Thanh Biện Luật
sư, người xứ Tây Thiên Trúc, sức học uyên bác, rất thâm về vô
tướng tông. Các ngoại đạo nghe danh, đến vấn nạn đều bị ngài
dùng nghĩa không mà phá tất cả. Có một lần, luận sư gặp một
nhà ngoại đạo nổi tiếng là giỏi, 2 bên tranh biện nhau hơn nửa
ngày, ngoại đạo bị khuất lý mà vẫn cố chấp không chịu thua. Do
đó, tự thân bỗng biến thành đá. Đến 6 tháng sau, nghe sấm nổ
mới phục nguyên lại thành người như trước.
Về sau, ngài xem
bộ luận về Hữu Tướng Tông của Hộ Pháp Đại Sư, đem nghĩa học
của mình đối chiếu vẫn không phá hoại được, mới than rằng: 'Nếu
không phải đức Di Lặc ra đời, thì ai giải quyết được mối nghi
ngờ của ta?' Nhân đó, ngài đến trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát,
tụng chú Đại Bi tùy tâm đà ra ni 3 năm. Một đêm, đức Quán Thế
Âm Bồ Tát, hiện sắc thân tốt đẹp đến hỏi: 'Ngươi tụng chú để
mong cầu điều chi?' Luận sư đáp: 'Con nguyện lưu trụ thân đợi
đến lúc Từ Thị Như Lai ra đời để thưa hỏi về giáo nghĩa'. Bồ
Tát nói: 'Thân người mong manh, cõi đời hư huyễn, sao không tu
thắng hạnh cầu mong lên trời Đâu Suất, chẳng là mau gặp gỡ hơn
ư?' Ngài thưa: 'Đức Di Lặc tuy hiện trụ nơi nội viện cung trời
thứ tư, nhưng chưa thành Phật, vì thế con muốn đợi đến lúc
ngài hiện thành chánh giác nơi cõi nhơn gian. Chí con đã quyết
định, không thể lay chuyển'. Bồ tát bảo: 'Đã như thế, ngươi
nên đi qua thành phía nam xứ Đại An Đạt La, thuộc về miền nam
Thiên Trúc. Cách đó không xa, có một tòa sơn nham, chính là
chỗ ở của thần Chấp Kim Cang. Sau khi đến nơi, ông nên đối
trước sơn nham tụng chú Chấp Kim Cang Thần đà ra ni, sẽ được
toại nguyện'.
Luận sư vâng lời,
đi đến nơi, hành trì như thế. 3 năm sau, thần hiện ra và hỏi:
'Ông cầu nguyện điều chi?' Đáp : Tôi vưng lời đức Quán Thế Âm
Bồ Tát mách bảo, đến đây trì tụng, nguyện lưu thân này sống
mãi đợI đến khi Phật Di Lặc ra đời, xin tôn thần cho tôi được
thành tựu như ý muốn'. Chấp Kim Cang thần bảo: 'Trong sơn nham
này có cung điện của thần A Tu La, ông nên gia trì chú Đại Bi
trong hạt cải trắng, rồi liệng vào thì cửa đá sẽ mở. Sau khi
ấy, ông nên đi thẳng vào trong, sẽ có phương tiện để cho ông
trụ thân lâu dài mà chờ đợi'. Luận sư hỏi: '— trong cung động,
cách biệt ngoài trần, khi Phật ra đời làm sao tôi được biết?'
Thần nói: 'Chừng ấy, tôi sẽ cho ông hay'.
Ngài Thanh Biện
lại y lời, tinh thành tụng chú trong hạt cải 3 năm, rồi liệng
vào sơn nham, bỗng thấy vách đá mở ra, trong ấy hào quang
chiếu sáng. Lúc bấy giờ, có rất đông đại chúng tề tựu đến xem,
bàn bàn luận luận quên cả trở về. Luận sư tướng trạng an lành,
buớc vào cửa đá, rồi day lại nói: 'Tôi nguyện cầu đã lâu, muốn
trụ thân này chờ đức Từ Thị ra đời, nhờ sức thánh linh, bổn
nguyện từ đây đã toại, vậy đại chúng nên theo tôi, để được
ngày kia thấy Phật nghe pháp'. Trong chúng nghe nói sợ hãi,
cho là hang loại độc long, đi vào chắc mất thân mạng. Luận sư
đôi ba phen gọi bảo, chỉ có 6 người chịu đi theo mà thôi. Ngài
từ tạ rồi dẫn 6 người thong thả đi vào trong, cửa đá liền khép
lại.
Lúc ấy đại chúng
ở ngoài thấy vậy hết sức hối tiếc, trách mình đã nghĩ nói lỗi
lầm. (trích Đường Tây Vực Ký)
- Nước Ma Già Đà
xứ Tây Thiên Trúc, có một người phật tử tại gia, tánh ưa sắc
đẹp. Một hôm, nhân xem kinh thấy nói hàng A Tu La, người nam
tuy xấu, nhưng người nữ lại xinh tốt tuyệt bậc, trong lòng
sanh niệm mến thích, ước làm sao cùng được kết mối lương duyên.
Không bao lâu, lại nghe nhiều vị bảo trong núi nọ có cung điện
A Tu La rất nguy nga tráng lệ, báu lạ như thiên cung, liền
quyết tâm trì chú Đại Bi 3 năm, cầu mong được viếng cảnh mầu
để thỏa lòng ước nguyện khi trước.
3 năm đã mãn,
người ấy từ tạ thân hữu, và gọi một tên đệ tử cùng đi theo.
Khi thầy trò đi đến trước núi, chí tâm tụng chú cầu nguyện,
bổng cửa đá vụt mở, trong ấy lộ ra cung điện có quỷ thần canh
giữ cực nghiêm. Vị phật tử liền bước đến nói rõ bổn nguyện của
mình: trì chú muốn kết duyên cùng thần nữ A Tu La, xin nhờ
thông báo, và thỉnh ý giùm. Kẻ giữ cửa vào thưa lại. A Tu La
nữ nghe nói tỏ ý vui đẹp, hỏi: Đi đến có mấy người? Đáp: Thưa
hai người. Thần nữ bảo: Ngươi ra thuật lại ý ta đã thuận.
Thỉnh người trì chú mau vào, còn ông đồng bạn hãy tạm đứng
ngoài cửa. Kẻ giữ cửa ra thưa lại, vị Phật tử liền đi vào
trong.
Nhìn theo thầy
mình đi rồi, người đệ tử còn đang bàng hoàng, bất giác bỗng tự
thấy đã trở về đứng ở phía nam của nhà mình hồi nào không hay.
Từ ấy về sau, ông này đã mấy lần đến chỗ cũ, song chỉ thấy
vách đá đứng sững. Mây khói mịt mù, không còn được nghe biết
tin tức gì bên trong nữa. Nhân đó, người đệ tử phát tâm lìa
nhà tu hành, nguyện trọn đời ở nơi già lam cúng dường ngôi Tam
bảo.
Khi ngài Huyền
Trang sang Ấn Độ du học, đến trụ ở chùa Na Lan Đà, nghe chính
người đệ tử này thuật chuyện lại (trích Tây Quốc Chí).
-Đời nhà Tống,
Huệ Tài pháp sư, người huyện Lạc Thanh, đất Vĩnh Gia, xuất gia
hồi thuở còn bé, sau khi thọ đại giới, ngài đi tham học nhiều
nơi mà không thông hiểu. Tự hận mình nghiệp chướng sâu dày,
pháp sư thường tụng chú Đại Bi cầu cho được trí huệ. Hành trì
đã lâu, bỗng một đêm ngài nằm mộng thấy một vị phạm tăng cao
vài trượng, cởi áo ca sa đắp lên mình. Sau khi thức dậy, pháp
sư thấy tâm trí tỏ sáng, những kinh nghĩa đã nghe từ trước đến
giờ, một lúc đều nhớ rõ ràng thông suốt.
Về sau, ngài tham
yết Từ Vân Sám chủ, hằng theo phục dịch gần bên, chỗ giải ngộ
càng thêm sâu sắc. Niên hiệu Trị Bình năm đầu, ngài trụ ở Pháp
Huệ bảo các, được vua tứ hiệu Quảng Từ. Không bao lâu, pháp sư
lại thối cư về ở bên tháp Lôi Phong, tinh tu về môn Tịnh Độ.
Ngài thường đứng co một chân trì chú Đại Bi 108 biến, lấy đó
làm thường khóa. Lại đứng dở chân 1 ngày 1 đêm niệm thánh hiệu
Di Đà. Một đêm, pháp sư mộng thấy mình đến chỗ cảnh giới sáng
suốt, nhiều cung điện lâu các trang nghiêm, có người bảo: 'Tịnh
độ trung phẩm là nơi thác sanh của ông'.
Mùa xuân niên
hiệu Nguyên Phong năm đầu, ngài vì hàng đạo tục ngàn người,
truyền giới ở Lôi Phong, khi vừa mớì làm phép yết ma, nơi đỉnh
tượng đức Quán Thế Âm bỗng phóng ánh sáng rực rỡ, đèn đuốc
cùng ánh mặt trời thảy đều lu mờ. Ngài Thủ Nhứt Thiền Sư ở
chùa Tịnh Từ vì đó làm bài Giới Quang Ký.
Ngày 21 tháng 5
niên hiệu Nguyên Phong thứ 6, pháp sư tắm gội thay y phục lên
giảng tòa, đề bài kệ khen Phật, rồi bảo đại chúng: 'Ta chắc
chắn được sanh về Tịnh Độ', nói xong, ngồi yên lặng mà tịch,
thọ được 86 tuổi. (trích Phật Tổ Thống Ký)
- Đời nhà Thanh,
Ngô doãn Thăng người ở Huy Châu, huyện Hấp, lúc tuổi trẻ
thường qua lại buôn bán ở 2 châu Tô, Hàng. Một hôm, nhân có
dịp đi qua Hồ Khâu, tình cờ gặp vị tăng đang hóa trai. Vị này
nhìn chăm chú vào mặt ông một lúc lâu rồi nói: Ngươi cũng có
căn lành, nhưng tiếc vì đến lúc 29 tuổi bị nạn chết đắm. Biết
làm sao? Doãn Thăng sợ quá, cầu phương pháp giải thoát. Vị
tăng trầm ngâm giây phút rồi bảo: Từ đây về sau, ngươi nên
giới sát, phóng sanh, niệm Phật và trì chú Đại Bi, may ra có
thể khỏi được. Ngô Doãn Thăng y lời, về nhà trì chú, niệm Phật
và thường lấy đó khuyên người.
Qua năm 29 tuổi,
ông thuê thuyền từ Hàng Châu về quê quán, bạn đồng hành có 16
người. Thuyền ra đi được vài mươi dặm, bỗng gió to sóng lớn
nổi lên, thế rất nguy cấp. Doãn Thăng chợt nhớ lời vị tăng nói
khi trước, vộI vã chắp tay tụng chú, niệm Phật. Giây phút
thuyền chìm, tất cả người đi trong ấy đều bị sóng gió trôi
giạt. Trong lúc hôn mê, ông bỗng nghe tiếng nói: Ngô Doãn
Thăng có công trì chú niệm Phật và khuyên người, được khỏi tai
nạn này! Mở mắt tỉnh ra, nhìn xung quanh, ông thấy mình đã
được dân chài lưới vớt lên bờ, y phục ướt đẫm, mũ giày đều bị
nước cuốn đi mất, duy nơi tay còn cầm chắc xâu chuỗi 18 hột
thường dùng để tụng niệm hằng ngày. Hỏi ra, thì 16 người kia
đã bị nước cuốn đi không tìm thấy tung tích.
Từ đó về sau, ông tin tưởng công đức niệm phật, trì chú không
thể nghĩ bàn, từng dùng hương viên đốt nơi cánh tay thành bốn
chữ 'cầu sanh Tây phương'. Khi gặp ai ông cũng nói lý nhân quả,
khuyên việc tu hành. Có được tiền, ông làm những công đức: tạo
tượng, cất chùa, phóng sanh, bố thí, cùng các việc phước thiện
khác. Danh lành của ông càng lúc càng truyền xa, cho đến tại
vùng Hàng châu, tên Ngô Doãn Thăng đàn bà, trẻ con đều biết..
Ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Đạo Quang thứ 9, khi lâm
chung, ông giữ chánh niệm phân minh, tự nói: 'Tôi thấy vô số
Bồ Tát đi kinh hành ở trước mặt tôi' Nói xong, ngồi yên mà qua
đời, năm đó ông được 66 tuổi (trích Nhiễn Hương Tục Tập)
-Thời Trung Hoa Dân Quốc, ở Thai Châu có vị tăng hiệu Thích
Kim Trược, xuất gia nơi chùa Diên Thọ hồi 8 tuổi, đến 20 tuổi,
thọ đại giới tại chùa Quốc Thanh. Trên đường tu hành, vị đại
đức thầy thế độ của ông, chỉ khuyên tụng chú Đại Bi và trì
thánh hiệu Quán Thế Âm, y lời mỗI ngày sư tụng chú 48 biến,
ngoài ra chỉ chuyên tâm niệm thánh hiệu không cho gián đoạn.
Trì tụng lâu ngày, những thói quen trần nhiễm lúc trước lần
lần tiêu mòn, tâm tánh lần lần tỉnh sáng, ông xem danh lợi
cuộc đời như mây bay bọt nước. Sư thường vì người trị bịnh rất
là hiệu nghiệm, nhưng không thọ tiền thù đáp. Có nhiều kẻ cầu
hỏi xin truyền cho phương pháp, ông bảo: 'Tôi chỉ trì chú Đại
Bi và niệm Quán Thế Âm mà thôi'. Trong năm Mậu Thìn (dân quốc),
sư trụ ở một am nhỏ, ban đêm bị ăn cướp vào khảo tiền. Sau khi
chúng xét khắp am, thấy không có chi, nổi giận, đâm ông một
dao ở tay mặt và hai dao ở bên trán. Thương thế tuy nặng,
nhưng sư không chết. Vết đâm cũng dần lành, để lại ba dấu thẹo
lớn ăn sâu vào. Đây cũng là nghiệp trái nhiều kiếp, do công
đức trì niệm, nên chuyển quả báo nặng thành ra quả nhẹ ở hiện
đời. Mùa hạ năm Kỷ Tị, sư đến Ninh Ba định an cư ở chùa A Dục
Vương, nhưng vì số dự chúng đã đủ, mấy lần xin gia nhập, cũng
không được hứa nhận. Chưa biết sẽ đi về đâu, ông ngồi tĩnh tọa
trọn nửa ngày, không có lời hờn trách, sắc oán hận. Vị giám tự
tăng thấy thế, đưa sư đến tạm ở nơi Dưỡng tâm đường. Ngày mãn
hạ, vị tăng quản đường lại theo quy lệ, không cho ở. Sư bảo: 'Chẳng
bao lâu tôi sẽ sanh về Tây phương, xin từ bi cho tôi lưu lại
trong một thời gian ngắn nữa'. Đến ngày 19 tháng 10, sư nói
với đại chúng rằng: 'Trong vòng 3 hôm nữa, tôi sẽ thoát ly
biển khổ, sanh về Cực Lạc, xin khuyên bạn đồng tu thành tâm
trì chú niệm Phật hoặc niệm Quán Âm, quyết định sẽ được vãng
sanh. Vì Phật không bao giờ nói dối'. Lại bảo đức Quán Thế Âm
Bồ tát tay cầm đài bạc thường hiện ở trước tôi'. Chúng cho là
lời nói phô, tỏ vẻ không tin. Qua ngày 21, trước giờ ngọ, sư
đắp y len chánh điện lễ Phật, lại đến trước vị tăng quản đường
từ tạ, nói sau giờ ngọ thời mình sẽ vãng sanh. Lúc ấy, mọi
người còn cho là lời nói dối. œến giờ ngọ, sư cùng đại chúng
thọ trai, ăn đủ hai chén như mọi ngày không giảm. Lại bảo bạn
đồng liêu rằng: 'Theo quy lệ của nhà chùa, người chết đưa thi
hài vào núi sâu, tiền công khiêng đi phải bốn giác. Nay tôi
không có vật chi, chỉ còn đôi dép, xin phụng tặng, nhờ thầy lo
liệu giùm việc ấy'
Quả nhiên, sau
thời ngọ một giờ, sư ngồi day mặt về Tây, an ổn mà hóa. (trích
Du Huệ Úc Sao Tập)
- Ấn Quang đại sư,
một vị cao tăng cận đại ở Trung Hoa, thuở sanh bình, hết sức
tự tu và hoằng hóa pháp môn tịnh độ, thường khóa của ngài
ngoài thời niệm Phật chánh thức, lại kiêm trì chú Đại Bi. Đại
sư tu hành tinh tấn, sức từ bi cảm hóa đến hàng dị loại.
Năm Dân quốc thứ
19, ngài trụ ở chùa Báo Quốc, tại Thái Bình, trong tịnh thất,
bỗng sanh ra vô số rệp, nhiều cho đến nỗi nó bò lên song cửa,
trên mặt bàn. Có mấy vị đệ tử lo nghĩ đại sư già cả, không
kham chịu sự quấy nhiễu, đôi ba phen xin vào trong thất dọn
bắt. Ngài không cho và bảo: 'Việc này chỉ trách mình kém đạo
đức mà thôi. Thuở xưa một vị cao tăng cũng bị loài rệp phá rối,
chịu không kham. Quở bảo nó phải dời đi nơi khác, chúng liền
đem nhau bò đi. Nay ta tu trì bất lực, nên không được sự cảm
ứng như thế, lại còn nói gì?' Rồi đại sư vẫn an nhiên mà ở,
không để ý đến. Ít lâu sau, loài rệp bỗng nhiên tuyệt tích,
ngài cũng không nói cho ai biết. Lúc ấy, gần tiết Đoan Ngọ,
Đức Sum pháp sư chợt nhớ đến việc trước hỏi thăm, ngài bảo: 'đã
đi hết từ lâu, không còn con nào nữa'. Pháp sư cho là ngài lớn
tuổi, mắt mờ yếu nên không thấy, quyết ý xin vào trong xem lại,
quả nhiên chúng đã đi đâu hết sạch. Hay là nó cũng vì ngài dời
chỗ ư?
Đại sư thường gia
trì chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng
bịnh mà các y sư đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng. Một ngày,
nơi lầu Tàng Kinh của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại
sư ở trong thất, nghe nói, liền trì chú vào nước bảo rưới lên
chú nguyện, loài mối cũng kéo nhau đi mất.
Những đệ tử ở xa
bị bịnh dây dưa không hết, ngài khuyên nên trì chú vào gạo nấu
ăn cho đến chừng nào hết bịnh mới thôi. Phương pháp đó gọi là
Đại Bi Phạn. Cách nấu cơm, theo đại sư, nên khéo nấu gạo nước
cho vừa chừng, đừng đổ nước nhiều rồi chắt ra, vì như thế đã
hao củi lại mất chất bổ trong cơm, làm phí phạm của tiền mà
tổn phước. Thuở còn nhỏ, ngài hay đau yếu, có người giỏi về
tướng pháp cho rằng chỉ thọ đến 38 tuổi là cùng. Nhưng sau đại
sư sống khoẻ mạnh đến 80 tuổi mới vãng sanh. Người chí tâm tu
niệm hay cải đổi số mạng. Việc ấy quả có như thế ư? (trích Ấn
Quang Đại Sư truyện ký)
Lời bạt:
Đời càng đi sâu
vào mạt pháp, sự khổ của nhơn loại càng thêm nhiều. Đó cũng là
cộng nghiệp của chúng sanh chứa góp từ nhiều kiếp trước đến
kiếp này, đã tới kỳ bộc phát. Túc nghiệp đã sẵn, hiện nghiệp
lại giúp duyên, như lửa gặp được dầu càng thêm lan cháy!
Thế giới ngày
nay, chiến tranh hết nơi này đến nơi khác, nhiều chứng bịnh lạ
nảy sanh, trộm cướp hoành hành, nhơn dân nghèo khổ. Mỗi năm
những tin tức bão lụt, động đất, nắng hạn, mất mùa, ở khắp các
xứ không biết là bao nhiêu! Cảnh đã như thế, con người phần
nhiều càng hung ác, gian xảo, không biết tỉnh thức ăn năn.
Những thảm trạng do lòng tham địa vị, tình ái, tiền tài, kết
quả gây ra tàn hại lẫn nhau cũng không xiết kể!
Kinh Hoa Nghiêm
nói: 'Tâm như người họa khéo, vẽ vời cảnh thế gian'. Cảnh đời
vui khổ đã do hành vi lành dữ phát sanh từ tâm niệm của loài
người thì muốn làm dịu bớt thảm trạng ngày nay, mỗi người phải
tự tỉnh, ăn năn, giữ tám chữ: trung, hiếu, đễ, tín, lễ, nghĩa,
liêm, sỉ và tấm lòng chân thật ngay thẳng, biết thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau. Ngoài ra, muốn tiêu trừ nghiệp chướng, tránh
khỏi họa tai, người biết Phật pháp lại cần phải cầu nơi tha
lực như tu các hạnh niệm Phật, niệm Quán Thế Âm hoặc thọ trì
mật chú nữa. Xem kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà Ra ni, tôi thấy
những công đức an vui, thoát khổ trong ấy rất cần thiết đối
với hiện cảnh ngày nay, nhân có một Phật tử yêu cầu phiên dịch,
tôi liền vui lòng hứa nhận.
Theo trong Hiển Mật Viên Thông, người tu Chân ngôn về sắc trần
cần phải rõ rệt, như quán nước phải ra nước, quán lửa phải ra
lửa, chớ không thể khác được. Riêng về thinh trần thì dù tiếng
tăm đọc tụng có trại với Phạm Âm đôi chút cũng không sao, miễn
có lòng tin tưởng chí thành là được công hiệu. Vì thế, từ
trước đến nay, hàng Phật tử ở Trung Hoa cho đến VN ta, khi đọc
tụng chú, thật ra đều trại với chánh âm, song vẫn cảm được oai
thần công đức không thể nghĩ bàn. Vậy người học Phật, muốn trì
chú, đừng lấy điểm này làm nghi, mà mất phần lợi ích.
Lại từ trước đến
nay, chú ngữ không phiên dịch vì 5 duyên cớ:
1. Vì tâm niệm bí
mật nên không phiên dịch.
Như chúng sanh
dùng tâm yên lặng, tin tưởng, thành kính mà niệm chú, tất sẽ
khế hợp với chân tâm của Phật, Bồ Tát mà được cảm ứng. Nếu
biết nghĩa lý thì dễ sanh niệm phân biệt, cho đoạn này nghĩa
như vầy, đoạn kia nghĩa như thế, kết cuộc vẫn ở trong vòng
vọng tưởng, làm sao thông cảm với Phật tâm?
2. Vì nghĩa lý bí
mật nên không phiên dịch.
Trong một chữ
chân ngôn có nhiều nghĩa, nếu dịch nghĩa này thì mất nghĩa kia.
Không được toàn vẹn. Thí dụ, riêng một chữ A đã hàm súc những
nghĩa như bất sanh, bất diệt, không, căn bản, chân thể, và
nhiều nghĩa khác nữa.
3. Vì danh tự bí
mật nên không phiên dịch:
Nhiều chữ trong
chân ngôn, hoặc chỉ cho danh hiệu Phật, Bồ Tát, Thiên, Long,
Quỷ Thần, như chữ Hồng gồm 4 chữ Hạ, A, Ô, Ma hiệp thành, chỉ
cho chủng tử của chư thiên. Hoặc có thứ ở phương này không có,
như danh từ Diêm Phù thọ chẳng hạn.
4. Vì âm thanh bí
mật nên không phiên dịch:
Các chữ chân ngôn
có khi diễn tả âm thanh của tiếng gió reo, nước chảy, tiếng
loài chim kêu, đọc lên có sức linh động, nên để nguyên âm. Thí
dụ: câu tô rô tô rô là chỉ cho tiếng lá cây ở cõi Phật rơi
xuống. Hoặc như chữ Án (Aum), đọc lên có năng lực thầm kín,
làm rung chuyển không gian. Hay như chữ Ta Bà Ha (svaha) có
sức truyền cảm như một sắc lịnh. Lại có nhiều danh từ nguyên
chữ Phạn sẵn từ trước đến nay, vì thuận theo xưa, nên không
dịch ra.
5. Vì sự sanh
thiện bí mật nên không phiên dịch.
Như danh từ bát
nhã, người đọc lên sanh lòng tin tưởng, phát ra niệm lành, nếu
dịch là trí huệ thì sanh lòng khinh thường, không quí trọng.
Trên đây là những
nguyên nhân vì sao chú ngữ không dịch ra, chớ chẳng phải là
không có ý nghĩa. Người học Phật phải nên xét nghĩ, chớ vội
theo chỗ thấy hiểu cạn hẹp của mình, sanh lòng khinh mạn mà
mang tội.
Lại trong kinh có
câu: 'Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả'. Vậy
tụng trì đúng pháp là sao? Trong đây xin chia ra hai phương
diện:
a. Về mặt giữ gìn
giới hạnh: Người trì chú cần phải giữ trai giới, trừ sát, đạo,
dâm, vọng, kiêng cữ rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi cùng các thức ăn
hôi hám. Thân thể thường phải năng tắm gộI, thay đổi y phục
cho sạch sẽ, chớ để trong người có mùi hôi. Khi đại tiểu xong,
phải rửa tay đọc chú. Trước khi trì chú phải súc miệng cho
sạch. Lại nữa, trong thời gian kiết thất trì chú, người ấy chớ
nên nói chuyện hí hước tạp nhạp, không nên khởi tâm hờn giận,
hoặc tham tưởng sự ăn uống ngủ nghỉ hay sự dục lạc ngoài đời.
Phải giữ lòng thanh tịnh, tin tưởng, thành kính.
b. Về mặt lập đàn
tụng niệm:
Theo đúng pháp,
người trì chú nào phải thờ vị Bổn Tôn của chú ấy. Như trì chú
Đại Bi thì phải thờ tượng Thiên Nhãn, hoặc tượng Quán Âm 24
tay, 18 tay, 8 tay, 4 tay hay ít lắm là tượng Quán Âm thường
cũng được. Nên để tượng day mặt về phương Tây. Theo quyển Bách
Lục Thỉnh Quán Âm Nghi thì nếu có tượng Bổn Sư nên để tượng
Thích Ca hướng về phương Nam, tượng Quán Âm hướng về phương
Đông. Đàn tràng nên lựa chỗ vắng lặng sạch sẽ, thường dùng
hương, hoa, nước trái cây, cùng các thứ ăn uống cúng dường tôn
tượng. Nếu có phương tiện, treo tràng phan, bảo cái lại càng
tốt. Thời gian cầu nguyện hoặc 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày nên
giữ cho đúng. Trước khi vào đàn, phải kiết giới y như kinh đã
chỉ dạy. Trong một ngày đêm, chia ra làm 3, 4 hoặc 6 thời,
tụng niệm tiếp tục, tiếng tụng cần phải rành rẽ, rõ ràng.
Ngoài ra, nghi thức lễ bái, trì niệm cũng cần phải biết và học
thuộc trước.
Trên đây là nói
về cách lập đàn kiết giới tụng niệm để cầu cho được mau hiệu
nghiệm, nếu người thường tụng trì, không bắt buộc phải theo lệ
ấy. Nhưng trong 2 phương diện trên, gắng giữ được phần nào lại
càng hay.
Chúng sanh căn cơ,
tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng
chia ra vô lượng, dịch ra quyển này, tôi chỉ kính vâng theo bi
nguyện của chư Phật, Bồ Tát, và thuận với sự mong cầu, thích
hợp của hành nhơn mà thôi. Nếu vị nào lấy tâm Bồ Đề làm nhân,
tùy theo chí nguyện, lựa một pháp môn tu đều có thể giải thoát.
Nhưng, chúng sanh đời mạt pháp, phần nhiều là hàng trung, hạ,
ít có bậc thượng căn, cần nương nhờ nơi tha lực mới mong được
kết quả chắc chắn. Tịnh tông và Mật Tông đều thuộc về tha lực
pháp môn, mà Tịnh tông lại là chỗ quy túc cho các tông khác.
Nguyện xin các đồng nhơn, từ đây dứt dữ làm lành, tin sâu lý
nhân quả, rồi hoặc chuyên niệm Phật, hoặc lấy niệm Phật làm
chánh, tụng kinh, trì chú, tham thiền làm trợ, để tự tu và
khuyên người. Như thế mới là mưu hạnh phúc cho chính mình, cho
thân nhơn và tất cả sanh loại. Như thế mới có thể chuyển họa
thành phước, đổi cảnh trạng thống khổ trước mắt thành cảnh
giới an ổn, vui tươi. Để rồi ngày lâm chung, lại được cùng
nhau chân bước lên chín phẩm liên đài, thân ra khỏi 3 ngàn thế
giới, thấy Di Đà trong hiện kiếp, chứng đạo giác nơi tương lai.
Như vậy chẳng quý hơn ư?
Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Việt dịch: HT
Thích Thiền Tâm.
|