒ TÁT và BỒ TÁT ĐẠO
 

 

CHƯƠNG II.4

     

Thông Điệp của Bồ Tát Địa Tạng

Qua Kinh ĐỊA TẠNG BỔN NGUYỆN
 

 

 

"Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi v́ những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật đạo".

                                                   Phát nguyện của Bồ Tát Địa Tạng -Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện.

 

 

 

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là một bộ kinh nói về công đức, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng thường được các chùa chiền tự viện tại các quốc gia theo khuynh hướng Đại Thừa khai tụng trong suốt tháng bảy, đặc biệt là vào dịp lễ Vu Lan, tức là mùa báo hiếu cha mẹ, tổ tiên theo truyền thống của người con Phật. 

Bộ Kinh này đă được Hoà Thượng Trí Tịnh dịch từ Hán Tạng ra tiếng Việt.

 

Lư Do Ra Đời Của Kinh Địa Tạng.

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan: "Ta nghe như vầy", có nghĩa là bộ Kinh này đă được Ngài A Nan ghi nhớ lại lời Phật giảng dạy và sau đó truyền tụng cho đại chúng. Ngay điểm mở đầu này có thể tạo nên một số nghi hoặc đối với đại chúng nhất là những người có một số hiểu biết về lịch sử Phật giáo, v́ ai cũng biết rằng Ngài A Nan chỉ đắc quả A La Hán và đạt được thần thông sau khi Phật nhập diệt, chỉ vài giờ trước khi Ngài Ma Ha Ca Diếp triệu tập Đại Hội tăng già kết tập kinh điển lần thứ nhất. Như vậy, với tư cách là một phàm tăng, người ta tự hỏi, làm sao ngài A Nan có thể đi cùng với Phật lên cung trời Đao Lợi để nghe Phật thuyết pháp? Tuy nhiên, để giải tỏa mối nghi ngờ này, ta nên hiểu rằng, trước khi nhận làm thị giả chính thức cho Đức Phật, Tôn giả A Nan đă ra 8 điều kiện và được Phật chấp nhận, trong đó điều kiện thứ tám nêu rơ:"Nếu Đức Thế Tôn thuyết pháp trong lúc A Nan Đa vắng mặt, th́ ông xin Đức Bổn Sư lặp lại bài pháp ấy cho ông nghe".

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện do Đức Phật Thích Ca diễn nói tại cung trời Đao Lợi, tức là từng trời thứ hai trong sáu từng trời của cơi Dục giới nơi mà Thánh Ma Gia, thân mẫu của Đức Phật đă thác sanh về đây sau khi hạ sanh Đức Phật được 7 ngày. Trước khi nhập Niết Bàn, v́ cảm ơn đức sanh thành, Đức Phật đă diễn nói kinh Địa Tạng tại pháp hội ở cung trời này. Như vậy, Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do ḷng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sanh thành, Ngài đă tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng ḿnh sẽ không c̣n trụ thế bao lâu nữa nên đă lập pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu.

Đây là một pháp hội vô cùng quan trọng v́ có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... cùng các chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cơi. Diễn nói kinh Địa Tạng trong pháp hội này v́ thế mang một ư nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha lành trong bốn cơi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả pháp giới chúng sanh. Trong pháp hội này Ngài v́ thân mẫu mà thuyết pháp nhưng động cơ chính vẫn là ḷng từ bi lân mẫn đối với chúng sanh ở cơi ta bà, đặc biệt đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà Ngài biết chắc chắn là sẽ "bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ", v́ thế trong pháp hội này Ngài đă phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng nhiệm vụ "gắng độ chúng sanh trong cơi Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi hẵn các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ kư". (1)

Như vậy nội dung chính yếu của Kinh Địa Tạng xoay quanh chữ Hiếu, nói lên những bổn phận, nghĩa vụ của người sống đối với người đă qúa văng, cũng như nêu bật những tội phúc quả báo ở kiếp sống bên kia để người Phật tử nương theo kinh này cùng dựa vào oai lực độ tŕ, gia hộ của Bồ Tát Địa Tạng để tu tập, hầu độ thoát cho chính ḿnh, cho người thân cũng như tất cả chúng sanh đă quá văng khỏi rơi vào con đường ác.

 

Hành Trạng Và Đại Nguyện của Bồ Tát Địa Tạng

Bồ Tát Địa Tạng là nhân vật như thế nào mà lại được Đức Phật giao phó một trọng trách lớn lao và khó khăn như thế?

Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát thường được nhắc nhở đến trong rất nhiều kinh điển Đại thừa v́ công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta Bà Giáo chủ th́ Bồ Tát Địa Tạng cũng đă được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cơi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồn v́ ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đă mang một ư nghĩa như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu, chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ư rằng Ngài là đại địa bao la, nơi ẩn chứa những kho tàng qúy giá, tức thiện căn. Địa Tạng v́ thế như là h́nh ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đă lên tiếng tán dương: "Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn."  (2)

Bồ Tát Địa Tạng đă đạt đến qủa vị này là do một phát tâm từ bi dơng mănh muốn cứu vớt tất cả những khổ đau của chúng sanh, đặc biệt là những chúng sanh đang chịu khổ nạn trong địa ngục, được huân tập qua một quá tŕnh tu tập trải qua hằng hà sa số kiếp, trong đó một vài kiếp nổi bật đă được Đức Phật nhắc lại trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện như sau:

· Vị Trưởng giả dưới thời Phật Sư-Tử Phấn-Tấn Cụ-Túc Vạn -Hạnh Như-Lai: Trong kiếp này Ngài là một vị Trưởng giả, đă lập nguyện độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ mới chứng thành Phật đạo.

· Hiếu nữ Bà La Môn dưới thời Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật: Trong kiếp này Ngài là một thiếu nữ Bà La Môn hết ḷng sùng kính Tam Bảo nhưng bà mẹ lại là một người mê tín tà đạo khinh chê Tam Bảo. V́ ác nghiệp này mà sau khi chết bà đă bị đọa vào địa ngục vô gián. Tuy không biết mẹ ḿnh thác sanh về nơi nào nhưng Thánh nữø biết rằng với những tội lỗi mà bà đă gây ra, chắc chắn sẽ bị đọa vào con đường ác. Là một người con hiếu thảo, đau ḷng v́ thương nhớ mẹ, Thánh nữ đă tu tạo phước lành và cầu khẩn oai lực của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật giúp đỡ. Nhờ đó mà thân mẫu của bà chẳng bao lâu sau đă được văng sanh lên cơi trời. Từ đây Thánh nữ lập nguyện: "Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, th́ tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát." 

· Vị tiểu vương dưới thời Phật Nhất-Thiết-Trí Thành-Tựu Như-Lai: Trong kiếp này Ngài là quốc vương của một nước nhỏ, thương yêu dân như con, luôn thực hành mười hạnh lành làm lợi ích cho nhân dân. Tuy nhiên dân chúng của vương quốc này tánh t́nh rất ngang ngược, hung ác. Do đó Ngài đă phát nguyện rằng: "Nếu chưa độ hết những chúng sanh tội khổ đều đặng an vui chứng quả Bồ-Đề, thời tôi nguyện chưa thành Phật." 

· Hiếu nữ Quang Mục dưới thời Phật Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục Như-Lai: Cũng như câu chuyện của Thánh nữ Bà La Môn, Quang Mục là một thiếu nữ rất hiếu thảo đối với mẹ. Sau khi mẹ mất, nàng băn khoăn không biết mẹ ḿnh nay đă thác sanh về đâu. Nhờ ḷng hiếu thảo và công đức cúng dường một vị La Hán đầy phước đức, Quang Mục biết được mẹ đang chịu khổ nạn tại địa ngục do hai tội ác giết hại sanh vật và chê bai mắng nhiếc người khác gây ra lúc c̣n tại thế. Do phước lực của nàng và oai lực của Phật Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục Như-Lai, bà mẹ sau đó đă phải trở lại đầu thai vào làm con của người đầy tớ trong nhà Quang Mục chịu kiếp hạ tiện cho đến năm 13 tuổi mới được văng sanh về cơi trời. Nàng Quang Mục v́ thương mẹ mà đă phát nguyện rộng lớn như sau: 

· "Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm ngàn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo : địa ngục, súc sanh, và ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới trở thành bậc Chánh Giác."  (3)

Đức Thế Tôn đă v́ mẹ mà t́m đến cung trời Đao Lợi. Tôn giả Xá Lợi Phất trước khi biết ḿnh sắp nhập Niết Bàn đă quay về mái nhà xưa để độ thoát cho mẹ già. Trong những câu chuyện về tiền kiếp của Bồ Tát Địa Tạng được Đức Phật nhắc lại ở trên, hai h́nh ảnh nổi bật nhất vẫn là hai thiếu nữ hiếu thảo hết ḷng cứu mẹ. Chữ Hiếu như thế, rất quan trọng trong đạo Phật. Biết thương yêu mẹ mới biết thương yêu chúng sanh. Hiểu được những nỗi khổ mà mẹ đang chịu đựng mới có thể hiểu được những nỗi khổ của chúng sanh. Từ đó mới phát đại nguyện cứu vớt chúng sanh. Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng khi đă chia xẻ kiếp người, cũng chia xớt với chúng ta những t́nh cảm như thế, cho nên chúng ta, những người con Phật, những hiếu tử, có ai nghĩ về mẹ mà không nước mắt rưng rưng? Nhưng làm thế nào để giúp mẹ, để cứu vớt những người thân trong lúc lâm chung hay đă qua đời? Kinh Địa Tạng cùng với công năng, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng sẽ giúp ta thực hiện được điều đó.

 

Công Năng, Oai Lực của Bồ Tát Địa Tạng

và Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện

Công năng, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng bao trùm khắp ba cơi Trời, Người và cơi âm. Nói theo danh từ nhà Phật, oai lực đó là không thể nghĩ bàn. Riêng trong cơi thế gian này, Đức Thế Tôn qua Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đă cho chúng ta biết rằng bất cứ chúng sanh nào hoặc được nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát rồi chí tâm quy y hoặc cúng dường, chiêm ngưỡng, tô vẽ h́nh tượng, đảnh lễ Bồ Tát, chắc chắn sẽ đạt được những lợi ích lớn lao sau đây:

 

1. Lợi ích trong cuộc sống hiện tại:

- Những nguyện lớn mau chóng thành tựu: Những ước muốn mong cầu trong đời hiện tại hoặc vị lai, chắc chắn sẽ được thành tựu. Tất cả những ai phát nguyện lớn lao, muốn cứu độ chúng sanh, muốn đạt đạo quả Bồ đề đều được oai lực của Bồ Tát trợ giúp để đạt thành ư nguyện. 

- Được trí huệ lớn: Đối với những người kém trí nhớ, nghe rồi quên, kinh điển đọc tụng bao nhiêu lần cũng không nhớ nỗi, Phật dạy nên dùng một chén nước trong để trước tượng Bồ Tát một ngày một đêm rồi chí tâm cung kính quay mặt về phương nam thỉnh nước này để uống, sau đó phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi... giữ ǵn 5 giới trong ṿng 7 hoặc 21 ngày sẽ thấy hiệu nghiệm. 

- Tai Nạn Tiêu Trừ : Tất cả những ai luôn bị tai vạ theo đuổi, thân luôn mang tật bệnh, gia đạo không an, người thân ly tán... Nếu chuyên tâm tŕ tụng danh hiệu của Bồ Tát từ một muôn biến trở lên, tất cả mọi hoạn nạn sẽ dần dần được tiêu trừ. 

- Thoát khỏi hiểm nguy: Nếu gặp cảnh ngộ phải xông pha vào chốn hiểm nguy, trước khi ra đi chuyên tâm niệm danh hiệu của Bồ Tát trên một muôn biến, sẽ thoát khỏi khổ nạn hiểm nguy. 

- Tiêu tội chướng, bệnh tật: Những người bị bệnh thập tử nhất sinh, nằm liệt giường, sống dở chết dở, đó là do nghiệp-đạo luận tội chưa đi đến quyết định dứt khoát nên khó chết cũng như khó lành. Trong lúc này người thân nên dùng tài sản, vật qúy của người bệnh tô vẽ h́nh tượng, cúng dường Bồ Tát rồi báo cho người bệnh biết cũng như tŕ tụng kinh này th́ người đó v́ nghiệp báo mà phải mang lấy bệnh nặng sẽ được hết bệnh, sống lâu, c̣n như nếu hết nghiệp lúc chết các nghiệp chướng sẽ được tiêu trừ, không c̣n bị đọa vào ba đường ác mà sẽ được văng sanh về cơi Trời. 

- Được quỉ thần hộ vệ: Những người cung kính đảnh lễ, dùng các h́nh thức văn mỹ nghệ ca ngợi Bồ Tát Địa Tạng, khuyến khích những người khác cùng làm theo như thế, trong đời này cũng như ở những kiếp sau, họ sẽ được trăm ngh́n quỉ thần luôn theo hộ vệ ở bên ḿnh, không c̣n bị mắc vào những tai họa nữa.

 

2. Lợi ích cho kiếp sau:

- Thoát khỏi nữ thân: Những người nữ nào không muốn mang thân gái ở kiếp sau, hàng ngày thành kính cúng dường, chiêm ngưỡng, đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được như ư nguyện. 

- Được thân xinh đẹp: Những người nữ hiện tại mang thân h́nh xấu xí, hay ốm đau bệnh tật trong những kiếp tới sẽ được thân h́nh xinh đẹp, sinh vào nơi quyền qúy cao sang nếu cung kính đảnh lễ, tŕ niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng. 

- Thoát kiếp nô lệ: Những người sinh ra trong kiếp tôi đ̣i, nô lệ nếu thành tâm tŕ tụng danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng liên tiếp trong 7 ngày, đủ một muôn biến, kiếp tới sẽ không c̣n sinh vào nơi hạ tiện nữa. 

3. Lợi ích trước phút lâm chung.

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện có thể xem là một quyển kinh gối đầu giường, một cuốn chỉ nam cho người Phật Tử khi phải đối diện hoàn cảnh một người thân yêu của ḿnh sắp mạng chung. Đây là giây phút hệ trọng nhất của một linh hồn sắp giă từ cơi thế, khi mà tất cả những ham muốn, dục vọng của cả một đời người tích tụ lại thành một năng lực quyết định cho hướng đến của kiếp tương lai. Giống như sĩ tử trong kỳ thi cuối cùng, đây chính là thời điểm thử thách, cân lường thiện nghiệp, ác nghiệp của một đời người trước khi chuyển kiếp. Trong lúc này, Đức Thế Tôn cho ta biết, "thần thức của người chết đang hôn mê, mờ mịt, những quỉ thần, ma đạo đôi lúc c̣n biến h́nh ra cha mẹ, những người thân thuộc để lôi kéo họ vào ác đạo, ngay cả đối với những người đă tạo nghiệp lành trong hiện thế." (4)  Cho nên vai tṛ của người thân lúc này rất quan trọng. Họ phải ở bên cạnh người sắp lâm chung, liên tục tŕ tụng danh hiệu Phật, Bồ Tát làm sao cho lọt được vào lỗ tai người chết, như vậy các ma quỉ, ác thần mới lui tan đi chỗ khác.

 

Đức Phật cũng cho biết những công việc cần làm của thân nhân trong suốt 49 ngày khi linh hồn người chết đang c̣n vất vưởng, luôn trông ngóng thân quyến cốt nhục tu tạo phước đức làm hành trang, vốn liếng cho họ được nhẹ bước siêu linh. Nỗ lực chính yếu của thân nhân trong thời gian này nên được thể hiện bằng những hành động tích cực như không được giết hại sinh vật, cúng tế thần linh, ma quỉ. Sau 49 ngày th́ người chết sẽ tùy theo nghiệp mà nhận lấy quả báo.

Có lẽ quyển "Tạng Thư Sống Chết" của Phật Giáo Tây Tạng là quyển sách diễn tả một các khá rơ ràng về những giai đoạn biến chuyển của thần thức -hay thân trung ấm (bardo) con người từ giây phút lâm chung cho đến 49 ngày sau đó, phù hợp với giáo lư mà Đức Phật đă diễn nói trong kinh Địa Tạng. Trong phần "Các cảnh báo trước nơi tái sanh" tác giả cho biết: "Những người nào phải sanh vào địa ngục sẽ nghe những tiếng như những lời than văn và sẽ bị bắt buộc phải đi vào một cách không cưỡng lại được. Sẽ hiện ra những khoảng tối mù mịt, những ngôi nhà màu đen và trắng, những lỗ đen ng̣m trong đất, những con đường tối om mà người ta sẽ phải đi theo. Bước vào đó là người ta vào địa ngục và sẽ phải đau khổ v́ qúa nóng, qúa lạnh... và sẽ phải chịu đựng lâu dài mới ra khỏi được" (5). Bởi vậy, đối với người đang hấp hối, sự hiện diện bên cạnh của vị bổn sư hay của một vị thiện trí thức mà đương thời người hấp hối kính trọng, tin tưởng, đọc tụng cho họ những bổn kinh hay tŕ niệm hồng danh chư Phật, chư Bồ Tát, cụ thể là Bồ Tát Quán Thế Âm hay Bồ Tát Địa Tạng -hoặc vị Bồ Tát nào mà lúc sinh thời người đó đă chọn thờ kính làm vị Đại sư của ḿnh -tương tự như vị thánh bổn mạng của người Thiên chúa giáo- sẽ giúp ích lớn lao cho người chết được mau chóng siêu thăng về cơi Phật.

4. Lợi ích đối với người quá văng. 

- Siêu độ vong linh: Tại sao trong giấc ngủ ta nằm mơ thấy ma quỷ, hoặc h́nh ảnh những người lạ tạo cho ta những ấn tượng lo buồn, hoặc kinh sợ đến đổi phải thở than, khóc lóc hoặc kinh hoảng trong giấc mơ? Đức Phật giải thích cho ta biết đó là do linh hồn những thân quyến của ta đă chết trong kiếp này hay những kiếp trước bị đọa vào ác đạo nên t́m đến ta để mách bảo hy vọng rằng v́ t́nh cốt nhục ta sẽ t́m cách giúp họ thoát ra khỏi con đường ác đạo.

Để giúp cho những vong linh này được siêu độ, Phật dạy ta nên chí tâm đảnh lễ trước h́nh tượng của chư Phật hay Bồ Tát rồi tự ḿnh đọc tụng kinh này hoặc nhờ người khác đọc tiếp từ 3 đến 7 biến tức thời những linh hồn thân quyến kia sẽ được giải thoát không c̣n hiện về trong giấc mơ nữa.

- Gặp lại người thân đă quá văng: Những người nào gặp cảnh cha mẹ mất sớm từ lúc vừa mới sanh ra cho đến trong ṿng mười tuổi, hoặc có anh chị em, quyến thuộc đă qua đời, sau này khi họ lớn lên, nhớ tưởng đến những người đă quá văngï, không biết thác sanh về đâu, trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Phật dạy rằng hễ cứ mỗi lần nghe danh hiệu hoặc chiêm ngưỡng h́nh tượng của Bồ Tát Địa Tạng th́ cung kính đảnh lễ một lần trong suốt một ngày đến 7 ngày, những thân quyến quá văng dù có bị đọa vào ác đạo cũng được siêu thăng lên cơi Trời. Nếu thực hiện công hạnh này đủ 21 ngày và tŕ tụng một muôn biến danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng sẽ được Ngài hiện về trong giấc mơ mách bảo cho biết nơi thác sanh hoặc Ngài sẽ dẫn đến tận nơi để gặp lại người thân đă qua đời.

 

Quan Niệm Về Địa Ngục, Tội Phước Nghiệp Báo

Trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện.

Có thể xem Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là quyển kinh nói rơ nhất về thế giới bên kia -tức cơi âm-, về địa ngục và những trừng phạt, về tội phước và nghiệp báo.

1. Về địa ngục:

Một vấn nạn mà các triết gia Đông Tây thường nêu ra để t́m lời giải đáp là sau khi chết, thần thức tức linh hồn của con người sẽ đi về đâu ? Phải chăng có cơi địa ngục hiện diện ở thế giới bên kia và nếu có, qua đó những kẻ gây ác nghiệp sẽ bị trừng phạt như thế nào?

Câu trả lời của Phật giáo rất rơ ràng. Trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Đức Phật đă trả lời dứt khoát cho ta biết là có địa ngục và có sự trừng phạt. Ngài chỉ rơ rằng những người sinh ra trong đời này hoặc mang kiếp nghèo hèn,hoặc gia đ́nh quyến thuộc ḱnh chống nhau, hoặc thân h́nh xấu xí tàn tật, đui, điếc, câm ngọng, không lưỡi, miệng lở, điên cuồng mất trí, chết yểu,... hoặc sinh làm chim chóc, súc sanh... đều là những chúng sanh đă tạo ác nghiệp từ thân khẩu ư từ những kiếp trước, sau khi chịu qủa báo ở đời này, nếu không tu tập, họ sẽ c̣n tiếp tục bị "đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi". 

Ta tin lời Phật dạy là có địa ngục, nhưng địa ngục đó như thế nào? Để trả lời những thắc mắc của Thánh mẫu Ma-Gia cũng như Bồ Tát Phổ Hiền nêu ra trong pháp hội, Bồ Tát Địa Tạng đă tóm lược ra cho ta biết tất cả những loại địa ngục, qua đó nạn nhân phải nhận chịu những h́nh thức trừng phạt hết sức kinh khủng bởi những khí cụ tra tấn ghê rợn trong từng các loại địa ngục, mà trong đó nặng nề nhất là địa ngục Vô Gián. Đọc đến đoạn kinh này, những người mang tinh thần duy lư có thể sẽ nêu nghi vấn, đặt vấn đề: Con người chỉ cảm nhận được đau đớn khi có xác thân, nhưng sau khi chết rồi, xác thân tan rả th́ những h́nh phạt, tra tấn đâu có tác dụng ǵ nữa, như vậy phải chăng địa ngục chỉ là sự hù dọa của tôn giáo đối với những kẻ yếu bóng vía ? Ta hăy xem Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện giải thích như thế nào về vấn đề này.

Địa ngục là ǵ? Trả lời Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài Địa Tạng nêu rơ : "Đó là do chúng sanh trong cơi Diêm-Phù-Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế" và ngay cả các khí cụ tra tấn cũng được giải thích, "Khí cụ là do các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh mà cảm vời ra." (6) Thiết tưởng câu trả lời trên đây đă diễn tả đầy đủ ư nghĩa về địa ngục. Địa ngục hiện hữu là do nghiệp của mỗi chúng sanh mà CẢM ra. Có lẽ phải cần một cuốn sách hay nhiều cuốn sách mới giải thích một cách đầy đủ quan niệm "tùy nghiệp chiêu cảm", tuy nhiên để có thể h́nh dung một cách cụ thể th́ nếu ta gây nghiệp ác, linh hồn ta sẽ không ngớt bị dày ṿ, chịu trừng phạt đau đớn sau khi chết giống như ta đang sống trải qua một cơn ác mộng. Trong ác mộng, tuy xác thân ta không bị hành hạ nhưng ta cũng cảm thấy đau đớn, lo lắng, kinh hải, ta cũng rên la than khóc, đổ mồ hôi hột trước những sự khủng khiếp mà ta đang chịu đựng trong giấc mơ; nhưng may mắn cho ta, thần thức ta có chỗ dựa là xác thân, khi sự kinh khủng lên đến cao độ ta tỉnh mộng và t́m được lối thoát. Nhưng sau khi chết, linh hồn ta sẽ không c̣n chỗ dựa, ta không c̣n lối thoát nào nữa, cơn ác mộng do đó sẽ kéo dài bất tận do những nghiệp ác gây nên, cho đến khi nào nghiệp ác tự tiêu diệt hoặc ta được những nguyện lực có khả năng cứu rổi ta siêu thoát qua cảnh giới khác.

Hiểu Địa ngục như thế để thấy cảm thương cho cha mẹ, thân quyến của ta, của tất cả chúng sanh v́ nghiệp ác phải trả trong địa ngục, để hướng từ bi tâm của ta nguyện cầu cho họ mau chóng siêu thoát hoặc tích cực hơn, tŕ tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện để nhờ oai lực của Bồ Tát cứu vớt họ đến những cảnh giới an lạc.

 

Vấn đề tội phước nghiệp báo:

Khi ta tin có Địa ngục tức là ta tin có vấn đề tội phước nghiệp báo, trong kinh Địa Tạng bổn nguyện Đức Thế Tôn đă cho ta biết như thế. Mọi việc xảy ra ở trên đời này không có ǵ là ngẫu nhiên. Ta như thế nào trong kiếp sống hiện tại là kết qủa của nghiệp báo gây ra từ những kiếp trước. Chính nghiệp -tốt hay xấu- của một người gây ra do thân, khẩu, ư trong đời này lại sẽ là lực quyết định tương lai cho những kiếp tới của cá nhân đó mà không là ǵ khác. Nghiệp là một nhà phán quan vô tư không sai chạy. Hay ta có thể h́nh dung ra nghiệp như là một nhà kế toán với phương tiện điện toán hiện đại nhất mà tất cả những hành động tốt xấu của ta xảy ra sẽ được nó lưu trữ vào bộ nhớ (memory) không sót một chi tiết nào. Đến giờ lâm tử, nó mới bắt đầu giở sổ sách ra để tính toán với ta. Từ đó cánh cửa mở ra để ta bước vào cơi Phật, cơi Trời, hoặc đầu thai trở lại làm người, làm súc sanh, hay đi về địa ngục...

 

Vấn đề luân hồi, tái sinh ngày nay không c̣n là một vấn đề siêu h́nh, trừu tượng nữa mà đă trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học thực nghiệm. Hàng ngàn trường hợp đă được kiểm chứng một cách khoa học và được phổ biến qua báo chí, sách vở. Ba nhà tiên phong trong lănh vực này là Bác sĩ Ian Stevenson nguyên Giáo sư Đại học Y Khoa Louisiana State University, Trưởng khoa Thần kinh Trường Đại học Y Khoa University of Virginia; Tiến sĩ Bác sĩ Raymond Moody, Jr., thường trú tại bệnh viện Đại học Y Khoa University of Virginia và đặc biệt là Bác sĩ Nha Khoa Bruce Goldberg, hiện có pḥng mạch tại Los Angeles, CA đă dùng "Thôi miên trị liệu pháp" (Hypnotherapy) để cho bệnh nhân nhớ lại tiền kiếp. Trường Đại học Y Khoa Florida, Hoa Kỳ, đă mở hẵn phân khoa "Thôi miên trị liệu pháp", dùng phương pháp thôi miên để khám phá những căn bệnh mà họ không thể xác định được căn nguyên. Với phương pháp này họ có khả năng làm cho người bệnh nhớ lại tiền kiếp của ḿnh và nhờ đó mà khỏi bệnh. Bản báo cáo của Trường Đại học này có ghi lại là trường hợp của một bệnh nhân bị chứng đau bụng dưới kinh niên. Cơn đau kinh khủng đến độ bệnh nhân tưởng như cơ thể, đất trời phải nổ tung ra, không thể chịu đựng nỗi. Các phương tiện y khoa đều bó tay không t́m ra nguyên nhân căn bệnh, cuối cùng phải nhờ đến phương thức trị liệu mới. Nhờ phương thức này mà các bác sĩ chữa trị đă giúp bệnh nhân nhớ lại một trong những tiền kiếp của ḿnh, khi anh là một cai tù tại một quốc gia Nam Mỹ dưới thời thống trị của đế quốc Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 15. Anh là một cai tù rất hung bạo. Những tù nhân nào qua tay anh đều bị anh mang giày bốt đá vào bụng dưới; những nạn nhân này không bị dập gan, dập ruột th́ cũng bể bao tử, đau đớn vô cùng. Thấy được tiền kiếp này anh cảm thấy vô cùng hối hận và lành bệnh. Chính BS. Bruce Goldberg trong tác phẩm của ông, "Past lives, Future lives" cũng đă kể lại trường hợp ông đă chữa lành bệnh mù mắt cho một thiếu nữ khi cho bệnh nhân này thấy lại tiền kiếp của ḿnh. (7).

 

Đức Thế Tôn trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện cũng đă nêu ra một số thí dụ điễn h́nh về tội phước nghiệp báo. Ngài cho biết những hạng Tăng ni giả danh, phá giới, phạm trai, những người chế diễu, phỉ báng những kẻ tu hành th́ chắc chắn sẽ bị đọa và ngục Vô Gián, hoặc sanh làm cầm thú đói khát suốt đời; nếu những người chuyên sát sanh hại vật th́ kiếp tới sẽ bị chết yểu; những người không bao giờ toại chí, trong cuộc sống làm việc ǵ cũng thất bại là v́ kiếp trước họ hà tiện, bỏn xẻn, chẳng hề giúp người; những người hay chưỡi bới mắng nhiếc, nói lời thô ác th́ bị quả báo không lưỡi, miệng lở, hoặc nội bộ gia đ́nh quyến thuộc không an ổn,ḱnh chống lẫn nhau; những người đời này mang thân xấu xí, tàn tật là do kiếp trước hay nóng giận... 

Là Phật tử, khi đă hiểu rơ về tội phước nghiệp báo như thế, nếu ta có gặp phải những bất hạnh trong kiếp sống này th́ nên nỗ lực tu tập để hy vọng được sanh về những cảnh giới tốt đẹp hơn trong tương lai, c̣n nếu ta đang tận hưởng tất cả những hạnh phúc, sung sướng, giàu có, uy quyền trong kiếp sống hiện tại th́ lại càng phải nỗ lực tu tập hơn nữa để tăng trưởng thiện nghiệp cho những kiếp sắp tới. Đức Thế Tôn v́ ḷng đại bi, thương yêu chúng sanh như con nên đă chỉ cho ta một con đường sáng tỏ như thế trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Lời dạy của Ngài không cao xa mà rất cụ thể, chỉ cho ta phương pháp thực hành rất dễ dàng để không c̣n bị rơi vào ác đạo: "Trong mỗi tháng những ngày: Mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi, mười ngày trên đây là ngày mà các nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ... Trong mười ngày trai trên đây, nếu có thể mỗi ngày tụng một biến kinh này." (8)

 

Tu Tập, Hành Tŕ Theo Hạnh Nguyện Của Bồ Tát Địa Tạng

Đọc tụng kinh Địa Tạng, tŕ niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, ta phải thấy được hạnh nguyện cao cả của Ngài: "Nếu trong địa ngục c̣n một chúng sanh bị đau khổ, tôi thề sẽ không thành Phật", để từ đó những người phát tâm Bồ Tát nỗ lực tu tập, hành tŕ theo hạnh nguyện của Ngài, theo gót chân Ngài, nương theo oai lực của Ngài đi vào chốn địa ngục để cứu vớt những linh hồn bất hạnh hầu đền trả ơn Tam Bảo, ơn cha mẹ, tổ tiên. 

Nhưng địa ngục ở đâu? Có lẽ ta không cần phải t́m địa ngục ở đâu xa, bởi v́ địa ngục không nhất thiết là ở thế giới bên kia, địa ngục tồn tại ngay trong kiếp sống này, trên thế giới này; bởi v́ nơi nào có ngục tù, có giam cầm, tra tấn, có tiếng rên xiết, thở than là ở đó có địa ngục. Phật giáo là tôn giáo của Từ Bi, ra đời v́ những khổ đau của nhân loại, cho nên người Phật tử phải là những nhân tố tích cực có mặt hàng đầu tại những nơi khổ nạn mà chốn ngục tù là một thí dụ điễn h́nh. Chưa hết, c̣n bao nhiêu oan hồn vất vưởng, nạn nhân của những cuộc chiến kinh hoàng, những pḥng hơi ngạt, những trại tập trung, những trại cải tạo, trên Biển Đông, trong những ngục tù oan khuất... đang cần được siêu độ. Đọc tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, tŕ niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, được phần công đức nào ta nên hồi hướng đến những chúng sanh bất hạnh này và nguyện cầu cho linh hồn họ mau chóng siêu thoát. 

Địa ngục cũng có thể ở chung quanh ta, đó là môi trường không thoải mái mà ta phải sống hoặc làm việc. Đó là những người sống bên cạnh ta, là bạn đồng sở, hàng xóm láng giềng, thậm chí ngay cả cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái... những người ta không thích nhưng do nghiệp duyên ta phải gần gũi, chung đụng mà đôi khi họ đă tỏ ra rất độc ác, biến đời sống ta thành cơi địa ngục. Jean Paul Sartre, một triết gia nỗi tiếng của Pháp đă từng nói "L’enfer c’est les autres" -Địa ngục tức là những người chung quanh- cũng trong ư nghĩa này. Địa ngục cũng ở ngay chính trong ta, đó là tham lam, giận dữ, hận thù, đố kị, si mê, mù quáng... đă hàng ngày không ngớt xâu xé ta, biến ta thành những con người ngập ch́m trong vô minh tăm tối, bị chế ngự bởi những thú tính thấp hèn. Tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Địa Tạng v́ thế cũng có nghĩa là thể hiện những hành động tích cực biến cải chính con người ta, môi trường sống chung quanh ta từ địa ngục trở thành Tịnh Độ.

Từ những công hạnh và nỗ lực tu tập này, người Phật tử thực hành Bồ tát đạo, khi giă từ cơi thế lập tức phát khởi tâm đại từ bi, dâng lời phát nguyện xin bước theo Bồ Tát Địa Tạng đi về chốn địa ngục để lập thêm công đức, cho đến khi nào Đức Phật Di Lặc chuẩn bị ra đời, ta lại xin được trở về cơi Trời Đâu suất, tiếp tục tu học để cùng với Phật Di Lặc trở lại cơi thế trong hội Long Hoa, xây dựng một cơi Tịnh độ mới cho nhân loại. Chắc chắn Ngài sẽ tiếp nhận ta.

 

H́nh ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một h́nh ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật, đặc biệt là trong mùa Vu Lan báo hiếu. Chiếc thiền trượng của Bồ Tát Địa Tạng đă, đang và sẽ gỏ măi vào cánh cửa địa ngục. Năng lực của tâm đại bi sẽ làm mở tung tất cả những cánh cửa hắc ám, làm tan rả những xiềng xích trói buộc, giải cứu tất cả những ai c̣n bị đọa đày trong cơi vô minh, tù ngục để từ đó những hạt giống bồ đề, những hạt giống thương yêu sẽ nẩy mầm mạnh mẽ trong những linh hồn đau khổ của anh, của chị, của chúng ta, của tất cả những thân bằng quyến thuộc, đang sống hay đă qua đời... Đó chính là thông điệp của Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện.

 

 

[2.1] [2.2] [2.3] [2.4] [2.5] [HOME]

 This site was last updated 08/15/05