-
Phần IV:
-
DIỆT ĐẾ
(Nirodha Dukkha)
-
-
A.MỞ ĐỀ
Sau khi giải bày đầy đủ hiện
tượng nhân quả về phần nhiễm, về phương diện đau khổ xong, đức Phật
liền thuyết minh các hiện tượng nhân quả về phần tịnh, về phương diện
An lạc. Nói một cách khác sau khi dạy xong Khổ đế và Tập đế, đức Phật
liền dạy Diệt đế và Ðạo đế. Có người chỉ thấy hai phần đầu của
Tứ đế là Khổ và Tập, nên đã tưởng Phật là đạo yếm thế, bi quan.
Họ cho rằng Phật giáo gieo vào lòng người sự chán đời là kẻ thấy cuộc
đời xấu xa, đau khổ, mà không tìm ra phương pháp để giải thoát ra
khỏi cảnh ấy, mà chỉ buông xuôi tay ngồi nhìn và khóc than, sầu khổ. Đạo
Phật không làm như thế. Đạo Phật trình bày cho mọi người nhìn thấy
cái hiện tại đen tối của mình, cái hoàn cảnh xấu xa, có nhiều sự sự
khuyết điểm, để cải đổi nó, kiến tạo lại một cuộc sống đẹp đẽ,
an vui hơn. Một giáo lý như thế, không thể gọi là yếm thế, bi quan được
mà chính là yêu đời, lạc quan, vì còn tin tưởng ở khả năng kiến tạo
của mình và chúng sinh. Cảnh giới mà Đức Phật trình bày cho chúng ta thấy
ở đầy là một cảnh giới hoàn toàn trái ngược với cảnh giới tối
tăm, sầu khổ, đớn đau mà chúng ta đang sống. Cảnh giới ấy là cảnh
giới huy hoàng, an lạc, mà chỉ những người diệt tục, hết mê mới đạt
được.
Cảnh giới ấy, chúng ta sẽ nghe đức
Phật trình bày trong phần Diệt đế sau đây:
- B. CHÁNH ĐỀ
-
I. ĐỊNH NGHĨA: SAO GỌI LÀ DIỆT ĐẾ?
Diệt là tiêu diệt, trừ diệt.
Diệt ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ, phiền não. Đế là lý lẽ
chân thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu và thuyết minh. Diệt
đế, chữ Pali gọi là "Nirodha Dukkha" tức là sự thật đúng
đắn, mà đức Phật đã thuyết minh về hoàn cảnh tốt đẹp mà mọi người
có thể đạt được khi đã diệt hết mọi phiền não, mê mờ. Phiền
não, mê mờ là nguyên nhân của đau khổ, như chúng ta đã nghe Phật thuyết
trong Tập đế.
Khổ là quả, mà
Tập là nhân. Diệt
khổ mà chỉ diệt cái quả thì không bao giờ hết khổ được. Muốn diệt
khổ tận gốc, thì phải diệt cái nhân của nó, như muốn nhổ cái thân
cây, thì phải bứng cho hết cái rễ ăn sâu trong lòng đất.
Trong kinh nhân qủa, Phật dạy rằng:
"Các ông phải biết, vì Tập nhân phiền não mới có quả khổ sanh tử,
vậy các ông phải dứt trừ phiền nào tập nhân. Khi đã dứt trừ rồi, lại
thường thường nắm chắc chỗ dứt trừ cho chắn chắc, không khi nào nới
bỏ. Đến khi chứng được đạo Niết Bàn, thì tất nhiên tập nhân
phiền não phải diệt hết, mà khổ luân hồi cũng không còn".
Thế cho biết, muốn giải thóa tất
phải tu hành. Mà tu hành là gì?
Là diệt trừ tập nhân phiền não
vậy. Diệt trừ phần nào tập nhân là đã bước đến hết gần giải thoát
chừng ấy, như một cái phao; càng bớt dần chừng nào vật nặng dìm nó
xuống, thì nó lại nổi dần lên mặt nước chừng ấy vậy.
II. THỨ LỚP ĐOẠN
HOẶC (mê lầm)
Như chúng ta đã biết trong bài Tập đế, tập nhân phiền não rất phức tạp, có
thứ mong manh, cạn cợt, có thứ in sâu vào tâm thức từ lâu đời lâu kiếp rất
khó dứt trừ. Do tính chất cạn sâu của các thứ phiền não ấy, nên đoạn trừ
cũng phải tuần tự, theo thứ lớp.
Có hai lớp đoạn hoặc chính là:
1. Kiến đạo sở đoạn hoặc: Những
mê lầm nầy, khi thấy chánh đạo mới đoạn được. Đây là sự dứt trừ
những sai lầm về phần lý trí. Những phiền não nầy thuộc loại cạn cợt
gây ra bởi sự gần gũi tà sư, sự tuyên truyền tà vạy của sách vở,
cùng những người tri kiến không chân chánh. Nếu gặp được Minh sư, thấy
đưưọc chân lý, thì liền đoạn hết. Vì thế sự dứt trừ những phiền
não nầy, gọi là "Kiến đạo sở đoạn hoặc".
2. Tu đạo sở đoạn hoặc: Những
mê lầm nầy, khi tu đạo mới đoạn được. Đây là sự đoạn trừ những
phiền não, sâu kín, đã đâm sâu gốc rễ trong tâm thức, biến thành thói
quen, như sự chấp ngã, sự say đắm nhục dục, tham, giận, kiêu căng
v.v...Đối với những thứ phiền não nầy, phải cần nhiều công phu tu
hành dẻo dai, chắc chắn mới có thể đoạn trừ được. Do đó, mới gọi
là "Tu đạo sở đoạn hoặc".
III. CÁC TẦNG BẬC TU
CHỨNG
Đoạn trên đã nói tổng quát về
hai loại đoạn diệt phiền não cho dễ phân biệt và dễ hiểu. Đến đây,
để có một ý niệm rõ ràng về các tầng bậc tu chứng mà một hành giả
cần phải trải qua, chúng ta hãy tuần tự điểm qua các quả vị từ thấp
đến cao.
1. Tứ gia hạnh: Muốn đoạn
trừ kiến hoặc, trước tiên người tu hành phải rời xa các tà thuyết,
xoay tâm ý, tư tưởng dần vào chân lý: vô thường, vô ngã, bất tịnh, tứ
đế, để nhận chân được các tánh cách vô thường, vô ngã, bất tịnh,
không thật v.v...của cuộc đời. Nhờ sự gần gũi với chân lý như thế,
nên những điều thấy biết sai lầm điên đảo sẽ tan hết và 88 món kiến
hoặc cũng không còn. Tuy nhiên, không phải chỉ trong một lúc mà đoan được
tất cả kiến hoặc; trái lại, phải cần nhiều thời giờ, công phu tu tập.
Từ những tư tưởng, thành kiến mê lầm của phàm phu mà đến Thánh trí
để dự vào dòng Thánh quả, người tu hành phải tu bốn gia hạnh sau đây:
a) Noản vị:
Noản là hơi nóng;
vị là địa vị. Người xưa, khi muốn lấy lữa, họ dùng hai thanh củi
tre cọ sát vào nhau; trước khi lửa sắp bật lên, phải qua giai đoạn phát
ra hơi nóng. Người tu hành muốn có lửa trí tuệ, cũng phải trải qua giai
đoạn hơi nóng. Tất nhiên hơi nóng lửa trí tuệ chưa đốt cháy được củi
phiền não, nhưng không thể không qua giai đoạn nầy được. Đó là giai
đoạn "Noản vị".
b) Đảnh vị: Đảnh là chóp
cao. Qua khỏi giai đoạn Noản vị, người tu hành tiếp tục tiến bước và
lên được trên chóp đỉnh núi mê lầm. Đứng ở địa vị nầy, toàn
thân hành giả được tắm trong khoảng không gian rộng rãi vô biên, nhưng
chân chưa rời khỏi chóp núi mê lầm.
c) Nhẫn vị: Nhẫn là nhẫn
nhịn, chịu đựng. Người biết nhịn, luôn luôn vẫn yên lặng sáng suốt
trước sự khuấy phá của đối phương. Người tu hành lên đến bậc này,
trí giác ngộ đã gần sáng tỏ, thân tâm vẫn giữ được mực yên lặng
trong sáng, mặc dù các pháp có lăng xăng và ẩn hiện.
d) Thế hệ nhất vị: Bậc nầy
cao quí nhất trong đời. Tu đến bậc này là một công phu rất to tát, gần
giải thoát ra ngoài vòng Dục giới, như con diều giấy bay liệng giữa không
trung, tự do qua lại, không còn bị cái gì làm ngăn ngại, ngoài sợi giây
gai nhỏ. Nếu bứt sợi gai kia là diều bay luôn. Cũng như thế, người tu hành
phá hết phần kiến hoặc nhỏ nhít sau cùng là được giải thoát luôn.
Tóm lại, người tu hành thường
xuyên qua bốn món gia hạnh nầy, tức là phá được cái lầm về tri kiến
hay kiến hoặc, cái lầm của Phi phi tưởng mà chứng đặng quả Tu đà
hoàn là quả vị đầu tiên trong Thanh văn thừa.
2. Tu đà hoàn: Tàu dịch là Dự
lưu quả (dự vào dòng Thánh). Ở quả vị này, ý thức đã sáng suốt,
không còn bị mê lầm nữa, song thất thức còn chấp ngã, nên phải trở lại
trong cõi Dục, nhiều nhất là bảy phen sanh tử nữa, mới gột sạch các
kiết sử phiền não thầm kín, nằm nép trong tâm thức, và chứng quả A La
Hán.
3. Tư đà hàm: Tàu dịch là
Nhất lai, nghĩa là một phen sanh lại cõi Dục để tu hành và dứt cho sạch
phần mê lầm ở cõi Dục, mới tiến đến bực A La Hán. Trên kia, quả tu
đà hoàn chỉ là kết quả của công phu tu hành đoạn được kiến hoặc,
chứ chưa đá động đến tư hoặc. Sau khi chứng quả Thánh đầu tiên rồi,
phải tu nữa để đoạn trừ tư hoặc, mới chứng được bậc nầy. Tuy
nhiên, ở cõi Dục có chín phẩm tư hoặc, mà vị này chỉ mới đoạn có
6 phẩm, còn 3 phẩm nữa chưa đoạn. Nghĩa là mới đoạn sáu phẩm thô thiển
bên ngoài, còn ba phẩm sâu kín bên trong chưa đoạn. Vì thế, phải trở lại
một phen để đoạn cho hết ba phần sau, mới bước lên Thánh quả thứ ba
là A na hàm được.
4. A na hàm: Tàu dịch là Bất
lai (nghĩa là không trở lại cõi Dục nữa). Khi còn mê lầm của cõi Dục
lôi kéo, mới sanh vào cõi Dục. Đến địa vị A na hàm nầy những mê lầm
ấy không còn nữa, nên không bị tái sanh ở đấy nữa, trừ trường hợp
phát nguyện trở lại cõi nầy để độ sanh. Vị nầy ở cõi Trời Ngũ tịnh
cư thuộc Sắc giới, cũng gọi là Ngũ bất hoàn thiên hay Ngũ na hàm. Vị nầy
đã cách xa chúng ta như trời vực, đã thoát ra ngoài cõi Dục. Tuy thế, họ
vẫn còn mang trong mình những mê lầm vi tế câu sanh của hai cõi Sắc và Vô
sắc. Vì vậy, ở Ngũ tịnh cư thiên, họ phải tu luyện để dứt cho hết
vi tế hoặc, mới bước lên Thánh quả A La Hán (Tư hoặc gồm có 9 phẩm.
Từ đà hàm quả đoạn sáu hoặc, A na hàm quả đoạn thêm ba hoặc; đến
A La Hán quả là đoạn hết).
5. A La Hán: Đây là quả vị
cao nhất, trong Thanh Văn Thừa. Tàu dịch có ba nghĩa:
a) Ứng cúng: Vị nầy có phước đức hoàn toàn, trí huệ hơn
cả, đáng làm nơi phước điền cho chúng sinh cúng dường.
b) Phá ác. Vị nầy đã phá
tan những nhiền não tội ác, không còn bị chúng khuấy phá sai sử trói buộc
nữa.
c) Vô sanh. Vị nầy không còn
bị xoay vần trong sanh tử luân hồi nữa, vì đã phá trừ được phiền não
là yếu tố của sanh tử luân hồi.
Trong ba nghĩa nầy, Vô sanh là nghĩa
quan trọng hơn hết, nên đã được nêu lên trong chữ A La Hán. Vị nầy
không những đã phá hết mê hoặc nông cạn, mà chính ngay chủng tử mê lầm
thầm kín cũng đã dứt sạch. Cho đến chủng tử chấp ngã là nguồn gốc
phiền não, nguồn gốc luân hồi, cũng bị dẹp lại một bên, không còn
bóng dáng ra vào trong A lại da thức nữa.
Tánh cách của lòng ngã chấp là
khiến chúng sanh luôn luôn cố chấp bản thân nhỏ hẹp, tạo thành ranh giới
giữa mình và người, mình và sự vật, để rồi gây nên vô lượng tội
nghiệp và chịu vô lượng khổ báo. Một tách cách nguy hại của lòng ngã
chấp nữa là thường làm cho chúng sanh không tỏ ngộ, không thể chấp
được cái tánh "đồng nhất, không mất" của vạn sự vạn vật.
Do đó, chúng sanh phải chịu lắm nỗi thăng trầm với xác thân bé nhỏ của
mình.
Vị A La Hán, do sự cố công bền
chí, đã diệt được lòng chấp ngã ấy, nên không bị sống chết khổ
đau, lo buồn sợ hãi chi phối. Như đồ đệ của ả Phù dung, một khi đã
bỏ được bệnh nghiền thì không còn ra vào nơi tiệm hút làm bạn với
bàn đèn ống khói nữa. A La Hán là vị đã đoạn được cái sai lầm của
cõi trờ Phi phi tưởng, nên không còn vương vấn với các cõi trời ấy nữa.
Song quả A La Hán cũng chia làm hai bực,
tùy theo căn cơ lanh lợi hoặc chậm lụt của các vị ấy.
a) Bất hồi tâm độn A La Hán: là
vị A La Hán trầm không trệ tịch, tự thỏa chí vào địa vị đã chứng,
chứ không phát tâm xoay về Đại Thừa.
b) Hồi tâm đại A La Hán: là
vị A La Hán lợi cứn lợi trí, phát tâm xoay về Đại Thừa rộng lớn chứ
không tự mãn ở địa vị đã chứng.
IV. GIÁ TRỊ DIỆU DỤNG
CỦA 4 CÕI THÁNH
Bốn quả thánh của Thanh văn trên
đây, đều là những kết quả giải thoát hiển nhiên của công phu tu tập.
Không cứ căn cơ nào đều có thể ở ngay trong cảnh giới của mình (kinh gọi
là tự địa, tự giới), mà tu tập để đạt đến bốn quả vị ấy. Hễ
đoạn trừ mê lầm được chứng nào thì chứng quả đến chứng ấy, chứ
không phải chờ sanh qua thế gian khác mới chứng quả kia đâu.
Khi chứng đến quả Tu đà hoàn
thì gọi "kiến đạo sở đoạn". Ở đây, ý thức đã tương ứng
với Huệ tâm sở, sáng suốt, trực nhận đạo lý một cách rõ ràng. Còn
các vị sau, thuộc về "Tu đạo sở đoạn", nghĩa là sau khi đã gội
rửa các chủng tử mê lầm (tư hoăc) của A lại da thức mới chứng được.
Do sự dứt trừ phiền não sâu hay cạn đó, mà diệu dụng của mỗi quả
vị khác nhau.
Ở địa vị "Kiến đạo sở
đoạn" là thành tựu được năm phép thần thông (công dụng tự tại
không bị chướng ngại).
a) Thiên nhãn thông: Nhãn lực
soi thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế gian bao la hiện tại.
b) Thiên nhĩ thông: Nhĩ lực
nghe khắp mọi nơi, đủ các tiếng tăm đồng loại và dị loại.
c) Tha tâm thông: Tâm lực biết
được tâm niệm, sở cầu của kẻ khác.
d) túc mạng thông: Trí lực
hay biết các kiếp trước của mình.
đ) Thần túc thông: Có hai nghĩ:
một là được thần thông tự tại như ý muốn, hai là trong giây lát muốn
đi đâu liền được như ý muốn, không bị sự vật hữu hình làm chướng
ngại.
Năm phép thần thông nầy, tuy có đặc
biệt hơn nhân loại nhiều, song chưa phải là điểm quan trọng của người
tu hành cầu giải thoát. Điểm quan trọng nhất của người tu giải thoát
là "Lậu tận thông". Lậu tận thông là được trí tuệ thông suốt
cả ba đời, không còn bị các phiền não hữu lậu làm ngăn ngại, nghĩa là
giải thoát sanh tử. Chỉ những vị A La Hán mới được qủa nầy.
V. DIỆT ĐẾ TỨC LÀ
NIẾT BÀN
Kinh Niết Bàn dạy: "Các phiền
não diệt gọi là Niết Bàn, xa lìa các pháp hữu vi cũng gọi là Niết
Bàn".
Như các đoạn trước của bài nầy
đã nói, đến bốn quả Thánh thì phiền não nông cạn và sâu kín đã tuần
tự bị tiêu diệt. Vậy chứng được bốn quả Thánh ấy, tức là đã chứng
được Niết Bàn. Nói một cách khác, Diệt đế tức là Niết Bàn.
Niết Bàn hay Niết Bàn na hay Nê
hoàn là do dịch âm chữ Phạn Nirvana mà ra. Niết Bàn có nhiều nghĩa như
sau:
Niết (Nir) là ra khỏi; Bàn (vana) là rừng mê, Niết Bàn là khỏi rừng mê.
Niết là chẳng; Bàn là dệt. Còn
phiền não thì còn dệt ra sanh tử, không phiền não thì không còn dệt ra
sanh tử. Vậy Niết Bàn là không dệt ra sanh tử luân hồi.
Chữ Bàn cũng có nghĩa là không ngăn
ngại. Niết Bàn còn có nhiều nghĩa khác nữa, song tóm lại không ngoài ba
nghĩa: Bất sanh, giải thoát, tịch diệt.
Bất sanh, nghĩa là không sanh ra,
không sanh các thứ mê lầm tội lỗi.
Giải thoát, nghĩa là thoát ra ngoài sự ràng buộc, không mắc vào các huyễn
ngã, huyễn pháp.
Tịch diệt, nghĩa là vắng lặng, dứt
sạch. Vắng lặng, an lành, dứt sạch tất cả nguồn gốc mê lầm.
Vì lẽ Niết Bàn có nhiều nghĩa
như thế, nên trong kinh thường để nguyên âm mà không dịch nghĩa.
Theo định nghĩa của chữ Niết Bàn
nầy, thì bốn quả vị trên kia đều gọi Niết Bàn cả. Song vì đã hoàn
toàn hay chưa hoàn toàn mà chia ra làm hai thứ:
1. Hữu dư y Niết Bàn: (Niết
Bàn chưa hoàn toàn). Từ quả vị thứ nhất Tu đà hoàn đến quả vị thứ
ba A na hàm, tuy đã đoạn trừ tập nhân phiền não, nhưng chưa tuyệt diệu,
tuy đã vắng lặng an vui, nhưng chưa viên mãn, tuy an vui nhưng chưa hoàn toàn, vì
phiền não và báo thân phiền não còn sót lại, nên gọi là hữu dư y. Vì
phiền não còn sót lại nên phải chịu quả báo sanh tử trong năm bảy đời;
song ngã chấp đã phục, nên ở trong sanh tử mà vẫn được tự tại, chứ
không bị ràng buộc như chúng sinh.
2. Vô dư y Niết Bàn: (Niết
Bàn hoàn toàn). Đến quả vị A La Hán, đã đoạn hết phiền não, diệt hết
câu sanh ngã chấp, nên hoàn toàn giải thoát cả khổ nhân lẫn khổ quả. Sự
sanh tử không còn buộc ràng vị nầy được nữa, nên gọi là Niết Bàn
vô dư y. Đây là quả vị cao tột của hàng Thanh văn. Đến đây ngọn lửa
dục vọng đã hoàn toàn tắt hết, và trí vô ngại hiện ra một cách đầy
đủ, không khi nào còn trở lại tâm khởi chấp ngã nữa. Vì thế, nên
được tự tại giải thoát ngoài vòng ba cõi: Dục, Sắc, và Vô sắc giới.
VI. NIẾT BÀN CỦA ĐẠI
THỪA GIÁO
Phật Giáo gồm có Tiểu Thừa và
Đại Thừa mà Niết Bàn là danh từ chung cho cả hai thừa ấy. Trên đây đã
nói đến Diệt đế, hay Niết Bàn của Tiểu Thừa, nhưng chưa nói đến Niết
Bàn của Đại Thừa. Vậy nói đến Niết Bàn, thì cũng nên mở rộng phạm
vi, nói luôn cả Niết Bàn của Đại Thừa để độc giả có một quan niệm
đầy đủ về hai chữ Niết Bàn.
Nói như thế, không có nghĩa là Niết
Bàn của Tiểu Thừa và Đại Thừa là hai loại hoàn toàn khác nhau về
tính chất. Nếu có khác, thì chỉ khác về phạm vi rộng hẹp, rốt ráo
hay chưa rốt ráo mà thôi; nghĩa là Niết Bàn của Đại Thừa rộng rãi hơn
có thể gồm cả Niết Bàn của Tiểu Thừa, mà Niết Bàn của Tiểu Thừa
không thể gồm cả Niết Bàn của Đại Thừa. Các thánh giả Nhị thừa (Tiểu
Thừa) tuy đã đoạn hết phiền não, nhưng tập khí vẫn còn, công đức trí
tuệ chưa viên mãn nên Niết Bàn mà họ chứng, dù là Niết Bàn của hàng
A La Hán đi nữa, đối với Đại Thừa cũng chưa hoàn toàn, nghĩa là Hữu dư y Niết Bàn. Chỉ có Niết Bàn của chư Phật mới được gọi
là Vô dư y Niết Bàn.
Ngoài cái nghĩa rộng hẹp trên, Niết
Bàn của Đại Thừa đại khái có hai loại:
1. Vô trụ xứ Niết Bàn: Đây
là Niết Bàn của các vị Bồ Tát. Các A La Hán, do tu nhân giải thoát mà
chứng được quả giải thoát; nhưng chưa biết nguồn gốc của nhân quả,
còn chấp có thực pháp phải tu, quả vị phải chứng, nên chưa được hoàn
toàn tự tại. Các vị Bồ Tát thì trái lại, đã hiểu rõ "Tam giới
duy tâm, vạn pháp duy thức", pháp tánh bình đẳng như như; không thấy
một pháp gì cố định, một vật gì chân thật, biệt lập chỉ thấy chúng
là những hình ảnh giả dối, do đối đãi với thức tâm, tạo thành bởi
thức tâm. Các vị Bồ Tát không có tâm địa đảo điển sai lầm, không
gán cho sự vật một giá trị nhứt định, như tốt, xấu, khổ, vui, nên
không sanh ra những thái độ oán, thân, bỉ, thử, ưa, ghét. Hễ có tri kiến
sai lầm đó, là bị chướng ngại khổ đau. Các vị ấy tu hành chứng theo
sự tánh bình đẳng, đem tâm hòa đồng cùng sự vật mà làm việc lợi
tha. Tuy làm việc lợi tha, mà vẫn ở trong chánh quán. Quán các phép như
huyễn như hóa, không có thật sanh tử, không có thật Niết Bàn, không bao
giờ trụ trước (vô trụ). Do đó, Bồ Tát thường ra vào sanh tử lấy
pháp lục độ để độ sanh, mà vẫn ở trong Niết Bàn tự tại.
2. Tánh tịnh Niết Bàn: Đây
là một thứ Niết Bàn tự tánh thường vắng lặng mà thườg sáng suốt,
thường sáng suốt mà thường vắng lặng ra ngoài tâm lượng hẹp hòi của
phàm phu và trí thức hữu hạn của Nhị thừa, ngoại đạo. Nó thường bộc
lộ sáng suốt nơi chư Phật, mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng
sinh. Trong kinh có khi gọi đó là Phật tánh, là chơn tâm, là Như lai tạng
v.v...
Nếu chúng sinh tự tin mình có tánh
Niết Bàn thanh tịnh, và khởi tâm tu hành theo tự tánh ấy, tức có thể
thành Phật không sai.
Mạng tự tánh Niết Bàn mà để
cho phiền não cấu trần che lấp, thì làm chúng sanh trầm luân trong bể khổ.
Trái lại, ngộ tự tánh Niết Bàn
mà hết vọng tưởng mê lầm là thành Phật, và có đầy đủ bốn đức:
thường, lạc, ngã, tịnh. "Thường" nghĩa là không bị chi phối
bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm
không có già trẻ, chết sống, đổi thay. "Lạc" nghĩa là
không còn khổ não, lo buồn. "Ngã" là được hoàn toàn tự
chủ, không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi phối. "Tịnh" là
không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh, trong sáng. Chúng ta đừng lầm tưởng
tánh "Chơn thường" nầy với điều thường hằng của thế gian; tánh
"Chơn lạc" với sự vui thích tương đối là sự vui thích còn che
đậy mầm mống đau khổ bên trong; tánh "Chơn ngã" với sự tự chủ
trong nhất thời, tự chủ ngày nay bị động ngày mai; tánh "Chơn tịnh"
với sự trong sạch tương đối ở thế gian, sự trong sạch vật chất, sự
tướng bên ngoài, chứ bên trong vẫn còn nhiễm ô.
Vì tính cách quí trọng, cao cả tuyệt
đối của bốn đức; Thường, Lạc, Ngã, Tịnh nên Tánh tịnh Niết Bàn
là thứ Niết Bàn cao quí tột đỉnh của đạo Phật, và người Phật tử
Đại Thừa trong khi tu hành, đều phát nguyện rộng lớn quyết tâm chứng
được thứ Niết Bàn ấy mới thôi.
VII. BIỆN MINH VỀ NIẾT
BÀN
Tánh cách của Niết Bàn quá rộng
rãi, cảnh giới của Niết Bàn quá cao thâm, nên hay gây ra nhiều sự hiểu
lầm cho các căn cơ thiển bạc, mà tập quán, thành kiến, hoàn cảnh hằng
ngày làm chủ trí thức. Người đời hay lấy tâm lượng hẹp hòi của
mình để hình dung Niết Bàn, và đã hình dung một cách sai lạc, nên cuối
cùng họ kết luận rằng: cứu cánh của đạo Phật là một sự không tưởng.
Câu chuyện ngụ ngôn sau đây chứng minh một cách hùng hồn tâm trạng ấy:
Ngày xưa có một con cá, vì nó là
loài ở nước, nên dĩ nhiên cuộc đời chỉ sống trong nước, và ngoài nước
ra không biết gì hết.
Một hôm nó đang nhởn nhơ bơi lội
trong hồ, tình cờ gặp một con rùa, mà nó đã quen từ trước, đi du lịch
trên đất liền về. Nó liền chào:
- Chào anh ! Đã từ lâu tôi không gặp
anh. Vậy xưa rày anh ở đâu?
- Ồ ! Tôi đi du lịch từ trên đất
liền về. Trên ấy, mặt đất khô ráo quá !
- Đất khô ! Anh nói cái gì lạ vậy?
Tôi chưa bao giờ thấy nơi nào kỳ lạ như vậy. Lẽ nào lại có đất khô?
- Xin thề rằng tôi không nói đùa với
anh đâu. Nhưng nếu quả tình anh không thể tin được thì tùy anh, không ai
ngăn cản được anh; nhưng dù sao, tôi cũng mới từ đó về.
- Này anh, anh hãy cố gắng diễn đạt
cho hợp lý hơ. Tôi nghi rằng cách diễn đạt của anh chưa được rõ ràng
lắm. Anh vui lòng cho tôi biết đất mà anh nói đó có giống như cái gì
trong thế gian của chúng ta ở đây? Nó có ẩm ướt không?
- Không ! Nó không ẩm ướt.
- Thế nó có mát dịu và lạnh
không?
- Nó không mát, không dịu mà cũng chẳng
lạnh.
- Thế nó có trong suốt để cho ánh
sáng xuyên qua được không?
- Không, nó không trong suốt và ánh
sáng không thể xuyên qua được.
- Thế nó có mềm và dễ bị ép để
cho tôi có thể quậy vi và đi lại dễ dàng trong ấy không?
- Không, nó không mềm, không bị dồn
ép dễ dàng và trong ấy, anh cũng không thể bơi lội được.
- Thế nó có lưu động và đổ thành
thác được không?
- Không, nó không lưu động và cũng
không đổ thành thác được.
- Vậy thì nó có dâng lên để tạo
thành những mũi sóng bạc đầu được không?
- Không, tôi chưa bao giờ thấy nó
dâng thành làn sóng cả.
Đến đây, con cá vênh váo tự đắc
than rằng:
- Tôi đã từng nói với anh rằng: đất
mà anh nói đó là không phải cái gì cả. Tôi cũng vừa hỏi anh về đất
ấy và với câu hỏi nào anh cũng trả lời rằng không. Đất anh nói đã
là không phải bất cứ cái gì tôi nêu ra, vậy thì đất hẳn là hoàn toànkhông. Anh đừng tìm cách bịp tôi nữa.
- Tốt ! Anh đã quả quyết rằng
không có đất liền. Tôi cũng không có cách nào hơn là cứ để anh tiếp
tục tin như anh đã nghĩ. Nhưng một mai, có ai khác hơn tôi và đủ sức
phân biệt cho anh thấy sự sai khác giữa đất và nước, ngày ấy anh sẽ
thấy rằng anh chỉ là một con cá ngốc.
Tâm trạng của con cá này là tâm trạng của một số người thường dựa vào sự
hiểu biết nông cạn của mình, để quan niệm Niết Bàn. Có người nghĩ rằng
Niết Bàn là một trạng thái hư vô tịch diệt luôn; có người nghĩ Niết Bàn là
cảnh Thiên đường như của ngoại đạo; có người lại bảo nếu Niết Bàn không
phải là hư vô tịch diệt mà cũng không phải là Thiên đường, thì Niết Bàn là
một không tưởng.
Niết Bàn không thể là một trạng
thái hư vô tich diệt được. Tam tạng giáo điển chưa bao giờ nói đến cảnh
giới hư vô ấy. Sự hiểu lầm Niết Bàn với hư vô là con đẻ của sự
nghiên cứu thô thiển, nông cạn qua các định nghĩa của Niết Bàn. Nghe
nói Niết Bàn tức là "Diệt", người ta vội tưởng ngay "Diệt"
nghĩa là hoại diệt không có gì tồn tại cả. Người ta không ngờ rằng
"Diệt" ở đây, có nghĩa là diệt nguồn góc đau khổ, phiền não,
mê lầm. mà khi đau khổ diệt thì an vui tất phát sinh, mê lầm diệt thì
sáng suốt tất tỏ lộ.
Như trên đã trình bày, Niết Bàn
có đủ diệu dụng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì sao gọi là hư vô được?
Niết Bàn của Phật cũng không phải
là một cảnh thiên đường như người đời và các ngoại đạo thường
ca tụng. Nguyên nhân của sự hiểu lầm này là do tập quán xem Phật Giáo
cũng như các "thần đạo" khác. Trước khi Phật giáng thế, trong
kinh Vệ đà (véda) của ngoại đạo ở Ấn độ, cũng từ dùng danh từ Niết
Bàn với nhiều định nghĩa khác nhau, tùy theo trình độ hiểu biết cao thấp
của họ. Có đạo cho chết rồi mất hẳn là Niết Bàn; có đạo cho cõi
trời của Dục giới là Niết Bàn; có đạo cho chứng được tánh không
tham ái ở cõi Sơ thiền là Niết Bàn; có đạo cho các định cảnh Không
vô biên xứ; Phi phi tưởng xứ ở cõi trời Vô sắc là Niết Bàn.
Nhưng, với đạo Phật những nơi
ấy còn ở trong vòng tam giới luân hồi. Bởi ở đó chưa diệt được hết
lòng chấp ngã, chấp pháp, còn sống chết theo vọng tưởng sanh diệt, chứ
chưa được rốt ráo như Niết Bàn của Phật.Nói một cách tốm tắt dễ
hiểu, Niết Bàn của đạo Phật là sự thể nhập vào bản thể sáng suốt,
thanh tịnh, đầy đủ các đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. bản thể ấy
không phải chết lặng mà là sống động, có dầy đủ công năng, một sự
sống động vắng lặng, mà kinh thường gọi là "vắng thường soi,
soi mà thường vắng" (tịch nhi thường chiếu, chiếu nhi thường
tịch).
Một học giả tây phương rất thông
hiểu về đạo học Đông phương. O⮧ Ram Linsen đã viết trong quyển Le
Destin du 20 siècle (vận mệnh của thế kỷ hai mươi) như sau về Niết Bàn:
"Niết Bàn không phải tịch nhiên bất động, cũng không phải là cái
trống không, là cái chết mất vô tông vô tích. Niết Bàn là sự thực
chứng cái bản thể của vũ trụ. Không thực chứng được cái bản thể
đó là người còn thiếu sót, là sống một đời sống mất quân bình giữa
xác thịt và tâm linh. Niết Bàn không phải là ngoài cái động. và chính
Niết Bàn mới là nguồn gốc của những việc làm chân chính. Đây là một
sự thật, nhất là đối với Đại Thừa Phật Giáo".
Như thế, Niết Bàn không phải là
một lối không tưởng, viễn vông không thực hiện được. Miễn là tự
tin mình có tánh Niết Bàn và cố gắng tập sống theo tự tánh ấy, thì Niết
Bàn là một kết quả rất thiết thực. Mê muội không tự tin mình có
tánh Niết Bàn là làm phát triển tánh ấy là Thánh giả. Để cho phiền não
tham, sân, si vô minh chấp ngã làm chủ, là luân hồi. Gạn lọc cấu bẩn
phiền não vô minh nơi tâm thức cho hết sạch, như hạn bỏ bùn nhơ noi nước,
cho đến khi ly nước hoàn toán trong suốt, ấy là Niết Bàn hiển hiện.
VIII. MỘT MẪU CHUYỆN
VỀ NIẾT BÀN
Để chứng minh tánh cách triền phược
của phiền não và giải thoát của Niết Bàn trên đây, trong kinh Samitha
Nikaya (Tạp A Hàm) Phật kể một mẫu chuyện như sau:
"Có một tên trộm bị người
ta bắt được đem nạp cho nhà vua. Muốn giam giữ nó, nhà vua ra lệnh dở
nắp rương thả ra bốn con rắn dộc. Con thứ nhất quấn lất tay mặt tội
nhân; con thứ hai quấn lấy tay trái tội nhân; con thứ ba quấn lấy ngang
hông và con thứ tư quấn quanh cổ nó.
Một người đức hạnh đến gần
tội nhân, thấy rõ tình cảnh, liền nói rằng: Người đã bị người ta
giữ gìn cẩn thận, vậy hãy đứng yên, chớ nên cựa quậy mà bị rắn cắn.
Nọc con rắn thứ nhất sẽ là cho thân người cứng đơ như đá; nọc con
rắn thứ hai làm cho thân người tiêu ra như nước; nọc rắn thứ ba làm
cho thân người tan ra như bột và bị gió cuốn đi; nọc con rắn thứ tư
sẽ đốt người cháy như ngọn lửa.
Tên trộm trả lời:
Không phải ! Những con rắn ấy đều
là đồ trang sức của tôi. Đây là đôi vòng của tôi, đây là sợi dây
chuyền cổ và đây là sợi dây lưng.
Người đức hạnh lại dạy nó từ
từ gỡ bốn con rắn ấy, đem bỏ vào trong rương, đậy nắp lại, rồi
mau mau chạy trốn.
Nó làm theo.
Hay tin, nhà vua liền truyền lệnh
cho năm tên lính đuổi theo bắt tên trộm.
Nó ráng chạy được một đổi, lại
gặp người đức hạnh khi nãy hô to:
Người hãy chạy thật mau lên ! Có
năm tên lính đang đuổi theo sau lưng kìa ! Chúng lại thả ra bốn con rắn
độc để rượt bắt người đấy.Khi đã đuối sức, tên trộm liền dừng
chân lại, và thấy phía trước có sáu cái nhà bỏ trống, và bị sáu
tên cướp vào vét sạch của cải.
Sáu tên cướp lại nhập đoàn với
năm tên lính để đuổi bắt nó.
Người đức hạnh lại hô to lên nữa:
Ngưòi ráng chạy mau lên ! Bọn cướp
và lính nhà vua sắp đến nơi. Chúng lại bắt thêm một người bạn thân
của người để dụ người trở về trị tội.
Nhưng chạy được một đỗi, tội
nhân lại gặp một cái biển ngay trước mặt, nên phải dừng chân lại.
Nó hết sức lo âu, vì tại đây không có ghe thuyền chi để thoát thân cả.
Người đức hạnh dạy nó lấy
tám cành cây khô, kết lại thành bè, để bơi đi trốn.
Làm bè xong, nó bơi ra được một
đỗi thì gặp một hòn cù lao. Nó định ghé lên, nhưng dòm ngoái lại phía
sau, thấy quân lính vẫn còn đuổi nà theo. Nó cố sức bơi đến một cù
lao thứ nhì, rồi thứ ba và thứ tư. Nhân dân ở tại chỗ đó liền tôn
nó lên làm vua. Lúc ấy, đoàn người đuổi theo sau nó đều bị tiêu diệt
và nó không còn thấy hình bóng đâu nữa !
Nhà vua ám chỉ cái nghiệp; tên trộm,
ám chỉ người đi tìm đạo; bốn con rắn độc, ám chỉ tứ đại; năm tên
lính, ám chỉ ngũ uẩn; sáu cái nhà bỏ trống sau khi bị cướp, ám chỉ
sáu căn; sáu tên cướp, ám chỉ sáu trần; tám cành cây kết lại thành
bè, ám chỉ bát chánh đạo; bốn cù lao, ám chỉ bốn bực thiền định
hay bốn quả Thánh; lễ tôn vương, ám chỉ sự giải thoát; sự tiêu diệt
của đoàn người đuổi theo sau, ám chỉ sự tan biến của màn vô minh và
sự bẻ gảy bánh xe luân hồi ".
Mẫu chuyện trên nầy ngụ ý rằng:
kẻ phàm phu bị màn vô minh che lấp, đắm mê theo vật dục, nhận khổ
làm vui, nhận xấu là tốt, khác gì kẻ tội trộm nhận rắn độc làm đồ
trang sức. Nếu nó không nhờ nhà tu hành đức hạnh hạy bảo, thì đâu biết
mình đang bị rắn độc bao vây để chạy thoát, và đâu có gắng sức dẻo
dai để bước lên bờ giải thoát.
Chúng sinh khi còn mê lầm, gây nên
tội lỗi, thì giời phút nào cũng bị cầm tù trong đâu khổ, bị trói buộc
vì nghiệp nhân. Nhưng đến khi bước lên bờ giải thoát, được tự tại
thì chẳng khác gì một vị chúa tể.
Bốn cù lao mà tên trộm đến được
trong câu chuyện này, chỉ mới có nghĩa là bốn quả Thánh của hàng Nhị
thừa chưa phải là Niết Bàn rốt ráo, hoàn toàn của chư Phật. Nhưng dù
sao câu chuyện trên cũng cho chúng ta một ý niệm thô thiển về sự tiến
triển của kẻ tu hành đi từ cảnh giới đau khổ, phiền não là cảnh giới
Ta bà nầy, đến trạng thái Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là Niết Bàn.
C. KẾT LUẬN
Nói tóm lại, Diệt đế tức là
chân lý chắc thật nói về quả vị mà một kẻ tu hành có thể chứng
được. Quả vị ấy tức là Niết Bàn.
Nhưng vì sự tu hành có thấp có
cao, có rộng có hẹp, nên quả chứng tức là Niết Bàn cũng có thấp có
cao, có hoàn toàn, có chưa hoàn toàn.
Đối với hàng Tiểu Thừa, thì ba
quả đầu: Tu đà hoàn, tư đà hàm, A na hàm là thuộc về hữu dư y Niết
Bàn, vì phiền não chưa hoàn toàn tuyệt diệu. Chỉ đến quả vị A La Hán
là quả vị mà mọi phiền não đã tuyệt diệt, mới thuộc về Vô dư y Niết
Bàn.
So với Đại Thừa, thì Niết Bàn của
A La Hán cũng còn là Hữu dư y Niết Bàn, vì các vị A La Hán mặc dù phiền
não đã dứt sạch, ngã chấp đã hết, nhưng pháp chấp hãy còn, thấy có
pháp mình tu, có Niết Bàn mình chứng, nên chưa có thể gọi là được Vo
dư y Niết Bàn. Chỉ có Niết Bàn của Đại Thừa mới là Vô dư y Niết Bàn,
vì ở đây đã dứt sạch ngã chấp, pháp chấp, không còn thấy có pháp
mình tu, Niết Bàn mình chứng.
Niết Bàn của Đại Thừa có hai loại:
Vô trụ xứ Niết Bàn của các vị Bồ Tát, và Tánh tịnh Niết Bàn là
chân tánh bản lai thanh tịnh và sáng suốt của vũ trụ, mà các đức Phật
đã thể chứng.
Trên đây kể sơ qua các loại ,
là các quả vị của Diệt đế Niết Bàn mà chúng tôi diễn tả bằng văn
tự ở đây so với Niết Bàn thật, còn xa cách muôn trùng, Nhưng với hoàn
cảnh hiện tại của chúng ta, không có phương tiện nào khác hơn, để trình
bày và tìm hiểu Niết Bàn, thì đành phải dùng văn tự này.
Muốn thấy được Niết Bàn thật,
phải tự mình thân chứng, phải thể nhập Niết Bàn. Muốn thân chứng, thể
nhập Niết Bàn, cần phải tu theo phương pháp mà đức Phật đã dạy trong
phần Đạo đế, là phần mà chúng tôi sẽ trình bày trong những bài sau đây.
Tổng quan
|
Khổ đế |
Tập đế
|
Diệt đế |
Đạo đế