CHƯƠNG 2
2.1 Những Vấn Đề Chung
Quanh
Danh Hiệu
Quán Thế Âm Bồ Tát
Người Trung Hoa có
thể đă không biết đến Bồ Tát Quán Thế Âm nếu như kinh điển của
Phật giáo đă không được dịch qua Hán văn. Kinh điển v́ thế
được xem như là phương tiện đầu tiên mà từ đó tín ngưỡng thờ
phượng Quán Âm được xây dựng và chuyển hóa. Thế nhưng cho dù tính
cách quan trọng của kinh điển thường được giới Phật tử tinh hoa
xem như khuôn vàng thước ngọc, quả là một điều ngây thơ nếu cho
rằng tất cả kinh văn đều được các Phật tử thuần thành nghiên cứu
đọc qua hoặc bất cứ những ǵ vạch ra trong kinh điển đều được tất
cả mọi tín đồ hoàn toàn tuân thủ. Khi nghiên cứu Phật giáo một
cách tổng quát, hay cụ thể hơn đối với trường hợp Bồ Tát Quán Thế
Âm, chúng ta phải để ư đồng đều đến hai khía cạnh, một bên là bức
tranh lư tưởng xuất hiện trong sách vở, một bên là mặt thực tế của
quần chúng đang thực hành được minh họa bởi những khắc họa, lịch
sử mỹ thuật, lễ nghi tế tự cũng như trong văn chương nghệ thuật.
Gregory Schopen đă từng nêu rơ rằng, khi những nhà nghiên cứu về
Phật giáo (cũng như nghiên cứu về tôn giáo nói chung) chỉ hoàn
toàn dựa vào kinh điển, kết quả thường là méo mó nếu không nói là
hoàn toàn sai lạc
(1).
Trên một b́nh diện khác, chỉ khi nào chúng ta biết được Bồ Tát
Quán Âm đă được tŕnh bày như thế nào trong kinh điển nguyên thủy
chúng ta mới đánh giá đúng mức tiến tŕnh chuyển hóa đặc biệt mà
vị Bồ Tát này đă trăi qua tại Trung quốc. Bằng vào việc khảo sát
kỷ lưỡng những khoảng cách giữa một Quán Âm Trung hoa và h́nh ảnh
ban đầu của Ngài trong kinh điển ta mới có thể có được những hiểu
biết một cách tường tận về vị Bồ Tát này.
Đă có một số lượng khá lớn kinh sách Phật
giáo nói về Bồ Tát Quán Âm. Cụ thể như học giả Hậu Đằng Đại Dụng (Goto
Daiyo) đă liệt kê ra khoảng hơn 80 bộ kinh trong đó có sự xuất
hiện của Bồ Tát (2).
Danh sách này không phải ngưng lại ở đây bởi v́ chỉ nội những kinh
điển Mật tông liên quan đến Bồ Tát cũng đă lên tới 88, chiếm hết
506 trang trong bộ Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho, vol.
20), bộ Tam Tạng kinh điển Trung quốc ấn bản mới nhất được in tại
Nhật bản vào năm 1922-23. Khi chúng ta khảo sát những kinh điển
này, một điều rất dễ nhận ra là vai tṛ của Bồ Tát không phải lúc
nào cũng đồng nhất, giống nhau.
Những vai tṛ của
Avalokitesvara rất đa dạng, từ một nhân vật khiêm nhường trong
đoàn tùy tùng thị giả bao quanh Đức Phật Thích Ca đến một ngôi sao
độc chiếm trên bầu trời riêng rẻ như là một đấng cứu rỗi toàn năng.
Những khuôn mặt của Bồ Tát trong kinh điển, cũng như trong mỹ
thuật và các phương tiện thể hiện khác đă nói lên những tiếng nói
khác nhau, đa năng và đa diện. Từ khiêm nhường đến quan trọng, ta
có thể liệt kê ra bốn vai tṛ chính như sau:
(1) như là một nhân
vật mờ nhạt trong phối cảnh;
(2) vị thị giả chính
và là vị Phật tương lai kế vị Phật Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang (A
Di Đà);
(3) người tiết lộ
những phương thức cứu độ hiệu quả thông qua việc niệm danh hiệu
của Bồ Tát hoặc nói ra những câu thần chú đặc biệt do yêu cầu của
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát đă nổi bật như một nhân vật
chuyên giải cứu khổ nạn và đôi khi c̣n được biết đến như là một vị
Phật quá khứ.
(4) một linh thần độc
lập chuyên cứu khổ cứu nạn.
Mặc dù các vai tṛ 2,
3 và 4 đều xuất hiện tại Trung Quốc (vai tṛ 1 không được chú ư
đến) nhưng chỉ có vai tṛ 4 là đóng vai tuồng chủ yếu. Những vai
tṛ khác nhau mà Bồ Tát Avalokitesvara thể hiện trong kinh điển có
thể đă phản ảnh tầm vóc quan trọng của Bồ Tát ngày càng gia tăng.
Mặt khác chúng cũng có thể đă phản ảnh những khuynh hướng của các
truyền thống giáo phái khác nhau tôn thờ Bồ Tát. Người ta thấy có
ít nhất ba khuynh hướng tín ngưỡng khác biệt: Tôn thờ Bồ Tát như
là một nhân vật Đại Từ Đại Bi chuyên cứu độ chúng sanh được thể
hiện qua kinh Pháp Hoa; xem ngài như là vị thị giả chính của Phật
A Di Đà trong các kinh sách Tịnh Độ; là vị thánh giả có quan hệ
với ḥn đảo thánh địa Bồ Đà Lạc Ca (Potalaka) trong huyền thoại
Phật giáo được đề cập đến trong kinh Hoa Nghiêm. Ba truyền thống
tín ngưỡng này đă hoàn toàn phát triển độc lập với nhau. Trong các
kinh điển Mật tông, đảo Bồ Đà Lạc Ca được mô tả như là nơi trụ xứ
của Bồ Tát Avalokitesvara.
Trong khi
nghiên cứu các kinh điển, tôi đă sử dụng phương pháp phân loại học
dựa vào sự gia tăng tầm mức quan trọng của Bồ Tát thay v́ liệt kê
và đặt chúng phụ thuộc vào các truyền thống tông phái Phật giáo
Trung Quốc chẳng hạn như kinh Pháp Hoa với Thiên Thai tông, kinh
Hoa Nghiêm với Hoa Nghiêm tông, kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng
thọ kinh với Tịnh Độ tông, hoặc Tâm Kinh và Thủ Lăng Nghiêm với
Thiền Tông. Mặc dù nếu chúng ta liệt kê theo h́nh thức này có thể
là một bằng chứng cho thấy rằng Quán Âm Bồ Tát đă được tôn thờ bởi
hầu hết các tông phái chính của Phật giáo Trung Quốc, tuy nhiên
không phải là không có lư do cho thấy tại sao đây không phải là
cách thức xếp loại tốt. Trước tiên bởi v́ trong khi những kinh
sách này được kể như là những kinh điển cơ bản của các tông phái
đó, giới tăng sĩ Trung quốc –chưa kể đến những Phật tử b́nh thường-
đă không hề học tập kinh điển gắn liền với tông phái của họ. Những
kinh điển này cùng với một số kinh điển Mật tông khác đă được ưa
chuộng bởi tất cả những người sùng mộ Quán Âm không phân biệt tông
phái, thế cho nên quả là điều gượng ép vô nghĩa khi cột chúng vào
một sự phân chia giả tạo. Hơn thế nữa, như đă tŕnh bày trước đây,
khuynh hướng tổng hợp các tông phái khác biệt ngày càng mạnh mẽ kể
từ thời Tống trở đi, bởi vậy tốt nhất là ta không nên áp đặt một
sự phân chia tông phái triệt để theo mô h́nh Nhật Bản đối với thực
tế Trung Quốc (3).
Phương pháp phân loại
học ở đây đặt căn bản trên vị trí và vai tṛ của Bồ Tát. Nó giúp
cho ta hiểu được lư do tại sao người Trung quốc đă lựa chọn và đặt
trọng tâm trên một số kinh điển đặc biệt nào đó, bởi v́ những kinh
điển này trước tiên đă làm nổi bật vai tṛ trung tâm của Bồ Tát
Quán Âm như là một nhân vật cứu khổ cứu nạn. Trong khi quan tâm
đến những vai tuồng khác biệt của Bồ Tát tôi đồng thời cũng lưu ư
đến những danh hiệu và h́nh tướng của Ngài đă được mô tả trong
những kinh sách này.
Bồ Tát Quán Âm
Nhân Vật Trong Đoàn Tuỳ Tùng Thị Giả
của Đức Phật.
Một trong những
bộ kinh sớm nhất đề cập đến Bồ Tát dưới danh hiệu Quán Âm là
“Thành Thủ Quang Minh Định Ư Kinh”, một cuốn kinh trong hệ Bát Nhă
do ngài Chi Diệu dịch ra Hán Văn vào năm 185. Bồ Tát Quán Âm là
người cuối cùng trong số ba mươi vị Bồ Tát được gọi là “minh sĩ”
(4). Đây là một trong những cuốn kinh
được dịch ra Hán văn sớm nhất, chưa đầy 40 năm sau khi nhà sư
người An Tức, An Thế Cao, đến Lạc Dương vào năm 148 thực sự mở đầu
phong trào truyền pháp vào Trung Hoa
(5). Phải nói rằng người khai sơn phá
thạch đóng góp công đầu trong việc dịch thuật kinh điển từ Phạn
ngữ qua Hán văn là ngài Chi Ca Lâu Sấm (Lokaksema), sống cùng
thời với ngài Chi Diệu. Trong số những bộ kinh này, nhà học giả
chuyên nghiên cứu về công tŕnh dịch thuật của Chi Ca Lâu Sấm,
Paul Harrison (1993), hiện nay chỉ chấp nhận chín bộ kinh là xác
thực. Khi nghiên cứu những cuốn kinh này, người ta khám phá ra một
điều khá thích thú là: Bồ Tát Avalokitesvara đă không hề thấy xuất
hiện trong bất cứ cuốn kinh nào, dù chỉ đóng một vai tṛ rất khiêm
nhượng. Hầu như Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và thỉnh thoảng Di Lặc Bồ
Tát thường là vị thượng thủ dẫn đầu những Bồ Tát tham dự pháp hội.
Cũng chẳng có ǵ là khó hiểu tại sao Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mà
không phải Bồ Tát Avalokitesvara được nhắc nhở đến, v́ tất cả
những cuốn kinh này đều thuộc hệ Bát Nhă vốn xem trọng trí tuệ mà
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là đại biểu trong khi Bồ Tát Avalokitesvara
là đại biểu của từ bi. Avalokitesvara được gọi là Khuy Âm trong
kinh Ugrapariprccha (6)
do nhà dịch giả người An Tức, An Huyền
(ca.180). Trong kinh Duy Ma Cật do cư sĩ Chi Khiêm dịch (ca.
220-252) cũng gọi ngài bằng một danh xưng tương tự
(7). Trong hai cuốn kinh này, Bồ Tát
Avalokitesvara đă xuất hiện cùng với khoảng năm mươi vị Bồ Tát
khác. Và rồi Ngài đóng một vai tṛ quan trọng hơn khi cùng với Bồ
Tát Đại Thế Chí trở thành hai vị Bồ Tát hàng đầu được nói đến
trong các kinh điển về cơi Tây Phương Cực Lạc của vị Phật Đại Thừa,
A Di Đà, cụ thể là trong cuốn kinh Vô Lượng Thọ Phật với đoạn văn
liên hệ nói về Bồ Tát Avalokitesvara như sau:
Có hai Bồ Tát tối tôn đệ nhứt oai
thần quang minh chiếu khắp cơi Đại Thiên.
-
Bạch đức Thế Tôn Hai Bồ Tát ấy danh
hiệu là ǵ?
- Nầy A Nan! Bồ
Tát thứ nhứt hiệu là Quán Thế Âm, Bồ Tát thứ hai hiệu là Đại Thế
Chí. Hai Bồ Tát ấy ở cơi nước Ta Bà nầy tu Bồ Tát hạnh, lúc mạng
chung chuyển sanh về nước An Lạc.
- Nầy A Nan! Có
chúng sanh nào sanh về nước An Lạc, thân của họ đều đầy đủ ba mươi
hai tướng tốt, thành măn trí huệ thâm nhập diệu pháp, thần thông
vô ngại, các căn sáng suốt mau lẹ. Người căn trí chậm lụt nhứt th́
thành tựu hai pháp nhẫn. Người căn trí lanh lợi th́ được vô lượng
vô sanh pháp nhẫn.
Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Đây là một
trong những cuốn kinh Đại Thừa được dịch sang Hán Văn sớm nhất.
Cuốn kinh này đă được dịch cả thảy 12 lần trong đó năm dịch bản
vẫn c̣n tồn tại cho đến ngày nay. Dịch giả của những bản văn này
đến nay vẫn c̣n là nguồn tranh căi
(8). Trong số những bản văn c̣n tồn
tại, bản dịch sớm nhất được xem như là của Ngài Chi Ca Lâu Sấm với
tựa đề Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh
(9) trong đó
Quán Âm và Thế Chí luôn luôn là hai vị Bồ Tát thị giả của Đức Phật
A Di Đà có năng lực hóa hiện khắp mười phương cơi Phật. Kinh này
không nhấn mạnh đến biểu tượng ánh sáng nhưng tuyên xưng rằng,
“Ngay trong thế gian, nếu các thiện nam và các thiện nữ, gặp lúc
cấp nạn, rơi vào khủng bố, quay về nương tựa, Bồ Tát Quán Âm, đều
được giải thoát”. Tuy nhiên trong Phật Thuyết Vô Lượng
Thọ Kinh, mà bản dịch theo truyền thống cho là của ngài Khang Tăng
Ngăi người nước Khang Cư vào năm 252
(10) đă đề
cập đến vầng hào quang oai nghiêm của hai vị Bồ Tát này với “oai
thần quang minh, chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới.” Năm
1160, một tín đồ thuần thành của Tịnh Độ tông, cư sĩ Vương Nhật
Hưu, đă kết tập bộ Đại A Di Đà Kinh bao gồm tất cả những kinh điển
Hán tạng liên quan, trong đó cũng đă nhấn mạnh đến vầng hào quang
và năng lực cứu độ của Bồ Tát:
Phật A Di Đà cùng tất cả hàng Bồ Tát và
Thanh Văn trong cơi nước Tịnh Độ từ trên đỉnh đầu phóng quang đến
khắp mọi hướng. Các chúng
Thanh Văn trong cơi Phật ấy, ánh sáng nơi ḿnh phóng xa bảy trượng
c̣n các Bồ Tát có thể phóng quang đến vô số hàng vạn ức do
tuần. Trong số này có hai vị Bồ Tát tôn qúy vào bậc nhất. Một vị
là Quán Thế Âm và vị kia là Đại Thế Chí luôn luôn kế cận Đức Phật
và đỡ đần ngài trong mọi công việc. Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát
cùng bàn bạc mọi chuyện hiện tại và tương lai của quốc độ mười
phương thế giới. Khi Đức Phật muốn sai phái họ đến các cơi Phật
khác, các Ngài có thể ứng hiện đến đó ngay lập tức bằng đôi chân
thần kỳ như là của một vị Phật. Các Ngài cũng có thể phân thân hóa
hiện đến cơi Ta Bà này để độ chúng. Mặc dầu các Ngài hiện diện ở
đây thế nhưng không bao giờ vắng mặt ở cơi Tây phương Tịnh Độ.
Nguồn cảm hứng
từ cuốn kinh này đă được phản ánh ngay vào mỹ thuật. Một trong
những bức tượng Tây phương Tam Thánh sớm nhất có niên đại vào
khoảng 420C.E. đă được t́m thấy tại hang động 169 Bỉnh Linh Tự,
Tây bộ Cam Túc. Danh hiệu của các vị Bồ Tát đă được khắc rơ ràng
trên ṿng khung trang trí. Trong h́nh người ta thấy Bồ Tát Quán
Thế Âm đứng ở bên trái của Phật A Di Đà trên tay cầm một bông sen
đang nở. Điều này là một minh chứng cho sự khởi đầu của tín ngưỡng
Tịnh Độ tại Trung Quốc. Được cổ vũ nồng nhiệt bởi đại sư Huệ Viễn
(344-416), nguồn cảm hứng Tịnh Độ đă bắt đầu được phản ánh qua mỹ
thuật thể hiện niềm tin vào cả Phật A Di Đà, Bồ Tát Quán Âm cũng
như cảnh giới tuyệt vời của Tây Phương Tịnh Độ. Một văn bia được
khai quật tại tu viện Vạn Phật, thuộc địa phận Thành Đô tỉnh Tứ
Xuyên không xác định niên đại nhưng được t́m thấy cùng với những
văn bia khác có niên đại trong khoảng từ 530 đến 580 C.E., mặt
trước khắc họa h́nh hai vị Bồ Tát mà chiếc đầu đă bị hư bể (có thể
là Quán Âm và Thế Chí, hai vị thị giả của Phật A Di Đà) và mặt sau
ngay trung tâm là h́nh Phật A Di Đà, trong đó cảnh giới Tịnh Độ
được thể hiện bằng một hoa viên với những con sông đào tượng trưng
cho ao tái sanh nơi mà những người sanh về cảnh giới Tây phương
đang bơi lội giữa những bông sen đang hé nở. Khoảng chừng năm mươi
năm sau, cũng chung nguồn cảm hứng tái sanh về Tây phương Tịnh Độ
đă đưa đến những sáng tạo nghệ thuật tương tự tại miền Bắc, cụ thể
là tại hang động số 2, phía nam Thưởng Đường Sơn dưới thời Bắc Tề
(550-577) cũng đă khắc họa một cảnh tượng tái sanh vào Tịnh Độ
tương tự như tại Tứ Xuyên (11).
Những tranh khắc họa về cảnh giới Tịnh Độ và
Tây Phương Tam Thánh đă trở thành những đề tài chính của mỹ thuật
Trung hoa trong những thời kỳ tiếp theo sau đó.
BỒ
TÁT QUÁN ÂM,
VỊ
PHẬT TƯƠNG LAI KẾ VỊ PHẬT A DI ĐÀ
Một vài kinh
điển Hán tạng trong thời kỳ sơ khởi đều chia xẻ một chủ đề chính
là Bồ Tát Quán Âm được Phật thọ kư trở thành một vị Phật tương lai.
Hai trong số những cuốn kinh này nay đă không c̣n tồn tại nhưng
căn cứ vào tiêu đề, người ta thấy có nội dung tương tự như trong
Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Kư Kinh, do nhà sư người nước Vu Điền,
Dharmodgata, dịch vào năm 453
(12). Trong
cuốn kinh này Đức Thích Ca Mâu Ni đă tiết lộ rằng vào thời quá khứ
xa xưa Ngài là một vua sống dưới thời một vị Phật mà cơi Phật này
c̣n bao la rộng lớn hơn là của Phật A Di Đà. Trong khi nhà vua
đang thiền định ở trong vườn thượng uyển rồi nhập vào tam muội th́
hai cành sen mọc lên từ ḷng đất vươn dài đến hai bên tả hữu của
vua và hai đồng nam được sinh ra từ những đóa sen này. Một người
là Quán Âm và người kia là Thế Chí. Sau khi Đức Phật A Di Đà nhập
niết bàn và cũng là lúc chấm dứt thời kỳ Chánh Pháp, Bồ Tát Quán
Âm sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai
(13). Trong
kinh Bi Hoa (Karuna Pundarika Sutra) do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào
khoảng năm 414-426 cũng kể lại một câu chuyện tương tự. Ở đây,
Quán Thế Âm nguyên là Thái tử trong số một ngàn hoàng tử, con của
một vị chuyển luân thánh vương. Nhưng rồi Ngài đă phát hạnh nguyện
Bồ Tát với vị Phật Bảo Tạng và được thọ kư trở thành vị Phật kế
tục Phật A Di Đà mang cùng một danh hiệu tương tự như trên (Quang
Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai)
(14).
Mối liên hệ giữa Phật
A Di Đà và Bồ Tát được tŕnh bày trong những kinh điển này phảng
phất mối quan hệ thế tập trong chế độ quân chủ hay cụ thể hơn, mối
quan hệ huyết thống giữa cha và con. Chính màu sắc vương giả và
liên hệ huyết thống này đă gây ấn tượng mạnh mẽ và rất phù hợp với
cảm quan của người Trung Hoa, thế cho nên một trong những cuốn
kinh do người bản địa sáng tác sớm nhất, Quán Thế Âm Bồ Tát Văng
Sanh Tịnh Độ Bổn Nguyện Kinh, đă được xây dựng chung quanh chủ đề
này. Được đề cập đến trong cuốn Mục Lục kết tập vào khoảng năm
265-316 với dịch giả khuyết danh, cuốn kinh này đă giới thiệu h́nh
ảnh Đức Thích Ca Mâu Ni như là người cha, và A Di Đà là mẹ cùng
hai người con trai là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Tô đậm chung
quanh những t́nh tiết liên quan đến cái chết đau thương của người
mẹ hiền và sự đối xử độc ác của người kế mẫu, câu chuyện đă nói
lên một nhận thức khá độc đáo của người bản địa về mối liên hệ
giữa những nhân vật trung tâm trong các kinh điển Phật giáo.
Quán Âm và Quán Thế
Âm do đó là những danh hiệu được dùng luân phiên trong những dịch
bản kinh điển sớm nhất. Một số các nhà học giả trong đó có Đinh
Phước Bảo (1874-1952) cho rằng Quán Âm là một danh xưng rút gọn
của Quán Thế Âm chỉ được dùng dưới triều đại nhà Đường để tránh
phạm húy v́ tên
tộc của Hoàng
đế Đường Thái Tông (627-649) là Lư Thế Dân
(15). Điều này rơ ràng là không có cơ
sở bởi v́ trong thực tế danh hiệu Quán Âm đă xuất hiện trước cả
Quán Thế Âm và danh hiệu này đă trở nên nổi tiếng khi được ngài
Cưu Ma La Thập dùng trong bản dịch kinh Pháp Hoa vào năm 406.
Trong tất cả những kinh điển ban đầu này, người ta không thấy đề
cập đến h́nh tướng dung mạo cũng như ư nghĩa về danh hiệu của Bồ
Tát. Về điểm sau, chúng ta cần đi sâu vào kinh Pháp Hoa để t́m
những lư giải.
BỒ
TÁT QUÁN ÂM
Vị
Bồ Tát Chuyên Cứu Khổ Cứu Nạn
Một trong những bộ
kinh quan trọng tuyên xưng vai tṛ của Bồ Tát Quán Âm là kinh Pháp
Hoa. Bộ kinh này đă được dịch sang Hán văn cả thảy sáu lần trong
đó ba dịch bản vẫn c̣n tồn tại đến bây giờ. Năm 1992 nhà học giả
Nhật Bản Karashima Seishi đă đem đối chiếu những bản dịch Hán Văn
này với nguyên bản Phạn ngữ và những bản dịch Tạng văn. Bản dịch
đầu tiên là của ngài Đàm Ma La Sát, người xứ Nhục Chi, vào năm 286
mang tựa đề là Chánh Pháp Hoa Kinh. Phẩm thứ 23 của bộ kinh
này có tên là Phổ Môn dành riêng để nói về Bồ Tát
Avalokitesvara, dưới danh hiệu là Quang Thế Âm (Abhalokasvara).
Đây là vị Bồ Tát chuyên cứu khổ ban vui, có năng lực cứu vớt con
người ra khỏi bảy khổ nạn, giải phóng họ ra khỏi tam độc tham, sân,
si cũng như giúp những người sinh đẻ hiếm muộn được toại nguyện
khi muốn cầu xin con trai hay con gái. Sau đây là đoạn kinh văn
liên hệ đến danh hiệu Bồ Tát:
Phật bảo ngài Vô-Tận-Ư Bồ-Tát: " Nếu
có chúng sanh đối diện với vô
lượng trăm ngh́n muôn ức các khổ năo, hoạn nạn, nghe đến danh hiệu
Quang-Thế-Âm Bồ-Tát tức th́ liền được giải thoát, xa rời
mọi khổ nạn. Do nhân duyên đó
mà gọi là Quang-Thế-Âm.
Nếu có người nhớ tưởng đến danh hiệu
Quang-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu rớt vào trong biển lửa lớn, phủ trùm
hết thảy đồi núi ruộng đồng, đốt cháy hết rừng bụi, nhà cửa, ngọn
lửa kia sẽ chẳng cháy được khi y nghe đến danh hiệu Bồ-Tát
Quang Thế Âm.
Nếu có người đi vào sông lớn, đang
kinh hoàng trước gịng cuồng lưu chảy xiết, khi niệm đến danh hiệu
Quang Thế Âm này và nhất tâm t́m về nương tựa vào Bồ Tát,
năng lực siêu phàm của Ngài liền cứu giúp cho khỏi ch́m đắm và đưa
đến nơi chốn an toàn.
Nếu có trăm ngh́n muôn ức chúng sanh
v́ t́m san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu… vào trong biển lớn,
giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia sắp bị nhận ch́m bởi quỉ
La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người thầm nghĩ đến năng lực
của Bồ Tát và xưng danh hiệu của Ngài, th́ các người đó đều được
thoát nạn. (Đoạn tiếp theo mô tả năng lực của Bồ Tát cứu độ con
người ra khỏi các ác nạn: Gió bảo, khí giới, quỷ mị, tù đày, và
đạo tặc, tất cả đều do niệm đến danh hiệu của Bồ Tát).
Cảnh giới của Quang Thế Âm là vô cùng vô tận v́ ở đó có đầy
đủ năng lực siêu phàm của Bồ Tát. Bởi Ngài tràn đầy ánh sáng (quang),
do nhân duyên đó mà có tên gọi là Quang Thế Âm.
(16).
Bản dịch Pháp
Hoa đầu tiên này đă cho thấy một điều rất rơ rằng, nghe và niệm
đến danh hiệu của Bồ Tát là lư do chính để những người tin vào
Ngài sẽ được cứu độ và v́ Bồ Tát có liên hệ rất mật thiết với ánh
sáng, thế nên Ngài đă được gọi là “Quang Thế Âm”. John Holt trong
“Buddha in the Crown” đă đưa ra nhận xét rằng, một trong những nét
đặc trưng nổi bật trong các kinh điển nói về Bồ Tát Avalokitesvara
là biểu tượng ánh sáng (1991:31-34). Mối quan hệ giữa Bồ Tát và
“âm thanh” đă không được đề cập đến. Honda Yoshihide đă đưa ra một
luận cứ khả tín rằng danh hiệu Quang Thế Âm có ư nghĩa tương tự
như “Tiên Âm Sanh”. Đây là danh hiệu của một vị Bồ Tát tương ứng
với Bồ Tát Avalokitesvara trong Phóng Quang Bát Nhă kinh
(17)
do nhà sư xứ Vu Điền, Vô La Xoa (Moksala), dịch vào năm 291, năm
năm sau bộ Chánh Pháp Hoa kinh. Trong cả hai bộ kinh đều có đề cập
đến việc Bồ Tát phóng quang hoặc giải thoát thế gian thông qua
ngôn ngữ hoặc âm thanh vi diệu. Âm thanh mang năng lực giải thoát
là một phẩm chất đặc biệt của Bồ Tát không phải là loại “âm thanh”
thông thường thốt ra bởi những than thở khổ đau của nhân thế.
(18)
Bản dịch kế
tiếp c̣n được lưu hành hiện nay là của ngài Cưu Ma La Thập, nhà
dịch giả nổi tiếng người nước Khâu Tư mang tên là Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh, được hoàn tất vào năm 406. Bản kinh này cùng
với một bản dịch thứ ba có tựa đề Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh do Ngài Xà La Quật Đa (Jnanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta)
dịch vào năm 601 đă tŕnh bày một cái nh́n khác biệt so với bản
dịch cũ. Hai bản dịch sau này đă trở thành cơ sở diễn giải chính
thống về danh hiệu của Bồ Tát trong khắp vùng Tây Á. Trong cả hai
bản dịch, danh hiệu của Bồ Tát được gọi là Quán Thế Âm.
Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ 25 trong bản dịch của Cưu Ma La Thập c̣n
bản dịch của Xà La Quật Đa và Đạt Ma Cấp Đa th́ thuộc phẩm thứ 24.
Nguyên thủy cả hai bản dịch của ngài Đàm Ma La Sát và Cưu Ma La
Thập đều không có phần Kệ Tụng ở cuối kinh duy chỉ có bản dịch của
Ngài Xà La Quật Đa và Đạt Ma Cấp Đa là có phần này. Trong ba cuốn
kinh Diệu Pháp Liên Hoa th́ bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập là
phổ thông nhất tại Trung quốc, do đó sau này người ta đă thêm vào
phần Kệ Tụng. Trong bản kinh này khi Bồ Tát Vô Tận Ư hỏi Phật lư
do tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm lại mang danh hiệu như thế, Phật đă
trả lời: “Thiện-nam-tử! Nếu có
vô lượng trăm ngh́n muôn ức chúng sanh chịu các khổ năo, nghe
Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một ḷng xưng danh. Quán-Thế-Âm
Bồ-Tát tức th́ xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.”
(Watson 1993:298-99- Bản Việt dịch của HT Thích Trí Tịnh, Phẩm Phổ
Môn). Trong bản kinh này đă nêu lên một yêu cầu duy nhất cho một
người muốn được cứu vớt là chỉ cần xưng danh hiệu của Bồ Tát. Câu
văn cốt lơi được viết bằng chữ in nghiêng ở trên đă không có trong
bản dịch của ngài Đàm Ma La Sát: Bồ Tát xem xét, lắng nghe hoặc
nhận ra âm thanh thốt ra bởi những người niệm danh hiệu của Ngài.
Danh hiệu “Quán Thế Âm” như vậy đă mang một ư nghĩa khá rơ ràng.
Những nhà chú
giải Trung Hoa đă lư giải danh hiệu của Bồ Tát bằng cách nhấn mạnh
đến sự liên hệ giữa khả năng quán xét, nhận biết với những âm
thanh kêu cầu đến danh hiệu Ngài của những tín đồ. Tăng Triệu
(374-414) một môn đệ hàng đầu của ngài Cưu Ma La Thập, trong “Chú
Giải về Kinh Duy Ma Cật” đă viết: “Ngài Cưu Ma La Thập nói rằng
bất cứ ai đối diện với hiểm nguy, họ nên tŕ niệm danh hiệu và
nương tựa vào Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi Bồ Tát nghe được tiếng kêu,
người đó sẽ được giải thoát. Bồ Tát c̣n được gọi là Quán Thế Niên
hay Quán Tự Tại” (19).
Một điểm đáng lưu ư là ngài Cưu Ma La Thập đă biết đến danh hiệu
Quán Tự Tại, tuy nhiên trong bản dịch kinh Pháp Hoa đă không hề sử
dụng đến danh hiệu này. Đại sư Cát Tạng (549-629), người sáng lập
Tam Luận Tôn khi chú giải về kinh Diệu Pháp Liên Hoa đă đưa ra lời
giải thích về danh hiệu Quán Thế Âm như sau: “Quán
là trí tuệ có khả năng xem xét nhận biết và Thế Âm là cảnh giới
được nhận biết. Khi cảnh giới và trí tuệ nhập làm một, ta có danh
hiệu Quán Thế Âm” (20).
Ngài đồng thời cũng lập lại lời giảng của ngài Pháp Vân (467-529)
trước đây khi chú giải về kinh Diệu Pháp Liên Hoa đă lư giải danh
hiệu của Bồ Tát qua bốn điểm:
“Quán Thế Âm có thể được hiểu theo bốn ư nghĩa. Trước tiên là Quán
Thế Âm, có nghĩa là Ngài giải thoát khỏi khổ nạn khi quán xét
tiếng kêu cầu của thế gian. Thứ hai là Quán Thế Thân có nghĩa là
Ngài giải thoát khi quán xét thân nghiệp của chúng sanh. Thứ ba là
Quán Thế Ư có nghĩa là Ngài giải thoát khi quán xét ư nghiệp của
chúng sanh. Thứ tư là Quán Thế Nghiệp, bao gồm tất cả ba danh hiệu
trên. Nếu bạn hỏi tôi tại sao chỉ dùng có mỗi danh hiệu Quán Thế
Âm, thưa bạn, tạo khẩu nghiệp là điều quá dễ dàng nhưng thực hành
các hạnh lành bằng thân và ư là điều khó. Hơn thế nữa, trong cơi
Ta Bà này, chúng ta kính ngưỡng Đức Bổn Sư bằng âm thanh tiếng nói
của ḿnh. Đó là lư do tại sao Quán Thế Âm trở thành danh hiệu
chính thức.” (21).
Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh được coi như là một trong ba bộ kinh cốt tủy của
tông phái Tịnh Độ (cùng với Phật
Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh –c̣n gọi là Đại Kinh, Phật Thuyết A Di Đà
kinh-c̣n gọi là Tiểu Kinh). Một trong những bản dịch của bộ kinh
này từ lâu được coi như là do ngài Cương Lương Da Xá (ca.
424-453), một tăng sĩ người vùng Trung Á, dịch vào năm 430. Tuy
nhiên đây là vấn đề mà các học giả đương đại đang c̣n nêu lên nghi
vấn. Trước tiên người ta thấy tên tuổi của ngài Cương Lương Da Xá
đă không được liệt kê trong bộ danh mục Xuất Tam Tạng Kư Tập, kết
tập bởi Tăng Hữu (445-518) vào năm 515. Trong cuốn mục lục
này Tăng Hữu đă ghi tác giả của bộ kinh này là khuyết danh. Một
học giả nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này, Sueki Fumihito
(22) cho biết
là đă có rất nhiều ư kiến liên quan đến nguồn gốc của bộ kinh. Mặc
dù nhiều học giả tin rằng bộ kinh này được kết tập tại Ấn Độ
(23),
nhưng một số khác lại tin rằng nó được kết tập tại Trung Á
(24), chưa kể
là những người khác cho là tại Trung Quốc
(25).
Gần đây nhất,
đa số các học giả đă có khuynh hướng đồng ư rằng bộ kinh này là
một thành phẩm của nhiều giai đoạn. Mặc dù bộ kinh được h́nh thành
sơ khởi tại vùng Trung Á, cụ thể là Qoco (Kao Ch’ang) xứ Turfan,
nhưng sau đó đă được kết tập với những thêm thắt mới tại Trung
Quốc (26).
Bộ kinh này đă nêu ra mười sáu chủ đề liên quan về Quán.
Chủ đề thứ mười đặc biệt liên quan đến Quán Thân Tướng Đức Quán
Thế Âm (Quán Thế Âm Quán). Trong phẩm kinh này đă hướng dẫn
hành giả quán tưởng về thân tướng của Bồ Tát với rất nhiều chi
tiết tỉ mỉ khiến một số học giả cho rằng nó đă được dựa vào một
h́nh mẫu sẵn có (27).
Chi tiết miêu tả về h́nh tượng, đặc biệt nơi
thiên quang giữa đỉnh đầu có một vị hoá Phật – thông thường là
Phật A Di Đà- có thể được xem như là một kiểu mẩu cho các nghệ
nhân sau này dùng để phân biệt Bồ Tát cùng với những vị khác. Biểu
tượng ánh sáng của Bồ Tát được đề cập đến trong kinh Pháp Hoa
càng được miêu tả đậm nét hơn trong bộ kinh này:
“Trong thân quang của Bồ Tát hiện tất cả
sắc tướng của ngũ đạo chúng sanh. Bồ Tát đầu đội thiên quang bằng
chất báu Tỳ Lăng Già Ma ni. Nơi thiên quang có một vị Hoá Phật
đứng, cao hai mươi lăm do tuần”
(28). (Bản
Việt dịch, Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm).
Bộ kinh này có
mối liên hệ rất gần gũi với năm bộ kinh cùng có chủ đề quán tưởng
xuất phát từ vùng Trung Á –có thể là Turfan- được dịch sang Hán
Văn vào khoảng cuối thế kỷ thứ tư và giữ thế kỷ thứ năm
(29). Nội
dung của cả năm cuốn kinh này đều chỉ cho hành giả cách thức thiền
quán như thế nào để có thể tạo ra h́nh ảnh của Phật hay Bồ Tát
bằng nỗ lực tập trung tư tưởng là chủ yếu chứ không cần phải nhờ
đến một thần lực bên ngoài. Khi thiền giả thấy được h́nh ảnh của
Tam Thánh cũng có nghĩa là họ đă được cứu độ. Hành giả cũng được
cho biết là trước giờ lâm tử, Phật A Di Đà cùng với Bồ Tát Quán Âm
và Thế Chí sẽ hiện ra tiếp dẫn họ về cơi Tây Phương Tịnh Độ.
Quán trong trường hợp này v́ thế mang ư nghĩa quán tưởng chứ không
phải là quan sát, nhận biết hay xem xét.
Một bộ kinh
khác, Thủ Lăng Nghiêm, theo truyền thống người ta tin là do ngài
Bát Thích Mật Đế (Paramiti) dịch ra Hán văn vào năm 705. Tuy nhiên
vấn đề này nay vẫn c̣n là một nghi vấn v́ một số các nhà học giả
đương đại cho là bộ kinh này đă được kết tập tại Trung Quốc
(30). Trong
kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát đă được gọi bằng danh hiệu Quán Thế Âm
hay Quán Âm, tuy nhiên danh hiệu này đă được lư giải một cách khác
biệt. Đây là cách giải thích thứ ba về ư nghĩa của danh hiệu Quán
Âm. Trong bộ Kinh này, Bồ Tát bắt đầu bằng cách cho đại chúng biết
ngài đă đạt được thiền định tam muội là do nhờ quán chiếu về tánh
nghe, dưới sự chỉ dạy bởi bổn sư của Ngài là một vị Phật cũng mang
danh hiệu là Quán Thế Âm:
Ban
đầu, ở trong tính-nghe, vào được ḍng viên-thông, không c̣n tướng
sở-văn nữa. Trần-tướng đă vẳng-lặng, hai tướng động, tĩnh rơ thật
không sinh. Như vậy thêm lần, các tướng năng-văn, sở-văn đều hết.
Không dừng lại nơi chỗ dứt hết năng-văn, sở-văn mà tiến lên nữa,
th́ năng-giác, sở-giác, đều không. Không-giác tột bậc viên-măn,
các tướng năng-không, sở-không đều diệt. Sinh-diệt đă diệt, th́
bản-tính tịch-diệt hiện-tiền.
(31)
Cái tiếng được
nói đến trong kinh Lăng Nghiêm không phải là tiếng kêu cầu danh
hiệu Bồ Tát của những tín đồ tŕ tụng mà là bất cứ thanh âm nào,
khi ta quán tưởng sâu xa vào thực chất của chúng đều dẫn đến thực
chứng Tánh Không. Mặc dù cuốn kinh đề cập đến năng lực cứu vớt
chúng sanh ra khỏi nhiều khổ nạn cùng với mười bốn pháp thí vô úy
của Bồ Tát, nhưng nguyên do của việc làm này th́ lại khác biệt với
kinh Diệu Pháp Liên Hoa: “Ta không tự quán cái tiếng, mà quán
cái tâm năng-quán, nên khiến cho chúng-sinh khổ-năo thập phương
kia, quán cái âm-thanh, th́ liền được giải-thoát.”. (Luk
1966:139 -bản Việt dịch Tâm Minh Lê Đ́nh Thám)
(32). Bồ Tát
một lần nữa đi đến kết luận bằng cách liên hệ danh hiệu của ḿnh
với sự thiền quán về tánh nghe: “Bạch Thế-tôn, đức Phật Như-lai
kia, khen tôi khéo được pháp-môn viên-thông, ở trong Đại-hội,
thụ-kư cho tôi cái hiệu là Quán-Thế-Âm; do tôi thấy-nghe thấu-suốt
mười phương, nên danh-tiếng Quán-Âm cùng khắp thập phương thế-giới".”
(33)
(bản Việt dịch Tâm Minh Lê Đ́nh Thám).
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Quán như thế không có nghĩa là
xem xét hay lắng nghe tiếng kêu cầu giúp đỡ của những người tín
ngương vào Ngài, cũng không phải là quán tưởng về thân tướng của
Bồ Tát mà là đi sâu vào bản tánh của thanh âm để thực chứng rằng
chúng hoàn toàn trống rỗng.
Bây giờ chúng ta tiếp
tục khảo sát về sự xuất hiện danh hiệu của Bồ Tát theo thứ tự niên
đại. Ngài Bồ Đề Lưu Chi trong bản dịch Pháp Hoa Kinh Luận
năm 508 đă tổng hợp hai danh hiệu của Bồ Tát và gọi là Quán Thế Tự
Tại. Danh hiệu Quán Tự Tại được chính thức dùng lần đầu
tiên trong bản dịch Đại Bát Nhă Ba La Mật Đa Kinh, năm 663,
của Ngài Huyền Trang, cũng như trong bản dịch Hoa Nghiêm
80 phẩm của ngài Thực Xoa Nan Đà, năm 695-699 (khác với bản dịch
60 phẩm của ngài Giác Hiền vào năm 420 trong đó Bồ Tát được gọi là
Quán Thế Âm). Khuy Cơ (632-682), đại đệ tử của ngài Huyền Trang
trong bộ luận Bát Nhă Tâm Kinh U Tán đă giải thích ư nghĩa
của danh hiệu Quán Tự Tại và đứng trên quan điểm của thầy ḿnh,
phê phán những người sử dụng danh hiệu Quán Thế Âm là sai lầm:
Bồ Tát đắc quả vị hiện tại v́ đă thực hành lục độ ba la mật trong
quá khứ. Bởi Bồ Tát quán xét thâm sâu vạn pháp bằng trí tuệ bát
nhă thế nên Ngài đă đạt đến mười cảnh giới tự tại. Thứ nhất Ngài
đă làm chủ được sinh tử v́ có thể kéo dài hay rút ngắn thọ mạng
tùy ư. Thứ hai Ngài đă làm chủ được tâm v́ không c̣n vướng bận
trong ṿng sinh tử. Thứ ba Ngài làm chủ được giàu sang v́ có thể
biến hiện ra của cải theo ư muốn đó là kết quả của việc thực
hành hạnh bố thí ba la mật trong quá khứ. Thứ tư Ngài làm chủ được
nghiệp quả v́ Bồ tát luôn luôn làm các hạnh lành và khuyến khích
mọi người cũng làm theo như thế. Thứ năm Ngài làm chủ được đời
sống hiện tại đi đến bất cứ nơi đâu thong dong tự tại, do kết quả
cuả việc thực hành hạnh tŕ giới ba la mật. Thứ sáu Ngài làm chủ
được kiến thức siêu việt để có thể ứng hiện tùy duyên do kết quả
của việc thực hành hạnh nhẫn nhục ba la mật. Thứ bảy, Ngài là chủ
của các hạnh nguyện từ đó có thể mang hạnh phúc đến bất cứ nơi đâu
mà Ngài quán chiếu do kết quả của thực hành tinh tấn ba la mật.
Thứ tám, Ngài là chủ tể của quyền lực siêu nhiên với năng lực siêu
phàm không thể nghĩ bàn kết quả của thiền định ba la mật. Thứ chín
Ngài là chủ của nguồn tuệ giác do nương vào tiếng nói, âm thanh mà
đạt đến trí tuệ viên măn. Thứ mười, Ngài là một vị Pháp chủ
v́ những hiểu biết của Ngài luôn luôn đúng theo kinh điển và đây
là kết quả của việc thực hành trí tuệ ba la mật. Ngài tuy là vị Bồ
Tát nhất sanh bổ xứ nhưng đă trải qua quá tŕnh thực chứng rốt ráo
như một vị Phật. Không có bất cứ nơi chốn tối tăm nào mà hào quang
của Ngài không thể chiếu rọi tới. Do đó mà Ngài có danh hiệu là
Quán Tự Tại. Nếu ai gọi Ngài là Quán Âm đều sai lạc cả chữ lẫn
nghĩa. (34)
Nhưng dù thế
nào đi nữa, mặc cho những phê phán của cả ngài Huyền Trang lẫn
Khuy Cơ, người ta vẫn thích gọi Bồ Tát là Quán Thế Âm hay Quán Âm.
Đồng thời cũng không có một chứng cớ nào xác minh rằng sự phiên
dịch danh hiệu này của những dịch bản trước đây là lầm lẫn. Thế
th́ tại sao các dịch giả kinh điển đă cho vị Bồ Tát này mang hai
danh hiệu khác nhau? Thực ra sở dĩ có những danh hiệu khác biệt
bằng tiếng Trung Hoa là do tên của Bồ Tát đă được dịch ra từ hai
từ ngữ phát âm khác nhau. Quán Thế Âm được dịch từ chữ Avalokitasvara
trong khi Quán Tự Tại là phiên âm của chữ Avalokitesvara.
Pháp Vân, người kết tập một cuốn từ điển thuật ngữ Phật giáo,
Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập, đă giải thích rằng hai danh hiệu này là
kết quả của hai bản kinh có nguồn gốc khác nhau được mang vào
Trung quốc (35).
Trong một bài tham luận liên quan đến vấn đề này xuất bản vào năm
1927, học giả Mironov đă xác nhận những nhận định của ngài Pháp
Vân đưa ra từ thế kỷ thứ năm là đúng đắn. Sau khi khảo sát những
mảnh thủ bản Phạn ngữ của kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Otani khám
phá tại Đông bộ Turkestan hoặc Tân Cương, ông viết: “Một trong ba
bộ của các mảnh thủ bản do căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của thời
cổ có thể được xác định niên đại vào khoảng cuối thế kỷ thứ năm,
ông đă t́m thấy ba mảnh của phẩm thứ hai mươi bốn tuyên xưng Bồ
Tát Avalokitesvara. Bởi v́ chỉ trên một mảnh lá nhỏ mà danh hiệu
của Bồ Tát được viết là Avalokitasvara
đến 5 lần, ta khó có thể tin rằng đây là chuyện nhầm lẫn trong khi
ghi chép. Như vậy, có vẻ như người ta đă t́m ra cái khâu chính
trong vấn đề không ăn khớp giữa hai truyền thống Ấn Độ và Trung
Hoa. Không c̣n hoài nghi ǵ nữa, Avalokitasvara
là danh hiệu nguyên thủy của Bồ Tát và rồi sau này đă được thay
thế bằng Avalokitesvara.”
(36)
Căn cứ trên khám phá này, học giả Hậu Đằng Đại Dụng đă nêu giả
thuyết rằng danh hiệu Avalokitasvara đă được dùng trong các kinh
điển mang vào Trung quốc có xuất xứ từ Kucha như các bộ kinh mà
ngài Cưu Ma La Thập và các nhà truyền giáo vùng Trung Á đă dịch ra
Hán văn, trong khi đó danh hiệu Avalokitesvara được t́m thấy trong
nguồn kinh điển gốc gác từ Ấn Độ do ngài Huyền Trang mang về trong
chuyến Tây du thỉnh kinh nổi tiếng của Ngài.
(37)
Những nhà dịch giả
kinh điển Hán văn như thế đă tiếp cận danh hiệu Bồ Tát đến từ hai
nguồn khác nhau. Và rồi một điều khá lư thú là cho dù bị chống đối
mạnh mẽ bởi ngài Huyền Trang, danh hiệu Quán Âm hay Quán Thế Âm đă
trở thành phổ cập cả trong vùng Tây Á. Những nhà chú giải, như
được đề cập trước đây cũng đă đưa ra những lời giải thích hoàn
toàn tán đồng về ư nghĩa “âm thanh” như là một phần nội dung chính
trong danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm.
[2.1]
[2.2] [2.3]
[2.4] [2.5]
[HOME]
|